Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Tình trạng nghèo đói ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần đây và một số kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.6 KB, 72 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đối với tất cả các nước trên thế giới, đói nghèo luôn là vấn đề được xã
hội quan tâm. Ở các nước phát triển, dù có mức sống cao song vẫn luôn tồn
tại tình trạng phân hóa giàu nghèo. Còn ở những nước đang phát triển với thu
nhập trung bình và thấp, trong đó bao gồm Việt Nam, thì một bộ phận không
nhỏ dân cư vẫn sống ở mức nghèo khổ, đặc biệt còn có những người sống
trong hoàn cảnh rất khó khăn vẫn phải chịu tình trạng thiếu đói, không đủ ăn
trong khi đây là nhu cầu thiết yếu của con người.
Mức độ đói nghèo cũng có sự chênh lệch khác nhau giữa các vùng
miền trong cả nước do những đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội. Trong đó, đói nghèo ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa
trầm trọng hơn các khu vực miền xuôi. Tình trạng đó đã gây ảnh hưởng rất
xấu tới chất lượng cuộc sống nhân dân vùng núi. Trong những năm gần đây,
Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm, nhiều chủ trương chính sách tích cực
giúp xóa đói giảm nghèo cho vùng núi và đã đạt những kết quả nhất định.
Song trên thực tế, tình hình đói nghèo nơi đây vẫn còn khá nghiêm trọng bởi
những chính sách này chưa thật sự hoàn thiện và phù hợp với tình hình địa
phương, và do đó sự tác động của chúng tới việc khắc phục đói nghèo miền
núi chưa thật sự hiệu quả. Xuất phát từ thực tế đó, ở đây, bài viết với đề tài:
“Tình trạng nghèo đói ở vùng núi phía bắc nước ta trong những năm gần
đây và một số kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi
của Nhà nước” đi vào nghiên cứu thực trạng nghèo đói ở miền núi phía bắc
Việt Nam trong những năm gần đây như một ví dụ điển hình cho đói nghèo ở
vùng núi nói chung, từ đó đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của các
chính sách xóa đói giảm nghèo cho vùng núi của Nhà nước để đưa ra những
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy tác dụng của các chính sách có ý
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
nghĩa thiết thực này.
Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, nội dung của chuyên đề được kết cấu
thành ba chương:
- Chương I: Những vấn đề chung về đói nghèo


- Chương II: Thực trạng đói nghèo, xóa đói giảm nghèo cho dân tộc
thiểu số ở Việt Nam
- Chương III: Giải pháp tăng cường xóa đói giảm nghèo đối với dân tộc
thiểu số ở Việt Nam
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐÓI NGHÈO
I. Những khái niệm cơ bản
1. Đói nghèo là gì ? - Các cách tiếp cận về nghèo đói trên thế giới và Việt
Nam
Trên thế giới tồn tại nhiều định nghĩa về đói nghèo. Nhìn chung, trên bình
diện quốc tế, hai khái niệm “đói” và “nghèo” thường được gộp chung thành
khái niệm “đói nghèo” và được hiểu như là “nghèo khổ”. Đó là tình trạng
thiếu “một cái gì đó” ở mức tối thiểu cần thiết. Sự cụ thể hóa “cái gì đó” đã
hình thành nên những cách tiếp cận khác nhau về nghèo đói. Có thể tập hợp
các quan niệm về nghèo đói trên thế giới vào bốn cách tiếp cận cơ bản sau
đây:
a. Cách tiếp cận tiền tệ:
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, cách tiếp cận tiền tệ thường được sử dụng kết
hợp với ngưỡng nghèo (sẽ được giải thích trong phần 1.2.a) và dựa trên chỉ
tiêu thu nhập hoặc tiêu dùng để quy cho đói nghèo một giá trị tiền tệ. Những
người có thu nhập nằm dưới ngưỡng nghèo thì được coi là nghèo.
Đại biểu cho cách tiếp cận này là Martin Ravallion, coi tình trạng đói
nghèo của một xã hội là tình trạng một hay nhiều cá nhân trong xã hội đó
không có được một mức phúc lợi kinh tế cần thiết để đảm bảo cuộc sống tối
thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. “Cái gì đó”, theo ông, chính là
“mức phúc lợi kinh tế”, thường được đo lường bằng mức sống mà chỉ tiêu
quan trọng nhất là thu nhập, đặc biệt là thu nhập từ tiền mặt. Ngoài ra còn có
thể đo lường qua giá trị của lượng hàng hóa và dịch vụ được tiêu dùng bời
một hộ gia đình có xem xét tới quy mô và thành phần nhân khẩu của hộ gia

SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
đình đó
1
.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO cũng định nghĩa nghèo theo tiêu chí thu
nhập. Theo đó, một người được coi là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn
một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm của quốc gia (chỉ
số Per Capita Income, PCI).
2

Cách tiếp cận này có ưu điểm là dễ đo lường vì số lượng tiền tệ dễ xác
định, vì vậy nó được sử dụng khá phổ biến mặc dù chỉ xem xét đói nghèo
theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm ở chỗ nó dựa vào giả thiết
người nghèo sử dụng thu nhập của mình theo cách hiệu quả nhất để mua
những hàng hóa như thực phẩm, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế ở mức cơ bản
chứ không bao gồm những hàng hóa mà không thật sự thiết yếu cho cuộc
sống. Ngoài ra, thu nhập thực tế của người nghèo có thể dao động lên trên
hoặc xuống dưới ngưỡng nghèo ở những thời điểm khác nhau do nhiều yếu tố
tác động nên có khi họ được coi là người nghèo, có lúc không.
Như vậy, với quan niệm của trường phái này thì để loại bỏ đói nghèo,
các biện pháp xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cần định hướng vào mục đích
tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người nghèo như tạo công ăn việc làm,
cải tiến nâng cao năng suất lao động.
Sở dĩ cách tiếp cận tiền tệ được cho là chỉ tìm hiểu đói nghèo theo
nghĩa hẹp bởi trên thực tế, những nhu cầu của con người không chỉ bao gồm
yếu tố vật chất, thu nhập mà còn gồm nhiều yếu tố phi tiền tệ khác. Đói nghèo
còn được biểu hiện ở phương diện tinh thần hoặc những hình thái trừu tượng
khác không thể lượng hóa thành tiền - những nhu cầu bậc cao hơn của con
người - không được đáp ứng. Hiểu đói nghèo theo ý nghĩa này được gọi là đói
nghèo theo nghĩa rộng. Với cách hiểu này, chúng ta có ba cách tiếp cận khác

1
Martin Ravallion, Poverty Comparisons, Fundamentals of Pure and Applied Economics,
Harwood Academic Publishers, 1994
2

SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
về đói nghèo.
b. Cách tiếp cận về năng lực:
Cách tiếp cận về năng lực chú trọng vào sự tự do của con người và một
cuộc sống có giá trị thì định nghĩa đói nghèo là sự thất bại trong việc đạt tới
những khả năng, năng lực cơ bản và tối thiểu trong cuộc sống.
Nhà kinh tế học người Ấn Độ Amartya Sen cho rằng: sự phát triển cần
được nhìn nhận như sự mở rộng năng lực của con người chứ không phải là
việc tối đa hóa độ thỏa dụng hay thu nhập bằng tiền. Ông nhấn mạnh vào
năng lực, khả năng của mỗi con người và phát biểu: “giá trị cuộc sống của
con người là khả năng mà con người có được, là quyền tự do đáng kể mà họ
được hưởng để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn, gồm: đủ dinh
dưỡng, sức khỏe tốt, tránh được nguy cơ tử vong sớm, được tôn trọng, có
tiếng nói và quyền lực...”
3
.
Chỉ số HPI (chỉ số nghèo khổ con người) do Liên Hợp Quốc đưa ra
(xem I.1.2.4) cũng dựa trên cơ sở cách tiếp cận về năng lực để phản ánh đói
nghèo theo ba yếu tố năng lực điển hình là tuổi thọ, hiểu biết và mức sống.
Trên thực tế, rất nhiều nhà học giả đã cố gắng liệt kê đầy đủ các năng lực mà
con người hướng tới trong cuộc sống song hầu như chưa có nghiên cứu nào
bao quát được tất cả bởi tính đa dạng và phong phú của chúng. Ở đây, tác giả
xin dẫn ra danh sách các đặc trưng cần thiết cho một cuộc sống đầy đủ do
Nussbaum đề xuất:
4

Hình I.1: Những đặc trưng của một cuộc sống đầy đủ (Nussbaum)
3
Amartya Sen, Phát triển là tự do, New York, 1999
4
M. Nussbaum, Women and Human Development: A study in Human Capabilities,
Cambridge University Press, 2000
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
a. Tuổi thọ bình thường
b. Sức khỏe tốt, dinh dưỡng đầy đủ
c. Có nhà ở
d. Sự toàn vẹn về thể chất, hoạt động và quyền lựa chọn sinh sản
e. Trí tưởng tượng, cảm xúc, suy nghĩ được truyền thụ qua giáo dục
f. Lập kế hoạch cho cuộc sống
g. Hòa nhập với xã hội, được bảo vệ khỏi sự kỳ thị và phân biệt
h. Được tôn trọng
i. Quyền lợi về mặt chính trị và mặt vật chất
Như vậy, có thể dễ dàng thấy rằng vấn đề thu nhập được đề cập đến
trong cách tiếp cận tiền tệ chỉ là một phần trong số các yếu tố năng lực, và vì
vậy, cách tiếp cận đói nghèo trên phương diện năng lực của con người có ưu
điểm là phản ánh đầy đủ, sâu sát và chính xác hơn tình trạng nghèo đói của
con người. Bởi thế, đây là cách tiếp cận về đói nghèo được sử dụng rộng rãi
nhất về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không phải là không có
nhược điểm, mà nhược điểm đó được thể hiện rõ nhất ở mặt áp dụng trong
thực tế để nghiên cứu về đói nghèo. Điểm yếu của cách tiếp cận này là khó
xác định được đầy đủ số lượng cũng như mức độ của các khả năng để đánh
giá tình trạng nghèo khổ trong thực tiễn. Thực tế, việc đo lường đói nghèo
theo cách hiểu này thường chỉ sử dụng một số khả năng cơ bản dễ được định
lượng như cách tính chỉ số HPI của Liên Hợp Quốc được đề cập đến ở trên.
Tương tự với quan điểm của Amatya Sen về các khía cạnh của đói
nghèo, Bob Baulch đã đưa ra sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về nghèo đói

5
như sau:
5
Bob Baulch,“Poverty, Policy and Aid” article, the IDS Bulletin Volume 27 Number 1,
1996
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Hình I.2: Sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về đói nghèo của Bob Baulch
1. Tiêu dùng
2. Tiêu dùng + Tài sản
3. Tiêu dùng + Tài sản + Con người
4. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH
5. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH + Chính trị
6. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH + Chính trị + Bảo vệ
(Trong đó:
Tiêu dùng là thu nhập/tiêu dùng
Tài sản là tài sản tự nhiên : đất đai, của cải vật chất, khả năng tài chính
Con người là giáo dục, kỹ năng, sức khỏe ...
Văn hóa xã hội là hệ thống các mối quan hệ xã hội
Chính trị là khả năng tham gia và trao quyền
Bảo vệ là khả năng chống đỡ và giảm thiểu rủi ro)
Tuy chưa có được một định nghĩa về đói nghèo thống nhất theo cách
tiếp cận về năng lực, song từ các quan niệm kể trên, Ngân hàng thế giới đã
đưa ra một cách hiểu về đói nghèo bao gồm tương đối đầy đủ những khía
cạnh cơ bản:
6
- sự khốn cùng về mặt vật chất, được đo lường qua mức thu nhập bấp
bênh
- bị giới hạn về sức khỏe thể chất
- năng lực, hiểu biết bị kìm hãm
- sự phân biệt về giới tính

6
The World Bank, Voices of the Poor, 2002
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
- dễ gặp nguy cơ bị tổn thương và rủi ro do thiếu sự bảo vệ, bị lạm
dụng bởi các thế lực và gặp phải các vấn đề trong giao tiếp với xã hội
- các tổ chức cộng đồng đại diện yếu
Theo quan điểm này, các chính sách XĐGN cần đi theo hướng tạo ra
những cơ hội cho người nghèo để họ được tự do phát huy năng lực của mình
để hướng tới một cuộc sống sung túc theo mong muốn của riêng họ.
3. Cách tiếp cận về sự loại trừ mang tính xã hội:
Một cách tiếp cận khác về đói nghèo theo nghĩa rộng là cách tiếp cận
về sự loại trừ mang tính xã hội. Sự loại trừ mang tính xã hội là việc các cá
nhân hay nhóm người, một phần hoặc hoàn toàn, bị ngăn chặn khỏi sự tham
gia vào xã hội mà họ sinh sống. Townsend định nghĩa sự tước đoạt theo ý
nghĩa đói nghèo là tình trạng con người bị loại ra khỏi lối sống, tục lệ và hoạt
động của xã hội
7
. Nguyên nhân của việc này thường xuất phát từ những đặc
điểm riêng của nhóm người trong xã hội đó như người già, người tàn tật,
người thuộc dân tộc, chủng tộc khác… Atkinson xác định một ảnh hưởng
quan trọng của sự loại trừ xã hội là tính động lực
8
: do một số bất lợi từ đói
nghèo mà người nghèo bị cô lập khỏi xã hội, tình trạng đó càng làm cho họ
mất đi những cơ hội để thỏa mãn tình trạng thiếu thốn của mình và để thoát
nghèo, do đó càng trở nên bất lợi, càng bị loại trừ, và bởi thế càng trở nên
nghèo đói hơn nữa. Nói chung, cách tiếp cận này tuy mở rộng một cách xem
xét mới về đói nghèo song được sử dụng ít phổ biến do tính tương đối (chỉ
xảy ra ở một số cộng đồng xã hội nhất định) và rất khó đo lường.
4. Cách tiếp cận mang tính tham gia:

7
Peter Townsend, Poverty in the United Kingdom, Harmondsworth, 1979
8
A.B.Atkinson, Social Exclusion, Poverty and Unemployment, in: A.B. Atkinson & J. Hills
(Eds), Exclusion, Employment and Opportunity, CASE Paper 4, London School of
Economics, Centre for Analysis of Social Exclusion, 1998
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Trong khi cách tiếp cận tiền tệ và cách tiếp cận theo năng lực - khả
năng bị chỉ trích là chỉ mang ý kiến của người “ngoài cuộc”, không chứa đựng
cách nhìn nhận về đói nghèo của chính những người nghèo thì cách tiếp cận
mang tính tham gia do Chambers khởi xướng
9
đã khắc phục được những hạn
chế này. Cách tiếp cận này khuyến khích người nghèo tham gia vào việc ra
quyết định và đánh giá thế nào là đói nghèo, mức độ ảnh hưởng quan trọng
đến cuộc sống của chính họ và họ cần phản ứng lại như thế nào đối với đói
nghèo. Mục đích của nó là giúp cho người nghèo có thể chia sẻ, phân tích và
tăng thêm hiểu biết về cuộc sống và điều kiện sống để họ lập được kế hoạch
hành động cho mình. Cách tiếp cận này nhìn vào đói nghèo từ nhiều phương
diện: xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị và phòng vệ, và do đó, nó cung cấp
một cái nhìn đa dạng, nhiều mặt về đói nghèo. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn
chế, nó thường chỉ được sử dụng bổ trợ cho những nghiên cứu sâu hơn về đói
nghèo như các “Báo cáo về Đói nghèo” và ấn phẩm “Tiếng nói của người
nghèo” của Ngân hàng Thế giới. Hạn chế đầu tiên là do tính chất tham gia của
người nghèo vào việc đánh giá đói nghèo, cách tiếp cận này không chỉ ra
được cách giải quyết khi có sự khác nhau trong cách nhìn nhận của những đối
tượng khác nhau: phụ nữ và nam giới, những người theo trường phái truyền
thống và trường phái hiện đại, những cộng đồng nghèo khác nhau… Lí do
thứ hai, do sự yếu thế của người nghèo trong xã hội, chưa chắc đã có thể
khẳng định họ dám nói lên những suy nghĩ của mình một cách trung thực và

đầy đủ. Thứ ba, đánh giá của một người nghèo, chỉ giới hạn trong tình cảnh
nghèo của chính họ, chưa phản ánh được bức tranh toàn cảnh về đói nghèo.
Ở Việt Nam, chúng ta thừa nhận định nghĩa về nghèo theo cách tiếp
cận về năng lực do Hội nghị Chống đói nghèo khu vực châu Á – Thái Bình
9
R. Chambers, Whose Reality Counts? Putting the First Last, London, Intermediate
Technology Publications, 1997
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Dương do ESCAP tổ chức ở Bangkok, Thái Lan đưa ra vào tháng 9/1993:
“Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các
nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập quán của địa
phương”
10
. Do đặc thù của một nước đang phát triển, đã từng tồn tại tình
trạng thiếu lương thực trong một thời gian dài nên chúng ta còn phân tách hộ
đói với hộ nghèo. Những hộ đói được hiểu là một bộ phận trong những hộ gia
đình nghèo mà không có được đủ lương thực để ăn hai bữa cơm hàng ngày,
chỉ đủ khả năng đảm bảo mức lương thực ít ỏi cần thiết để tồn tại, do đó tiêu
chuẩn thu nhập bình quân đầu người quy gạo của Bộ LĐTBXH đối với hộ đói
thấp hơn so với mức quy gạo của hộ nghèo.
11
1.2. Cacs phương pháp đánh giá đói nghèo
1.2.a. Ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo):
Đây là một trong những thước đo quan trọng được sử dụng chủ yếu
trong việc xác định tình trạng đói nghèo. Ngưỡng nghèo là một mức độ phân
chia ranh giới giữa “nghèo” và “không nghèo”. Gồm có 2 loại: ngưỡng nghèo
tuyệt đối và ngưỡng nghèo tương đối.
Ngưỡng nghèo tuyệt đối là chuẩn tuyệt đối về mức sống tối thiểu cần
thiết để con người có thể tồn tại khỏe mạnh. Ngưỡng nghèo tuyệt đối cũng

gồm 2 loại : ngưỡng nghèo LTTP (được xác định bằng số tiền cần có để mua
được một rổ LTTP thiết yếu hàng ngày) và ngưỡng nghèo chung (có tính đến
số tiền chi tiêu cho cả các sản phẩm phi lương thực khác). Ngưỡng nghèo
LTTP thường chỉ được dùng phổ biến ở các nước đang phát triển và nhìn
chung là thường thấp hơn ngưỡng nghèo chung.
10
Chính phủ Việt Nam, 2002, Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo,
NXB Bản đồ
11
Xem I.1.2, phần Ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo)
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Ngân hàng thế giới World Bank (WB) đã đưa ra ngưỡng nghèo tuyệt
đối (được hiểu như là ngưỡng nghèo chung) quốc tế là 1$/ ngày cho các nước
có thu nhập thấp (GNP/người từ 755$/năm trở xuống, theo giá gốc năm 1999)
và cho các nước có thu nhập trung bình thấp (GNP/người từ 756 đến 2.995$/
năm, giá gốc năm 1999) là 2$/ngày. Tính theo ngang giá sức mua, ở Việt
Nam, hai ngưỡng này tương đương 20 và 40 cent/ ngày.
12

Ở Việt Nam, Tổng cục thống kê (TCTK) đưa ra hai ngưỡng. Ngưỡng
thứ nhất, nghèo đói LTTP là tình trạng mức thu nhập không bảo đảm được
nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu 2100 Kcal/người/ngày đêm. Ngưỡng thứ hai là
nghèo đói chung, coi LTTP ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu, 30% là các
nhu cầu khác.
Bảng I.1: Ngưỡng nghèo của TCTK qua các năm
13
(đơn vị : VNĐ/người/năm)
Năm 1998 2002 2004
Nghèo đói LTTP 1.286.808 1.381.000 1.488.000
Nghèo đói chung 1.789.872 1.915.000 2.076.000


Bên cạnh đó, ở Việt Nam còn có ngưỡng nghèo do Bộ LĐTBXH quy
định theo từng giai đoạn căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và mức giá cả ở từng khu
vực. Cụ thể:
14
- Giai đoạn 1996 – 2000:
+ Nông thôn miền núi, hải đảo: 55.000 đồng/người/tháng
+ Nông thôn đồng bằng: 70.000 đồng/ người/tháng
12
PGS.TS. Phạm Văn Vận – Th.S. Vũ Cương, khoa Kế hoạch và Phát triển, trường
ĐHKTQD, Giáo trình Kinh tế công cộng, NXB Thống kê, 2005
13
Niên giám TCTK năm 2000 và 2006
14
PGS.TS. Phạm Văn Vận – Th.S. Vũ Cương, khoa Kế hoạch và Phát triển, trường
ĐHKTQD, Giáo trình Kinh tế công cộng, NXB Thống kê, 2005
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
+ Thành thị: 90.000 đồng/người/tháng
- Giai đoạn 2000 – 2005:
+ Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
+ Nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
+ Thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
- Giai đoạn 2006 – 2010: quy định sẽ chỉ còn 2 ngưỡng nghèo là:
+ Nông thôn: 200.000 đồng/người/tháng
+ Thành thị: 260.000 đồng/người/tháng
Ngoài ra chúng ta cũng sử dụng thước đo về thu nhập bình quân đầu
người trong hộ một tháng quy gạo để làm chuẩn đói như sau:
15
- Giai đoạn 1993 – 1995:
+ Thành thị: dưới 13kg

+ Nông thôn: dưới 8kg
- Giai đoạn 1995 – 2000: dưới 13kg cho tất cả các vùng
- Giai đoạn 2000 đến nay: Bộ LĐTBXH không tiếp tục đưa ra mức
chuẩn đói do cơ bản đã giải quyết được tình trạng hộ đói kinh niên.
Ngưỡng nghèo tương đối là một mức phần trăm so với thu nhập trung
bình chung của toàn xã hội mà những người dân trong xã hội đó nếu có mức
thu nhập ròng thấp hơn mức này thì được coi người nghèo. Tỷ lệ phần trăm
này thường được xác định ở mức 50% hoặc 60% của thu nhập trung bình.
1.2.b Tỷ lệ đói nghèo:
Tỷ lệ đói nghèo được xác định bằng số lượng người nghèo trên tổng
dân số, thể hiện quy mô số người nằm dưới ngưỡng nghèo, và thường được
biển hiện dưới dạng phần trăm.
Tỷ lệ nghèo chung (%) = (Số người nghèo chung) : Tổng dân số x 100
Tỷ lệ nghèo LTTP (%) = (Số hộ nghèo LTTP) : Tổng số hộ x 100
15
Bộ LĐTBXH, Chuẩn mực đói nghèo và mức độ đói nghèo ở Việt Nam, 2000
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Đây cũng là một thước đo đói nghèo thông dụng, tuy nhiên nó có hạn chế
là không quan tâm đến mức độ đói nghèo (mức độ nằm dưới, cách xa ngưỡng
nghèo) do đó không biểu hiện được kết cấu đầy đủ của sự đói nghèo. Bởi vậy,
nếu chỉ căn cứ vào tỷ lệ đói nghèo thì sẽ khó có thể đưa ra được một chính
sách XĐGN sâu sát tới từng loại đối tượng thuộc diện này.
1.2.c. Khoảng nghèo:
Khoảng nghèo được tính bằng tổng mức thiếu hụt của tất cả những
người nghèo so với ngưỡng nghèo, hay được hiểu là chi phí để đưa tất cả
những người nằm dưới ngưỡng nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng
nghèo. Nói chung, thước đo này được sử dụng ít phổ biến hơn so với hai
thước đo kể trên.
1.2.d. Chỉ số nghèo khổ con người:
Chỉ số nghèo khổ con người Human Poverty Index (HPI) là chỉ số đo

lường mức độ nghèo khổ của con người trên ba phương diện cơ bản: tuổi thọ,
hiểu biết và mức sống. Chỉ số này ở một quốc gia càng cao thì chứng tỏ tình
trạng đói nghèo của quốc gia đó càng nghiêm trọng. Liên Hợp Quốc sử dụng
HPI-1 cho các nước đang phát triển, HPI-2 cho các nước OECD.
Ở các nước đang phát triển, UNDP đưa ra công thức đo lường chỉ số
này như sau:
HPI
1
= [1/3(P
1
3
+ P
2
3
+ P
3
3
)]
1/3
P
1
: tỷ lệ người không sống đến 40 tuổi
P
2
: tỷ lệ người lớn không biết chữ
P
3
: tỷ lệ phần trăm dân số không được tiếp cận với nguồn nước sạch và
tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
Bảng I.2: Xếp hạng một số nước theo chỉ số nghèo khổ con người

HPI-1 năm 2007
16
16
Báo cáo 2007/2008 của UNDP
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Xếp hạng HPI(%) Quốc gia Xếp hạng HPI(%) Quốc gia
1 3 Barbados 47 18.2 Indonesia
2 3.5 Uruguay 50 21.2 Fiji
3 3.7 Chile 52 21.5 Myanma
4 4.1 Argentina 55 23.5 South Africa
6 4.7 Cuba 60 30.8 Kenya
7 5.2 Singapore 62 31.3 India
10 6.8 Mexico 65 32.3 Ghana
13 7.8 Quata 70 34.5 Laos
16 8.3 Malaysia 80 37.3 Nigeria
20 8.8 Paraguay 85 38.6 Cambodia
24 10.0 Thailand 88 39.3 Congo
27 11.7 China 93 40.5 Bangladesh
34 14.3 Jamaica 97 42.9 Senegal
36 15.2 Vietnam 101 50.6 Mozambique
37 15.3 Philippines 105 54.9 Ethiopia
44 17.8 Sri Lanka 107 56.4 Mali
2. Các nhân tố tác đống đến đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam
2.1. Giới thiệu một số nghiên cứu về nguyên nhân của đói nghèo trên thế
giới:
Một nhà nghiên cứu có tên là Phil Bartle cho rằng những nguyên nhân
lịch sử sâu xa của đói nghèo là chiến tranh, chủ nghĩa thực dân, chế độ nô lệ
và sự xâm lược. Còn ngày nay, có những yếu tố khác tạo ra sự tiếp tục tiếp
diễn của đói nghèo. Ông đã đưa ra mô hình “Năm yếu tố lớn” (The Big Five)
xác định năm nguyên nhân tạo nên đói nghèo như một vấn đề xã hội là: sự

thiếu hiểu biết, bệnh tật, sự lãnh đạm, tính không trung thực và tính lệ thuộc.
Hình I.3: Mô hình “Năm yếu tố lớn” của Phil Bartle
17
17
Dr.Phil Bartle, Factors of Poverty: The Big Five, Community Empowerment Programme,
2005
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Theo ông, sự thiếu hiểu biết ở đây không giống với sự ngu dốt mà bản
chất là vấn đề thiếu những thông tin cần thiết hữu ích cho người nghèo. Giáo
dục có thể là một giải pháp tốt nhưng cần chọn lọc kiến thức phù hợp để
giảng dạy, ví dụ như người nông dân cần biết loại cây trồng nào thích nghi
được với chất đất của địa phương. Bệnh tật làm giảm năng suất lao động và
tổng sản lượng, và tạo ra ít sự thịnh vượng của quốc gia hơn. Ông cho rằng
“phòng bệnh hơn chữa bệnh” và đề cao vai trò của y tế cơ sở. Sự lãnh đạm là
khi con người cảm thấy bất lực, không muốn và không còn ý chí cải thiện tình
trạng tồi tệ của mình, cảm thấy ghen tị với những người có quyết tâm vươn
lên và tìm cách ghìm kéo họ xuống tình cảnh của mình. Sự thiếu trung thực
mà Phil Bartle đề cập đến chủ yếu là tệ nạn tham nhũng: một số tiền mà quan
chức chính phủ bỏ vào túi riêng có thể làm giảm giá trị đáng lẽ mà cả xã hội
có thể nhận được đi một khoản lớn hơn số tiền hối lộ đó nhiều lần. Cuối cùng
là sự phụ thuộc hay là tính ỷ lại của người nghèo, của quốc gia nghèo vào các
nguồn viện trợ làm cho họ mất đi động lực tự phấn đấu và cuối cùng, nghèo
vẫn hoàn nghèo.
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Bệnh tật Sự lãnh đạm
Sự không trung thực Sự phụ thuộc
Đói nghèo
Sự thiếu hiểu biết
Năm yếu tố lớn này dẫn đến những yếu tố cấp hai tạo nên đói nghèo là
thiếu thốn cơ sở vật chất hạ tầng cho người nghèo, thiếu thị trường, sự quản lý

của chính phủ yếu kém, thiếu công ăn việc làm, thiếu kĩ năng tay nghề, thiếu
vốn và các yếu tố khác.
Theo một nghiên cứu khác của Maxwell School, Syracuse University
thì có thể chia ra hai cách tiếp cận về đói nghèo là lý thuyết “Hoàn cảnh”
(Case theory) và lý thuyết “Chung” (Generic theory)
18
. Theo “Case theory”
thì đói nghèo xuất phát từ nguyên nhân tổng hợp của các đặc điểm riêng của
người nghèo như là:
- Giáo dục, kĩ năng, kinh nghiệm, trí thông minh
- Sức khỏe, tuổi tác
- Định hướng công việc, tầm nhận thức, văn hóa
- Sự phân biệt về tầng lớp, giai cấp, chủng tộc, giới tính…
Còn theo “Generic theory” thì đói nghèo lại được hiểu là tình trạng
xuất phát từ những vấn đề chung mang tính vĩ mô của nền kinh tế: thiếu
những cơ hội nghề nghiệp, tổng cầu thấp, thu nhập quốc gia thấp.
Trong khi đó, tổ chức MSU Women and International Development chỉ
đưa ra những nguyên nhân gây nên đói nghèo theo hướng liệt kê mà không
phân nhóm:
19
- Lịch sử bị cai trị và xâm lược
- Chiến tranh và xung đột vũ trang
- Chu trình sản xuất nông nghiệp
- Thảm họa tự nhiên và thiên tai
- Sự tập quyền
18
Hari Srinivas, Causes of Poverty, A GDRC compilation of articles on the causes of poverty
and related issues
19
Hari Srinivas, Causes of Poverty, A GDRC compilation of articles on the causes of poverty

and related issues
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
- Nạn tham nhũng
- Suy thoái môi trường
- Bất bình đẳng xã hội
Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Thực tế, những
nguyên nhân được nhắc tới trong các nghiên cứu nói trên còn có thể tiếp tục
được chia nhỏ chi tiết hơn nữa. Đối với đói nghèo ở Việt Nam có thể hợp
nhóm các nguyên nhân này vào ba nhóm nguyên nhân lớn. Ở đây, ta không
quan tâm tới những nguyên nhân mang tính lịch sử như chiến tranh, sự xâm
lược của nước ngoài mà chỉ quan tâm tới những gì có tác động đến đói nghèo
như một vấn đề xã hội hiện đại ngày nay.
2.2. Nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
2.2.a. Nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên:
Đất nước ta được chia làm nhiều vùng miền có vị trí địa lý và địa hình
rất khác nhau. Ở những vùng có tính đặc thù như miền núi, vùng sâu vùng xa,
hải đảo, vị trí địa lý khá cách biệt các vùng khác, cộng thêm địa hình gập
ghềnh hiểm trở đã tạo khó khăn trong việc giao thông liên lạc với các khu vực
khác, tạo ra sự cô lập tương đối về mọi mặt đời sống. Nhiều nơi ở nước ta như
vùng núi phía bắc, các tỉnh miền trung: Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa…
thường xuyên phải gánh chịu hậu quả to lớn của các trận lũ lụt gây ra thiệt hại
to lớn về người và của, rơi vào tình trạng đói nghèo triền miên. Những vùng
canh tác nông nghiệp lại gặp phải vấn nạn về sâu bệnh, mưa đá, sương muối,
rét đậm rét hại… dẫn đến mất mùa, thất bát, mất đi các nguồn lực sản xuất.
Việt Nam từ lâu đã được coi là rừng vàng biển bạc, có nhiều tài
nguyên. Tài nguyên rừng, biển, đất đai, sinh vật, khoáng sản ... đều rất phong
phú, đa dạng. Tuy nhiên, theo thời gian, chúng đã bị khai thác gần như cạn
kiệt. Những tài nguyên đó khi còn dồi dào đã giúp nhiều người Việt Nam có
thu nhập tương đối, song hành động quá khứ đã để lại hậu quả cho thế hệ
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn

ngày nay. Giờ đây, một bộ phận dân cư sống dựa vào tự nhiên đã mất đi
nguồn thu nhập đáng kể. Những tài nguyên còn lại đều ở tình trạng gặp khó
khăn trong việc khai thác.
2.2.b. Nguyên nhân xuất phát từ điểm yếu của người nghèo:
Những yếu tố như sự thiếu hiểu biết, sự lãnh đạm, bệnh tật và tính phụ
thuộc mà Phil Bartle nhắc tới trong lý thuyết “Năm yếu tố lớn” và các nguyên
nhân theo “Case theory” của Maxwell School, Syracuse University có thể xếp
vào nhóm nguyên nhân lớn này. Phần lớn người nghèo ở Việt Nam sinh sống
tập trung ở vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa, chỉ một phần nhỏ rải rác ở
các vùng thành thị đồng bằng. Đa số hoạt động nông nghiệp với lối canh tác
truyền thống lạc hậu, cho năng suất thấp. Những người làm việc trong các
lĩnh vực phi nông nghiệp thì có tay nghề kỹ thuật yếu. Bản thân họ có trình độ
học vấn không cao, nhiều người thất học. Cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo
cũng được thể hiện rất rõ. Một là, các hộ thuộc diện đói nghèo thì thường
đông con (xuất phát từ nhu cầu về lao động kiếm sống) song cũng chính vì thế
lại tạo thêm gánh nặng về các khoản chi tiêu cho gia đình. Thứ hai, thu nhập
thấp, điều kiện ăn ở thiếu thốn không đảm bảo được sức khỏe, dẫn đến tình
trạng ốm yếu, bệnh tật của người nghèo, mà đến lượt nó thì chính bệnh tật lại
là nguồn gốc làm cho đói nghèo thêm trầm trọng vì người nghèo không đủ
sức lực để làm việc.
Một vấn đề khác cũng nổi cộm lên trong đó là tình trạng bất bình đẳng
giới. Trọng nam khinh nữ là quan niệm còn ăn sâu trong tiềm thức nhiều
người dân Việt Nam. Sinh nhiều con cũng do mong có được đứa con trai. Con
gái thường bị bắt nghỉ học sớm ở nhà giúp đỡ cha mẹ, vô hình trung gây lãng
phí nguồn chất xám lớn do cách nhìn thiển cận. Ở nhiều vùng núi có tục “thờ
chồng”, phụ nữ dù sức yếu vẫn phải làm lụng vất vả nuôi cả gia đình.
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Cuối cùng, mặc dù thời gian gần đây Nhà nước đã có nhiều chính sách
XĐGN song ở nhiều nơi, nghèo vẫn hoàn nghèo. Đó là do tâm lý trì trệ,
trông chờ vào trợ cấp Nhà nước của bà con. Trong khi đó, trợ cấp thì có hạn.

Chừng nào chưa xóa bỏ được tâm lý ỷ lại này để tự lực vươn lên XĐGN thì
người nghèo chưa thể có được mức sống khá hơn một cách bền vững.
2.2.c. Nguyên nhân về phía cơ chế chính sách của Việt Nam:
Đây là những nguyên nhân ở tầm vĩ mô gây tác hại duy trì tình trạng
đói nghèo, có sự tương đồng với “Generic theory” của Maxwell School,
Syracuse University. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã tích cực thực
hiện nhiều chương trình dự án nhằm XĐGN, song hiệu quả đạt được chưa
như mong muốn và số hộ nghèo vẫn không giảm, vẫn còn tình trạng tái
nghèo. Nguyên nhân là do các biện pháp chính sách XĐGN được thực hiện
còn thiếu tính đồng bộ, nội dung chưa sát với thực tiễn địa phương, vì vậy
khiến cho việc thực hiện còn nặng về hình thức, chỉ giải quyết phần “ngọn”
của vấn đề gây lãng phí nguồn lực đầu tư vô ích. Tình trạng này sẽ được xem
xét kỹ hơn ở mục II.3.2.
3. Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo
3.1. Những tác hại mà đói nghèo gây ra:
Đối với bản thân người nghèo, hậu quả của đói nghèo có thể được nhìn
thấy hết sức rõ ràng. Vì “đói” mà thiếu ăn thường xuyên, vì “nghèo” mà các
nhu cầu sống bị hạn chế ở mức thấp. Cuộc sống thiếu thốn, nhà cửa tạm bợ,
đồ dùng chỉ đủ ở mức thiết yếu nhất. Tình trạng ốm đau bệnh tật, trẻ em suy
dinh dưỡng xảy ra ở nhiều nơi. Không đủ ăn, mặc, ở, việc học hành bị coi nhẹ
dẫn đến sự thất học, thiếu hiểu biết, tư duy con người trở nên lạc hậu. Các tệ
nạn xã hội như trộm cắp, nghiện hút, mại dâm… có cơ hội phát sinh. Người
nghèo, vì thế, hầu như không có tiếng nói và vị thế ngoài xã hội và dễ trở
thành nạn nhân của sự đối xử bất công như bị trả lương thấp, bị coi thường.
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
Đói nghèo gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường theo cơ chế về
“cầu”, người nghèo triệt để khai thác tài nguyên tự nhiên để phục vụ cuộc
sống. Để đánh bắt cá với số lượng lớn, ngư dân sẵn sàng cho nổ mìn. Vì mục
tiêu sinh lợi, phong trào nuôi ốc bươu vàng rầm rộ một thời gian đã gây nên
những mối nguy về mất cân bằng sinh thái. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực

vật quá liều lượng, những làng tái chế phế thải nhựa thành túi nilon… làm ô
nhiễm môi trường trầm trọng. Ở vùng cao, rừng bị đốt làm rẫy, bị “xẻ thịt”
đem bán, khoáng sản bị khai thác bừa bãi, động vật rừng bị săn bắn ồ ạt, đất
đai bạc màu theo nạn du canh du cư… khiến cho tài nguyên thiên nhiên ngày
một cạn kiệt.
Không những vậy, đói nghèo còn gây ra ảnh hưởng đến vấn đề ổn định
chính trị quốc gia. Những năm qua, việc đồng bào dân tộc bị các thế lực phản
động nước ngoài mua chuộc, xúi giục gây mất an ninh, trật tự xã hội đã trở
thành điểm nóng khiến cả xã hội phải quan tâm. Tất cả cũng do cuộc sống còn
khó khăn đã khiến người nghèo dễ bị lay động bởi những mối lợi trước mắt.
Nếu không giải quyết được dứt điểm nạn đói nghèo thì lòng tin của nhân dân
vào Đảng, vào Nhà nước còn có thể bị kẻ thù lợi dụng vào âm mưu phá hoại
của chúng.
3.2. Phân cách giàu nghèo là biểu hiện của bất bình đẳng:
Phân hóa giàu nghèo chính là bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
bởi vì: Con người sinh ra đều có những yếu tố tự nhiên như nhau cho phép họ
hưởng thụ cuộc sống như nhau trong tương lai, nhưng trên thực tế thì thu
nhập mà họ nhận được khi trưởng thành, làm việc lại là khác nhau. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nói: “Mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”, nhưng
sự khác nhau về điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường bên ngoài ảnh hưởng
đến cuộc sống đã không cho con người có sự bình đẳng về mức sống. Trên
thực tế, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập bắt nguồn từ hai nhóm
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
nguyên nhân chính là từ việc sở hữu các nguồn lực (các nguồn lực này có
được là do được thừa kế tài sản, do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm hoặc do sản
xuất kinh doanh) và từ lao động (do khác nhau về khả năng và kĩ năng lao
động, do khác nhau về cường độ làm việc, về nghề nghiệp và tính chất công
việc, do bị phân biệt đối xử…). Người nghèo không có điều kiện, và nhiều
khi không thể tự tác động lên các nguyên nhân đó để tự thay đổi cuộc sống
cho mình. Mức sống thấp lại mang đến các hệ quả cho người nghèo là thiếu

thốn về hưởng thụ các dịch vụ xã hội, dễ bị tổn thương và yếu thế (như định
nghĩa về đói nghèo của Ngân hàng Thế giới đã đề cập) làm cho sự chênh lệch
về chất lượng cuộc sống của người giàu và người nghèo càng thêm đậm nét.
Nhà nước ta là Nhà nước do dân, của dân và vì dân có chức năng quan
trọng là phân phối lại thu nhập để khắc phục tình trạng bất bình đẳng này, thu
hẹp khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
3.3. Ý nghĩa của XĐGN đối với sự phát triển chung của toàn xã hội:
Các Mác đã nói: “ Gia đình là tế bào của xã hội”, mỗi con người lại là
một tế bào của gia đình. Một nền kinh tế dù phát triển đến mấy song vẫn để
cho một bộ phận dân cư phải chịu cảnh sống thiếu thốn thì không thể là một
sự tăng trưởng bền vững. Những khu vực nghèo đói ít nhiều kìm hãm sự phát
triển chung vì nó gây ra lãng phí nguồn lực cho phát triển kinh tế như nguồn
nhân lực, đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác. Vì vậy, thực hiện XĐGN
đồng nghĩa với quá trình giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả và tiềm
năng kinh tế của đất nước. Một khi người nghèo được hưởng cuộc sống sung
túc, đã có sự tương đồng về trình độ phát triển giữa các khu vực thì sẽ tạo ra
thêm nhiều thế và lực mới (ưu thế của tăng trưởng bền vững, sự cạnh tranh và
hỗ trợ giữa các vùng kinh tế …) đóng góp trở lại vào sự phát triển kinh tế
chung, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO, XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CHO DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM
Như trên đã nói, người nghèo ở nước ta sống chủ yếu ở vùng nông
thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo. Trong đó, các khu vực
miền núi (với tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn khá
lớn) thường chiếm tỷ lệ nghèo đói thuộc loại cao nhất nước và đã được
Nhà nước ta dành cho sự quan tâm đáng kể trong thời gian vừa qua. Ở
nước ta, các khu vực miền núi chiếm diện tích không nhỏ (khoảng 3/4
lãnh thổ quốc gia), trải dài từ Bắc đến Nam, bao gồm: miền núi phía

bắc (Đông Bắc và Tây Bắc), miền núi Bắc Trung Bộ (khu vực miền núi
thuộc các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế), vùng miền núi duyên hải Nam Trung Bộ, miền núi
Tây Nguyên, vùng miền núi Đông Nam Bộ (gồm các xã, huyện miền
núi thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước), và
một số huyện miền núi thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Miền
núi nước ta có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh
quốc phòng và môi trường sinh thái, đồng thời cũng chứa đựng tiềm
năng dồi dào, to lớn về đất đai, tài nguyên khoáng sản và khả năng hợp
tác giao lưu phát triển kinh tế với các nước trong khu vực.
Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Nhà nước, miền núi
đã có bước chuyển biến rõ rệt, thu được những thành tựu đáng kể trong phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, đời sống của đồng bào các dân tộc
không ngừng được cải thiện về cả vật chất lẫn tinh thần.
Mặc dù đạt được những tiến bộ quan trọng, nhưng đến nay miền núi
nước ta vẫn là khu vực kinh tế lạc hậu, chậm phát triển so với cả nước,
khoảng cách chênh lệch phát triển giữa miền núi và miền xuôi có xu hướng
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
ngày càng tăng. Tính bền vững của quá trình phát triển miền núi chưa được
bảo đảm bởi còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay, miền núi đang phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức, mà trước hết là tình trạng đói nghèo: ba
vùng nghèo nhất là Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và miền núi phía bắc. Đời
sống của người dân miền núi, đặc biệt là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu,
vùng xa vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Trong khuôn khổ có hạn, chuyên đề này chỉ đi vào nghiên cứu thực
trạng đói nghèo ở vùng núi phía bắc nước ta như một ví dụ điển hình, để từ đó
chỉ ra những thành công cũng như hạn chế còn tồn tại của những chính sách
về XĐGN ở vùng núi của Nhà nước ta.
II. Vài nét về vùng núi phía bắc nước ta
1. Đặc điểm tự nhiên

Vùng núi phía bắc nước ta có tổng diện tích 10.096 nghìn hecta, chiếm
khoảng 30% tổng diện tích cả nước, được chia ra làm 2 khu vực: vùng Đông
Bắc và vùng Tây Bắc.
Vùng Đông Bắc được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên giới
Việt - Trung. Phía đông nam trông ra vịnh Bắc Bộ. Phía nam tiếp giáp với
vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là vùng núi và trung du với nhiều khối núi
và dãy núi đá vôi hoặc núi đất. Phía đông thấp hơn, có nhiều dãy núi hình
vòng cung quay lưng về hướng đông là vòng cung Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc
Sơn, Đông Triều. Phía tây bắc cao hơn, với các khối núi đá và dãy núi đá cao
như Tây Côn Lĩnh, Kiêu Liêu Ti, cao nguyên đá Đồng Văn. Phía tây nam
thấp có dãy núi Tam Đảo sát vùng đồng bằng. Vùng Đông Bắc có nhiều sông
chảy qua, trong đó các sông lớn là sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông
Gâm (thuộc hệ thống sông Hồng), sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam
(thuộc hệ thống sông Thái Bình), sông Bằng, sông Bắc Giang, sông Kỳ Cùng,
v.v... Về khí hậu, do địa hình cao, ở phía bắc, lại có nhiều dãy núi dài chạy
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
song song, nên vào mùa đông, vùng này có gió mùa đông bắc thổi mạnh, thời
tiết rất lạnh. Vùng núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thể có
lúc nhiệt độ xuống 0°C và có mưa tuyết. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh
cung cũng rất lạnh do gió. Có nhiều thắng cảnh thiên nhiên đẹp nổi tiếng là
vịnh Hạ Long, hồ Ba Bể, Mẫu Sơn, hồ Hang Then, Phanxi păng …
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền bắc Việt Nam, có
chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này là một trong 3 tiểu
vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là vùng Đông Bắc và đồng bằng
sông Hồng). Không gian địa lý của vùng Tây Bắc hiện còn chưa được nhất trí.
Một số ý kiến cho rằng đây là vùng phía nam sông Hồng. Một số ý kiến lại
cho rằng đây là vùng phía nam của dãy núi Hoàng Liên Sơn. Địa hình Tây
Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng tây bắc- đông
nam. Dãy Hoàng Liên Sơn cao đến 1500 m, dài tới 180 km, rộng 30 km, với
một số đỉnh núi cao trên 3000 m. Vùng Tây Bắc có hai con sông lớn, đó là

sông Đà và sông Thao (tức sông Hồng). Thượng nguồn của sông Mã cũng ở
trên vùng đất Tây Bắc. Có các bồn địa Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh
và các cao nguyên Tà Phình, Mộc Châu, Nà Sản. Tây Bắc là vùng có nguy cơ
động đất cao nhất Việt Nam.
Lượng mưa cả vùng ở trong khoảng 1.500 – 2.000 mm/năm. Thảm
thực vật phong phú với hơn 20 loài quý hiếm, 51 loài động vật quý. Độ che
phủ rừng của Đông Bắc là 34,4% và Tây Bắc là 17% (năm 2001). Giàu tài
nguyên khoáng sản: apatit, than đá, đồng, sắt, mangan, niken, đá vôi …
20
2. Đặc điểm dân cư
Về phạm vi hành chính, vùng Đông Bắc bao trùm các tỉnh Lào Cai,
Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang và Quảng Ninh. Vùng Tây Bắc chỉ bao gồm 4
20
Số liệu được tổng hợp từ
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn
tỉnh là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình.
Đông Bắc: Về cơ cấu dân tộc, đây là vùng có cơ cấu đa dạng nhất cả
nước với khoảng 30 dân tộc sinh sống, trong đó, dân tộc Kinh chiếm 66,1%,
dân tộc Tày chiếm 12,4%, dân tộc Nùng 7,3%, Dao 4,5% , H’Mông 3,8%. Về
dân số, tổng dân số là 9,458 triệu người (2006) chiếm 11,5% dân số cả nước,
mật độ trung bình 148 người/ km
2
, tập trung đông ở Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc
Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, dân số thành thị chiếm 19% dân số trong
vùng với tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 4,32%.Về trình độ học vấn, dân cư ở
đây có trình độ tương đương với trình độ trung bình cả nước song đồng thời
tình trạng mù chữ cũng còn tồn tại, chủ yếu xảy ra ở đồng bào dân tộc ít
người. Về lực lượng lao động: tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn chỉ
chiếm 12% tổng lực lượng lao động. Về văn hóa lịch sử, đây là nơi phát triển

văn hóa Đông Sơn với nhiều lễ hội và làn điệu dân ca truyền thống.
Tây Bắc: dân số 2,607 triệu người (2006), mật độ dân cư thưa thớt chỉ
có 69 người/km
2
. Trong vùng chủ yếu là dân tộc ít người sinh sống: Thái,
Mường, H’Mông, Dao … Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ thất nghiệp trong khu
vực thành thị là 3,89%. Lực lượng lao động dồi dào song trình độ thấp, cơ cấu
lao động đơn giản, chủ yếu hoạt động nông nghiệp.
21
II. Thực trạng đói nghèo tại vùng núi phía bắc:
1. Tình trạng nghèo đói tại vùng núi phía bắc so sánh với các địa phương
khác qua một số chỉ tiêu thước đo đói nghèo:
Trước hết, để đánh giá một cách tổng quan về thực trạng đói nghèo tại
miền núi phía bắc, ta xem xét hai chỉ tiêu thước đo đói nghèo tổng quát cơ
bản là tỷ lệ đói nghèo (gồm có tỷ lệ nghèo chung và tỷ lệ nghèo lương thực
thực phẩm) và khoảng nghèo.
Biểu đồ II.1: Tỷ lệ nghèo của các vùng năm 2002 và 2004
22
21
Số liệu được tổng hợp từ và Niên giám TCTK 2006
SV Nguyễn Ngọc Cường KTPT K47A Quy Nhơn

×