Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Hoàn thiện công tác kế hoạch hóa sản xuất tại công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.31 KB, 95 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là : Hoàng Thị Nhuần
Lớp : Kế hoạch 47A
Khoa : Kế hoạch và phát triển
Tôi xin cam đoan, luận văn tốt nghiệp “Hoàn thiện công tác kế hoạch
hoá sản xuất tại công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà” là do tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của Th.S Nguyễn Thị Hoa - Giảng viên khoa kế
hoạch và phát triển Trường Đại học Kinh tế quốc dân cùng với sự giúp đỡ của
cán bộ nhân viên khối kế hoạch công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà.
Trong quá trình thực hiện, tôi đã tiến hành tham khảo tài liệu tại công ty
CP VPP Hồng Hà, tài liệu tại thư viện Đại học Kinh tế quốc dân vì thế tôi
đảm bảo các tài liệu tham khảo là chính xác.
Những luận điểm và ý kiến được đưa ra trong luận văn tốt nghiệp này
dựa trên sự phân tích có hệ thống, logic theo quan điểm của cá nhân tôi, là kết
quả của sự nghiên cứu nghiêm túc trong suốt quá trình thực tập – không sao
chép từ bất kỳ tài liệu nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung bài viết của mình!
Hà Nội, Ngày 25 tháng 05 năm 2009
Sinh viên
Hoàng Thị Nhuần
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BQ : Bình quân


CT : Công ty
CP : Cổ phần
ĐV : Đơn vị
ĐM : Định mức
HĐ : Hợp đồng
STT : Số thứ tự
SX : Sản xuất
SXKD : Sản xuất kinh doanh
KH : Kế hoạch
KHH : Kế hoạch hóa
KHKT : Khoa học kỹ thuật
KHSX : Kế hoạch sản xuất
VPP : Văn phòng phẩm
XNK : Xuất nhập khẩu
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
SƠ ĐỒ
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Sản xuất là một trong những chức năng quan trọng nhất trong doanh
nghiệp, là chức năng bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, khởi điểm của
mọi hoạt động kinh tế. Do đó kế hoạch hóa hoạt động sản xuất là một yêu
cầu tất yếu của mọi doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp tham gia sản
xuất vật chất.
Công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà là thành viên thuộc Tổng
công ty giấy Việt Nam. Công ty có lịch sử phát triển 50 năm là công ty văn
phòng phẩm có lịch sử lâu đời nhất Việt Nam. Thương hiệu Hồng Hà đã từ
lâu rất quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên gần đây với sự

phát triển mạnh mẽ của kinh tế trong nước, các doanh nghiệp tham gia sản
xuất văn phòng phẩm ngày càng nhiều. Thị phần của Hồng Hà trên thị trường
ngày bị thu hẹp dần. Tại sao một công ty có lịch sử phát triển lâu đời, có
thương hiệu mạnh như Hồng Hà lại có thể dễ dàng bị các doanh nghiệp “ít tên
tuổi” hơn lấn át là một câu hỏi cần được giải đáp. Có rất nhiều nguyên nhân
cả khách quan và chủ quan giải thích cho thực tế đáng buồn đó. Trong thời
gian thực tập tại Công ty, với sự nhiệt tình giúp đỡ của CBNV trong khối kế
hoạch, cộng với sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Thị Hoa, tôi đã nhận thấy
rằng một trong những nguyên nhân của thực trạng đó là do công tác kế hoạch
hóa sản xuất của công ty vẫn còn những hạn chế cần được cải thiện. Chính vì
vậy với việc lựa chọn đề tài nghiên cứu là “Hoàn thiện công tác kế hoạch hóa
sản xuất tại công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn tốt nghiệp của mình, tôi hy vọng rằng có thể đưa ra những đóng
góp hữu ích đối với công ty.
Mặc dù câu chuyện về việc hoàn thiện công tác kế hoạch hóa sản xuất
ở các doanh nghiệp sản xuất đã được đề cập trong nhiều đề tài nghiên cứu.
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
1
Luận văn tốt nghiệp
Tuy nhiên, với mỗi doanh nghiệp thì công tác kế hoạch hóa sản xuất lại có
những vấn đề bất cập khác nhau cần được đổi mới và hoàn thiện.
Kết cấu của luận văn này gồm 3 phần chính được chia thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về kế hoạch hóa sản xuất trong doanh nghiệp
Mục đích của chương này là cung cấp cho người đọc một khung lý thuyết
cơ bản chung về kế hoạch hóa và kế hoạch hóa sản xuất trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng công tác kế hoạch hóa sản xuất của công ty
cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà
Chương này sự mô tả lại toàn bộ công tác kế hoạch hóa sản xuất của
công ty mà tôi đã thu thập được trong quá trình thực tập tại khối kế hoạch. Từ
đó rút ra những ưu điểm và nhược điểm bằng việc so sánh thực tế với lý

thuyết mẫu, sau đó chỉ ra nguyên nhân của những nhược điểm theo ý kiến chủ
quan của cá nhân tôi
Chương 3: Giải pháp để hoàn thiện công tác kế hoạch sản xuất tại
công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà
Dựa vào việc phân tích thực trạng của hoạt động kế hoạch hóa sản xuất,
cộng với việc phân tích tình hình thực tế của công ty và thị trường trong thời
gian tới tôi đã đưa ra được một số kiến nghị và giải pháp với công ty với
mong muốn hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty tới đây sẽ có những
kết quả tốt hơn nữa.
Để có thể hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của
bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của CBNV trong khối kế
hoạch công ty CP VPP Hồng Hà, sự hướng dẫn sát sao của ThS. Nguyễn Thị
Hoa. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới những người đã rất nhiệt tình giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2009
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
2
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ HOẠCH SẢN XUẤT
TRONG DOANH NGHIỆP
1. Tổng quan về kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
1.1.Kế hoạch hoá trong doanh nghiệp
1.1.1.Khái quát chung về kế hoạch hoá trong doanh nghiệp
a.KHH là gì?
Kế hoạch hóa từ lâu đã được coi như là một công cụ để thiết lập cũng
như thực hiện các quyết định chiến lược. Hiểu một cách tổng quát nhất thì
“Kế hoạch hóa là một phương thức quản lý theo mục tiêu, nó là hoạt động của
con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên,
đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức quản lý các đơn vị kinh tế-kỹ thuật,
các ngành, các lĩnh vực hoặc toàn bộ nền sản xuất xã hội theo những mục tiêu

thống nhất”
1

Theo cách hiểu trên thì kế hoạch hóa được thực hiện ở nhiều quy mô và
phạm vi khác nhau như: KHH kinh tế quốc dân, KHH theo vùng, địa phương,
KHH ngành, lĩnh vực, KHH doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy KHH doanh
nghiệp là một bộ phận của hệ thống kế hoạch hóa
b.KHH doanh nghiệp là gì?
Theo định nghĩa trên thì “KHH hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp (gọi tắt là KHH doanh nghiệp) là phương thức quản lý doanh
nghiệp theo mục tiêu, nó bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có
chủ định của các nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp vào các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh của đơn vị nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra”
2
. Hay
nói cách khác “KHH doanh nghiệp là một quy trình ra quyết định cho phép
xây dựng một hình ảnh mong muốn về trạng thái tương lai của doanh nghiệp
1
(Từ điển bách khoa Việt Nam – NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội 2002, tr 469)
2
(Giáo trình “Kế hoạch kinh doanh”, ThS Bùi Đức Tuân, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội 2005, tr 10)
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
3
Luận văn tốt nghiệp
và quá trình tổ chức triển khai thực hiện mong muốn đó”. Như vậy KHH
doanh nghiệp là thể hiện kỹ năng tiên đoán mục tiêu phát triển và tổ chức quá
trình thực hiện mục tiêu đặt ra. Công tác này bao gồm các hoạt động:
- Lập kế hoạch: Là khâu giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong công tác
KHH doanh nghiệp, nó xác định các mục tiêu chỉ tiêu kế hoạch và đề xuất các
giải pháp chính sách áp dụng. Kết quả của việc soạn lập kế hoạch là một bản

kế hoạch, nó chính là cơ sở cho việc thực hiện công tác tiếp theo của KHH.
Bản kế hoạch doanh nghiệp là hệ thống các phương hướng, nhiệm vụ, mục
tiêu và các chỉ tiêu nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính cần thiết cho việc
thực hiện mục tiêu phát triển doanh nghiệp đặt ra trong thời kỳ kế hoạch nhất
định. Kế hoạch doanh nghiệp chính là thể hiện ý đồ phát triển của các nhà
lãnh đạo và quản lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Bản kế hoạch doanh nghiệp được hình thành thông qua việc trả lời
những câu hỏi mang tính bản chất của nó như: Trạng thái của doanh nghiệp
hiện tại, kết quả và những điều kiện hoạt động kinh doanh? Doanh nghiệp
muốn được phát triển như thế nào? Làm thế nào để sử dụng có hiệu quả
nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra?
- Tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá kế
hoạch là những hoạt động tiếp sau của công tác KHH nhằm đưa kế hoạch vào
thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Đây là quá trình tổ chức, phối hợp hoạt
động của các bộ phận, các yếu tố nguồn lực của doanh nghiệp, triển khai các
hoạt động khác nhau theo các mục tiêu kế hoạch đặt ra. Quá trình triển khai
kế hoạch không chỉ đơn giản là xem xét những hoạt động cần thiết của doanh
nghiệp mà nó còn thể hiện ở khả năng dự kiến, phát hiện những điều bất ngờ
có thể xuất hiện trong quá trình hoạt động và khả năng ứng phó những điều
bất ngờ đó. Quá trình kiểm tra, theo dõi, điều chỉnh kế hoạch giúp doanh
nghiệp không chỉ xác định được tất cả những rủi ro trong hoạt động của mình
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
4
Luận văn tốt nghiệp
mà nó còn có khả năng quản lý rủi ro với sự hỗ trợ của việc tiên đoán có hiệu
quả và xử lý những rủi ro đó trong quá trình thực hiên các mục tiêu đặt ra.
Công tác đánh giá kế hoạch sẽ là cơ sở giúp cho doanh nghiệp xây dựng
phương án kế hoạch tiếp theo sau một cách chính xác.
c.Hệ thống KH trong doanh nghiệp và mối quan hệ giữa các thành phần
trong hệ thống

Đứng trên mỗi góc độ khác nhau, hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp
được phân chia thành những bộ phận khác nhau
Theo góc độ thời gian:
Đây là việc phân đoạn kế hoạch theo thời gian cần thiết để thực hiện
các chỉ tiêu đặt ra, theo góc độ này, kế hoạch doanh nghiệp gồm 3 bộ phận
cấu thành:
-Kế hoạch dài hạn: Kế hoạch dài hạn là kế hoạch bao trùm lên khoảng
thời gian khoảng 10 năm, quá trình soạn thảo kế hoạch này được đặc trưng
bởi môi trường liên quan được hạn chế bởi thị trường mà doanh nghiệp có
mặt; Dự báo trên cơ sở ngoại suy từ quá khứ; Chủ yếu nhấn mạnh các rang
buộc về tài chính; Sử dụng rộng rãi các phương pháp kinh tế lượng để dự báo
-Kế hoạch trung hạn: Là kế hoạch cụ thể hóa những định hướng của kế
hoạch dài hoạn ra các khoảng thời gian ngắn hơn thường là 3 hoặc 5 năm
-Kế hoạch ngắn hạn: Là kế hoạch hàng năm và các kế hoạch khác như
kế hoạch tiến độ; triển khai kế hoạch năm như kế hoạch tháng, quý, tuần,…
Các kế hoạch ngắn hạn bao gồm các phương pháp cụ thể sử dụng nguồn lực
của các doanh nghiệp cần thiết để đạt được mục tiêu trong kế hoạch trung, dài
hạn
Theo góc độ nội dung:
Theo góc độ này thì kế hoạch được chia thành kế hoạch chiến lược và
kế hoạch tác nghiệp.
-Kế hoạch chiến lược: Là kế hoạch ở cấp độ toàn bộ doanh nghiệp,
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
5
Luận văn tốt nghiệp
thiết kế nên những mục tiêu chung của doanh nghiệp và vị trí của công ty
trong môi trường. Kế hoạch chiến lược áp dụng trong các doanh nghiệp là
định hướng lớn cho phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện, củng cố vị thế
cạnh tranh của mình và những phương pháp cơ bản để đạt được mục tiêu đó.
Soạn lập kế hoạch chiến lược phải xuất phát từ khả năng thực tế của doanh

nghiệp và nó thể hiện sự phản ứng của doanh nghiệp đối với hoàn cảnh khách
quan bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Nói đến kế hoạch chiến lược
không phải là nói đến góc độ thời gian của chiến lược mà nói đến tính chất
định hướng của kế hoạch và bao gồm toàn bộ mục tiêu tổng thể phát triển
doạn nghiệp
-Kế hoạch tác nghiệp (kế hoạch chiến thuật): Là kế hoạch trình bày chi
tiết cần phải làm như thế nào để có thể đạt được những mục tiêu trong kế
hoạch chiến lược. Là công cụ chuyển định hướng chiến lược thành các
chương trình áp dụng cho các bộ phận của doanh nghiệp. Kế hoạch tác nghiệp
đưa ra những bước cụ thể mà doanh nghiệp sẽ tiến hành để thực hiện kế
hoạch chiến lược: Kế hoạch sản xuất, kế hoạch marketing, kế hoạch tài chính,
kế hoạch nhân sự,…
1.1.2. Vai trò của kế hoạch hoá trong doanh nghiệp
1.1.2.1.Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp
lệnh là cơ sở điều tiết mọi hoạt động tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Vai trò lớn nhất của cơ chế này là: có năng lực tạo ra
các tỷ lệ tiết kiệm và tích luỹ rất cao, thực hiện được những cân đối cần thiết
trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế có thể đạt được mức cung
ứng các nguồn lực cần thiết để tạo ra tăng trưởng nhanh. Đặc biệt nhờ có cơ
chế kế hoạch hoá tập trung mà Nhà nước có thể hướng các nguồn lực cần
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
6
Luận văn tốt nghiệp
thiết để thực hiện các mục tiêu và lĩnh vực cần ưu tiên trong từng thời kỳ nhất
định. Các đơn vị kinh tế xem như là những tế bào trong tổng thể nền kinh tế,
thực hiện nhiệm vụ kế hoạch theo những mục tiêu thống nhất từ trên xuống
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường, cơ chế kế hoạch hoá theo
mô hình tập trung mệnh lệnh trở nên không còn phù hợp, bản than những đặc
trưng của cơ chế này đã tạo ra những rào cản hạn chế sự phát triển của chính

các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
- Hạn chế tính năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các doanh
nghiệp trong việc thích nghi với những điều kiện thị trường.
- Nền kinh tế bị mất động lực phát triển, các doanh nghiệp không có
khả năng cạnh tranh, nhất là trong logic của kinh tế cầu.
- Hạn chế tính năng động về công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới vì việc
cho ra đời các sản phẩm mới không được gắn chặt với cơ chế khuyến khích.
- Hiệu quả kinh tế rất thấp do vừa không có những chỉ số về chi phí
kinh tế tương đối, vừa không có những cơ chế đãi ngộ xứng đáng cho tính
hiệu quả và trừng phạt đối với sự phi hiệu quả.
1.1.2.2.Trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường thì những dấu hiệu thị trường là cơ sở cho
doanh nghiệp thực hiện hành vi sản xuất kinh doanh của mình. Tuy vậy, kế
hoạch hóa vẫn là cơ chế quản lý hữu hiệu, cần thiết của doanh nghiệp. Kế
hoạch hóa trong doanh nghiệp thể hiện vai trò của mình với hoạt động quản lý
kinh doanh của doanh nghiệp là:
a.Tập trung sự chú ý của các hoạt động doanh nghiệp vào các mục tiêu
Kế hoạch là công cụ đắc lực trong việc phối hợp nỗ lực của các mục
tiêu trong doanh nghiệp. Trong đó lập kế hoạch là khâu đầu tiên và quan
trọng nhất trong quy trình kế hoạch tại doanh nghiệp, là công việc duy nhất có
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
7
Luận văn tốt nghiệp
liên quan tới việc thiết lập mục tiêu cần thiết cho sự phấn đấu của cả doanh
nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, thì trường thường xuyên
có những biến động khó lường thì việc quản lý doanh nghiệp bằng kế hoạch
giúp cho doanh nghiệp dự kiến được những thách thức cũng như những cơ
hội có thể xảy ra với doanh nghiệp và buộc doanh nghiệp phải quyết định nên
làm gì? Làm như thế nào? Và làm cho ai? Để có thể thực hiện được các mục
tiêu đề ra. Nói cách khác kế hoạch cho biết hướng đi của doanh nghiệp trong

thời gian tới. Các thành viên trong doanh nghiệp cũng sẽ phối hợp các hành
động của mình vì mục tiêu chung, vì hướng đi chung đó.
b.Ứng phó với những bất định, thay đổi của thị trường
Lập kế hoạch là dự kiến cho những vấn đề trong tương lai của doanh
nghiệp. Tương lai là điều khó có thể chắc chắn được, mặc dù giả định tương
lai chắc chắn thì các nhà quản lý vẫn muốn tìm cách tốt nhất để đạt được
những mục tiêu. Chính vì thế, để có thể chủ động ứng phó với những tình
huống xảy ra trong tương lai, để có thể đạt được mục tiêu một cách hiệu quả
nhất thì doanh nghiệp phải tiến hành soạn lập kế hoạch, sau đó triển khai thực
hiện, cộng với sự kiểm tra và giám sát thường xuyên.
c.Tạo khả năng tác nghiệp kinh tế
Hướng tới mục đích cực tiểu hóa chi phí vì nó chú trọng vào các hoạt
động hiệu quả và đảm bảo tính phù hợp. Kế hoạch thay thế sự hoạt động
manh mún không được phối hợp bằng sự nỗ lực có định hướng chung, thay
thế những luồng hoạt động thất thường bởi một luồng đều đặn, và thay thế
những phán xét vội vàng bằng những quyết định có căn nhắc kỹ lưỡng. Kế
hoạch giúp giảm thiểu sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí. Vì kế
hoạch là việc đưa ra những mục tiêu cụ thể rõ ràng nên nó giúp doanh nghiệp
không lãng phí tài nguyên vì đi lệch quỹ đạo.
1.2. KH sản xuất trong doanh nghiệp
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
8
Luận văn tốt nghiệp
1.2.1. Hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp
1.2.1.1.Khái niệm
Hiện nay theo quan niệm phổ biến trên thế giới thì sản xuất được hiểu
là một quá trình tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
Ở nước ta lâu nay một số người cho rằng chỉ có những doanh nghiệp
chế tạo sản xuất ra các sản phẩm vật chất có hình thái cụ thể như ximang, tivi,
tủ lạnh, xe máy,… mới gọi là các doanh nghiệp sản xuất. Những doanh

nghiệp còn lại nếu không sản xuất ra các sản phẩm vật chất thì đều bị xếp vào
đơn vị phi vật chất. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường thì quan niệm đó
không còn phù hợp nữa.
Như vậy thực chất sản xuất chính là quá trình chuyển hóa đầu vào và
biến chúng thành các đầu ra dưới dạng sản phẩm hay dịch vụ.
1.2.1.2.Phân loại
Mỗi quá trình sản xuất đều được đặc trưng bởi đặc điểm của sản phẩm
nó sản xuất ra, những đặc trưng khác nhau này có vai trò rất quan trọng trong
vệc xác định các quy trình cũng như lựa chọn các phương pháp để quản lý, để
kế hoạch hóa. Hoạt động sản xuất có thể được phân chia thành nhiều cách
theo các cách tiếp cận khác nhau như: Theo tính chất lặp lại của sản xuất, theo
hình thức tổ chức sản xuất và theo mối quan hệ với khách hàng
a.Phân loại theo khối lượng sản xuất và tính chất lặp lại của sản xuất
Tùy theo khối lượng của sản phẩm được sản xuất và theo tính chất lặp lại
của quy trình, chúng ta có thể phân biệt thành các loại hình sản xuất sau:
- Sản xuất đơn chiếc
- Sản xuất nhỏ và vừa
- Sản xuất lớn
Số lượng sản xuất nhỏ hay lớn được xem xét theo một cách tiếp cận
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
9
Luận văn tốt nghiệp
tương đối, bởi chúng còn phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại sản phẩm.
Nhìn chung, đối với các hoạt động sản xuất có tính chất lặp lại thì việc tổ
chức công tác kế hoạch hóa có phần đơn giản và hiệu quả hơn.
b.Phân loại sản xuất theo cách thức tổ chức sản xuất
- Sản xuất liên tục: Là quá trình sản xuất mà ở đó người ta sản xuất và xử
lý một khối lượng lớn một loại sản phẩm hoặc một nhóm sản phẩm nào đó
- Sản xuất gián đoạn: Là hình thức tổ chức sản xuất mà ở đó người ta xử
lý, gia công, chế biến một khối lượng tương đối nhỏ các loại sản phẩm đa dạng.

- Sản xuất theo dự án: Là loại hình sản xuất mà ở đó sản phẩm là độc
nhất (xây đập, dựng phim,…) đó đó quá trình sản xuất cũng là duy nhất,
không có tính lặp lại.
c.Phân loại theo mối quan hệ với khách hàng
Tùy theo mức độ phụ thuộc vào những yêu cầu của khách hàng đối với
việc điều phối sản xuất, chúng ta có thể tổ chức sản xuất để dự trữ hoặc sản
xuất theo yêu cầu của khách hàng
- Sản xuất để dự trữ: Là quá trình sản xuất được bắt đầu với sự dự tính
trước nhu cầu có thể thanh toán đối với một sản phẩm mà đặc tính kỹ thuật
được các nhà sản xuất xác định. Theo loại hình sản xuất này, doanh nghiệp sẽ
chủ động trong việc lập kế hoạch sản xuất theo các ràng buộc của mình, sau
đó tìm cách tiêu thụ khối lượng đã sản xuất ra thông qua các hoạt động
thương mại
- Sản xuất theo yêu cầu (theo đơn đặt hàng): Là quá trình sản xuất được
tiến hành chỉ khi đã xuất hiện yêu cầu cụ thể của khách hàng về sản phẩm.
thông thường thì nhu cầu này xuất hiện dưới dạng các đơn đặt hàng, nó chỉ rõ
khối lượng yêu cầu cùng với các đặc tính kỹ thuật của sản phẩm do khách
hàng quyết định. Để thực hiện hình thức tổ chức sản xuất này, đòi hỏi hệ
thống sản xuất của doanh nghiệp phải rất linh hoạt để có thể đáp ứng những
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
10
Luận văn tốt nghiệp
nhu cầu khác nhau của khách hàng.
- Sản xuất hỗn hợp: Là hình thức sản xuất là có sự kết hợp các phương
pháp sản xuất. Việc làm này sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được các ưu điểm
của mỗi loại hình sản xuất, giúp doanh nghiệp có được sự linh hoạt trong sản
xuất, chủ động trong điều độ sản xuất. tiết kiệm chi phí, thỏa mãn được những
nhu cầu khác biệt của khách hàng.
1.2.1.3.Vai trò của hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức sử dụng các nguồn lực khác nhau để thoả

mãn những nhu cầu khác nhau của nền kinh tế (người tiêu dùng, tổ chức,
doanh nghiệp) thông qua việc tổ chức sản xuất và cung cấp dịch vụ. Để quản
lý các nguồn lực này, doanh nghiệp được tổ chức thành các chức năng khác
nhau như: Thương mại, sản xuất, tài chính, nhân sự, hành chính, v.v.. Trong
đó hoạt động sản xuất được coi là một chức năng quan trọng nhất trong doanh
nghiệp, là chức năng bắt đầu của hoạt động sản xuất kinh doanh, là khởi điểm
của mọi hoạt động kinh tế
Nhờ có hoạt động sản xuất, thông qua các quy trình khác nhau có sử
dụng các phương pháp và công nghệ khác nhau mà các sản phẩm và dịch vụ
được hình thành, với các giá trị sử dụng khác nhau cho phép thoả mãn nhu cầu
của người tiêu dùng. Không có chức năng sản xuất thì tài nguyên thiên nhiên
không thể biến thành các vật dụng hang ngày phục vụ cho các nhu cầu của cuộc
sống. Do vậy, sản xuất là hoạt động tạo ra nguồn gốc của giá trị, tạo ra của cải
vật chất cho xã hội, tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp và cho người lao động
Mặt khác, xét về khía cạnh việc làm, hoạt động sản xuất là hoạt động
tạo ra nhiều việc làm nhất cho xã hội. Theo thống kê chung, sản xuất là chức
năng chủ yếu thu hút đến 70-80% lao động của các doanh nghiệp.
1.2.2.Kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
11
Luận văn tốt nghiệp
1.2.2.1.Khái niệm
Kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp “là một trong những nội dung
quan trọng của hoạt động sản xuất, kế hoạch hóa sản xuất nhằm tối ưu hóa
việc sử dụng những yếu tố sản xuất sẵn có để sản xuất một hoặc nhiều sản
phẩm đã định”
1.2.2.2.Vai trò và vị trí của kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
a.Vai trò của kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Thực tế luôn có sự chênh lệch giữa dự báo và thị trường nơi mà doanh
nghiệp có mặt, vì vậy kế hoạch phải được xây dựng dựa trên năng lực sản

xuất và các phân tích đánh giá, dự báo nhu cầu của sản phẩm trên thị trường.
Kế hoạch sản xuất được điều chỉnh linh hoạt sao cho thích ứng với mọi sự
biến động của môi trường kinh doanh, đặc biệt là sự biến động của nhu cầu.
Kế hoạch sản xuất làm cho chức năng sản xuất trở thành một nhân tố
quan trọng đảm bảo sự thành công của doanh nghiệp, với các yêu cầu của
quản lý sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo khả năng hoạt động
tốt của hệ thống sản xuất, quản lý tốt các nguồn lực và có các quyết định đầu
tư phù hợp,v.v..
b.Vị trí của kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Kế hoạch sản xuất cùng với kế hoạch Marketing, kế hoạch tài chính, kế
hoạch nhân sự, kế hoạch R&D,… hợp thành kế hoạch chức năng của doanh
nghiệp, xem đó như là kế hoạch tác nghiệp để chỉ đạo và điều hành sản xuất
kinh doanh. Nó giúp cụ thể hóa kế hoạch chiến lược, đảm bảo thực hiện được
các mục tiêu của doanh nghiệp.
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
12
Luận văn tốt nghiệp
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các kế hoạch chức năng trong doanh nghiệp
Nguồn: Giáo trình kế hoạch kinh doanh (ThS. Bùi Đức Tuân)
Kế hoạch sản xuất sẽ phải các định được các nội dung như: Khối lượng
sản xuất mỗi đơn vị sản phẩm, lượng dự trữ cần thiết đối với thành phẩm và
bán thành phẩm, sử dụng các yếu tố sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu và
bán thành phẩm, các kế hoạch thuê ngoài (gia công),…Việc xác định các yếu
tố này phải thỏa mãn các ràng buộc chặt chẽ về mặt kỹ thuật, các mục tiêu
của doanh nghiệp, các nguồn lực của các bộ phận khác nhau trong doanh
nghiệp đặc biệt là các ràng buộc về mục tiêu bán hàng, khả năng cung ứng
nhân sự và các mục tiêu hiệu quả tài chính
1.2.2.3.Qui trình
Kế hoạch hoá sản xuất trong doanh nghiệp là một qui trình bao gồm
nhiều bước, các bước có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện sự gắn kết

của KHSX với các hoạt động khác của doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện ở
sơ đồ sau:
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
13
Kế hoạch R&D
Kế hoạch sản
xuất và dự trữ
Kế hoạch
Marketing
Kế hoạch tài
chính
Kế hoạch nhân
sự
Nhu cầu của
khách hàng
Sản phẩm mới
Khối lượng
Công suất và
thời hạn
Dự toán
Ràng buộc
Cung
nhân sự
Nhu cầu nhân
sự
Luận văn tốt nghiệp
Sơ đồ 1.2: Qui trình kế hoạch hóa sản xuất tại doanh nghiệp
Nguồn: Giáo trình kế hoạch kinh doanh (ThS. Bùi Đức Tuân)
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
14

Tài chính
Luồng tiền
nhân sự
KH nhân sự
Năng lực
Sản xuất
Tồn kho
Marketing
Nhu cầu
Mua sắm năng
lực cung cấp
Kế hoạch sản
xuất tổng thể
Kế hoạch chỉ
đạo sản xuất
Kế hoạch nhu
cầu nguyên
vật liệu
Thực hiện kế
hoạch công
suất
Thực hiện kế
hoạch nguyên
vật liệu
Kế hoạch nhu
cầu công suất
Khả thi

Không
Điều chỉnh

nhu cầu
Điều chỉnh
công suất
Kiểm
tra
công
suất
Thực
hiện có
phù hợp
với kế
hoạch
Điều chỉnh
KH chỉ đạo
sx
Điều chỉnh
KHSX
Luận văn tốt nghiệp
Nội dung quy trình được chia thành 8 bước tuần tự như sau:
Bước 1: Xác định các căn cứ lập kế hoạch như nhu cầu thị trường, năng
lực tài chính, nhân sự,..Việc làm này sẽ giúp cho bản kế hoạch của doanh
nghiệp khả thi và sát thực tế hơn.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch sản xuất tổng thể. Kế hoạch này nhằm xác
định những nhóm sản phẩm chủ yếu mà doanh nghiệp định tiến hành sản xuất
trong giai đoạn tới
Bước 3: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo sản xuất. Đây là sự thể hiện kế
hoạch sản xuất tổng thể trên chương trình chỉ đạo sản xuất tương ứng, thích
hợp với khả năng sản xuất của các đơn vị.
Bước 4: Xây dựng kế hoạch nhu cầu nguyên vật liệu, xác định các yếu
tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất

Bước 5: Xác định nhu cầu công suất. Xác định nhu cầu công suất thích
hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kế hoạch chỉ đạo sản xuất và kế hoạch sản xuất
tổng thể trên cơ sở nguồn cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho trước
Bước 6: Xác định tính khả thi của kế hoạch nhu cầu công suất. Tính
khả thi của kế hoạch công suất được xác định bằng cách so sánh đối chiếu với
công suất thực tế của máy móc thiết bị.
Bước 7: Thực hiện kế hoạch công suất
Bước 8: Thực hiện kế hoạch nhu cầu nguyên vật liệu
1.2.2.4. Nội dung và phương pháp lập một số loại kế hoạch sản xuất trong
doanh nghiệp
a.Kế hoạch sản xuất tổng thể
Kế hoạch sản xuất tổng thể liên quan tới việc xác định khối lượng và thời
gian sản xuất cho tương lai gần, thường là trong vòng từ 3 tới 18 tháng. Nhà
quản lý sản xuất cố gắng tìm ra cách thức tốt nhất để đáp ứng nhu cầu bằng
cách điều phối qui mô sản xuất, mức độ sử dụng lao động, sử dụng giờ phụ
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
15
Luận văn tốt nghiệp
trội, thuê gia công, và các yếu tố kiểm soát khác. Thông thường mục tiêu của
kế hoạch sản xuất tổng thể nhằm giảm thiểu chi phí trong kỳ kế hoạch. Đối
với đa phần các doanh nghiệp sản xuất, kế hoạch sản xuất tổng thể chủ yếu
nhằm đưa ra các chính sách sản xuất, thương mại, mua sắm, cung ứng,v.v…
cho hoạt động chung và cho nhóm sản phẩm. Kế hoạch sản xuất tổng thể là
một phần của hệ thống KHH sản xuất do vậy cần thiết phải hiểu được mối
quan hệ giữa kế hoạch và một số các yếu tố bên trong và bên ngoài. Quản lý
sản xuất không chỉ thu nhận thông tin từ dự báo nhu cầu của bộ phận
marketing, mà còn sử dụng nhiều các dữ liệu về tài chính, nhân sự, công suất
cũng như lượng nguyên vật liệu sẵn có
Có nhiều cách để lập kế hoạch sản xuất tổng thể, tuỳ theo các chính sách
khác nhau của doanh nghiệp, trong đó có 2 cách tiếp cận thường được sử

dụng là phương pháp đồ thị và phương pháp toán học
*Phương pháp đồ thị
Là phương pháp được sử dụng rộng rãi do chúng dễ hiểu và dễ sử dụng.
Phương pháp này sử dụng một số ít các biến số và cho phép người làm kế
hoạch so sánh được nhu cầu dự báo và công suất hiện tại của doanh nghiệp.
Theo phương pháp này, người làm kế hoạch sẽ thực hiện 5 bước:
Bước 1: Xác định nhu cầu sản xuất mỗi kỳ
Bước 2: Xác định công suất giờ chuẩn, giờ phụ trội và thuê gia công cho
mỗi kỳ
Bước 3: Xác định chi phí lao động, thuê gia công và chi phí lưu kho
Bước 4: Tính đến chính sách của doanh nghiệp đối với lao động hoặc mức
lưu kho
Bước 5: Khảo sát các kế hoạch và ước tính tổng chi phí
*Phương pháp toán học
Có nhiều phương pháp toán học được sử dụng vào kế hoạch hoá sản xuất
trong những năm gần đây, sau đây là một số phương pháp
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
16
Luận văn tốt nghiệp
- Mô hình hệ số quản lý: Mô hình hệ số quản lý của Bowman là một mô
hình lập kế hoạch được xây dựng dựa trên thành tích và kinh nghiệm
của các cán bộ lãnh đạo, với giả thiết rằng thành tích quá khứ của các
cán bộ lãnh đạo là khá tốt, do vậy có thể được sử dụng như là một cơ sở
cho các quyết định tương lai. Kỹ thuật này được sử dụng phương pháp
phân tích hồi quy các quyết định sản xuất trong quá khứ của cán bộ
lãnh đạo, và đường hồi quy sẽ chỉ ra mối quan hệ giữa các biến số
(chẳng hạn giữa nhu cầu và lao động) trong các quyết định tương lai.
Theo Bowman, sự kém cỏi của nhà lãnh đạo thường thể hiện qua sự
không nhất quán trong việc ra quyết định
- Các mô hình khác: Có hai mô hình khác nhau được sử dụng cho việc

lập kế hoạch sản xuất tổng thể, đó là mô hình nguyên tắc quyết định
tuyến tính, mô hình mô phỏng. Nguyên tắc quyết định tuyến tính nhằm
mục đích xác định mức sản xuất tối ưu và mức sử dụng lao động cho
mỗi kỳ kế hoạch. Mô hình này cho phép giảm thiểu chi phí tiền lương,
tiền thưởng, chi phí ngừng sản xuất, tiền thêm giờ và chi phí lưu kho,…
Mô hình máy tính có tên gọi lập kế hoạch bằng mô phỏng sử dụng một
thủ tục tìm kiếm để tìm ra một sự kết hợp giữa quy mô lao động và
mức sản xuất sao cho ít tốn kém nhất
b.Kế hoạch chỉ đạo sản xuất
Kế hoạch chỉ đạo sản xuất là bước trung gian giữa kế hoạch sản xuất tổng
thể và kế hoạch nhu cầu sản xuất. Kế hoạch chỉ đạo sản xuất xác định doanh
nghiệp cần phải sản xuất cái gì (số lượng một sản phẩm hay bộ phận của sản
phẩm) và khi nào thì sản xuất. Kế hoạch này phải phù hợp với kế hoạch sản
xuất tổng thể. Kế hoạch sản xuất cho chúng ta biết cần chuẩn bị những gì để
thoả mãn nhu cầu và đáp ứng kế hoạch sản xuất tổng thể. Kế hoạch chỉ đạo
sản xuất không phải là sự chi nhỏ kế hoạch sản xuất tổng thể mà là sự thể hiện
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
17
Luận văn tốt nghiệp
kế hoạch đó trên chương trình chỉ đạo sản xuất tương ứng, thích hợp với khả
năng sản xuất của các đơn vị nhằm thoả mãn tốt nhất dự báo kế hoạch. Trong
khi kế hoạch sản xuất tổng thể được lập dưới dạng tổng quát cho các nhóm
mặt hàng, thì kế hoạch chỉ đạo sản xuất được lập cho mỗi mặt hàng cụ thể
c.Kế hoạch tiến độ sản xuất
Kế hoạch tiến độ sản xuất cụ thể hoá các quyết định về công suất, kế
hoạch sản xuất tổng thể, kế hoạch chỉ đạo sản xuất thành các chuỗi công việc
và sự phân công nhân sự, máy móc nguyên vật liệu. Kế hoạch đòi hỏi phân bố
thời gian cho từng công việc, tuy nhiên thường thì có nhiều bước công việc
cùng đòi hỏi sử dụng cùng nguồn lực (công nhân, máy móc, phân xưởng,…)
do đó doanh nghiệp sử dụng một số kỹ thuật để giải quyết mâu thuẫn này.

*Phương pháp điều kiện sớm: Bắt đầu lịch trình sản xuất sớm nhất có thể
khi đã biết yêu cầu công việc. Phương pháp điều kiện sớm thường được thiết
kế để lập ra một kế hoạch có thể được hoàn thành cho dù không đúng thời hạn
cần thiết. Trong nhiều trường hợp phương pháp này gây ra sự tồn đọng sản
phẩm dở dang.
*Phương pháp điều kiện muộn: Bắt đầu với thời hạn cuối cùng, lên lịch của
công việc cuối cùng trước tiên. Bằng cách trừ lùi thời gian cần thiết cho mỗi
bước công việc, chúng ta sẽ biết thời gian phải bắt đầu sản xuất. Tuy nhiên,
các nguồn lực cần thiết để hoàn thành lịch trình có thể không có sẵn. Trên
thực tế, doanh nghiệp thường kết hợp hai phương pháp trên để tìm ra sự thoả
hiệp giữa những công việc có thể hoàn thành và thời hạn yêu cầu của khách
hàng
*Phương pháp biểu đồ GANTT: Nội dung của phương pháp này nhằm xác
định thứ tự và thời hạn sản xuất của các công việc khác nhau cần thiết cho
một chương trình nhất định, tuỳ theo độ dài của mỗi bước công việc, các điều
kiện trước của mỗi công việc, các kỳ hạn cần tuân thủ và năng lực sản xuất.
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
18
Luận văn tốt nghiệp
Phương pháp này được sử dụng đối với việc sản xuất các sản phẩm không quá
phức tạp, và để áp dụng phương pháp này doanh nghiệp cần ấn định một
chương trình sản xuất, xác định các công việc khác nhau cần thực hiện, xác định
thời gian cần thiết cho mỗi công việc cũng như các mối quan hệ giữa chúng.
2.Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp
2.1. Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Có thể nói tình hình tài chính là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh
của doanh nghiệp. Căn cứ vào khối lượng tài sản cố định, tài sản lưu động mà
công ty có thể xây dựng một kế hoạch sản xuất phù hợp với điều kiện của
công ty mình. Ngoài ra, công tác kế hoạch hoá là công tác được thực hiện
xuyên suốt toàn công ty, trong suốt quá trình hoạt động của công ty, vì thế sự

vững mạnh về tài chính là điều kiện giúp cho hoạt động kế hoạch được tiến
hành trôi chảy. Nguồn tài chính vững mạnh cũng là một nguồn tài trợ vững
chắc cho công cuộc hoàn thiện, đổi mới công tác kế hoạch hoá tại doanh
nghiệp, góp phần tăng hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2. Tình hình nhân sự của doanh nghiệp
Con người luôn là chủ thể của mọi hoạt động. Với một doanh nghiệp thì
nhân sự sẽ quyết định tới sự thành công hay thất bại của công tác kế hoạch
hoá. Một doanh nghiệp với một đỗi ngũ nhân viên giỏi có kinh nghiệm sẽ là
tiền đề cho sự hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp đó, ngược lại một đội ngũ
nhân viên năng lực kém sẽ là mầm mống cho sự thất bại của doanh nghiệp.
Với công tác kế hoạch hoá sản xuất là một công tác quan trọng hàng đầu với
doanh nghiệp sản xuất, là công tác yêu cầu sự tham gia của toàn thể CBNV
trong công ty thì yêu cầu một đội ngũ nhân viên có năng lực và phẩm chất tốt
là một yêu cầu thiết yếu cho sự hoạt động hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh.
2.3. Bộ máy quản lý của doanh nghiệp
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
19
Luận văn tốt nghiệp
Bộ máy quản lý doanh nghiệp bao gồm những người lãnh đạo trong
doanh nghiệp đó. Một bộ máy quản lý bao gồm những nhà lãnh đạo giỏi sẽ
luôn biết gắn kết mọi hoạt động của các cá nhân rời rạc trong doanh nghiệp
thành một khối vững chắc tận tâm với công ty, biết hướng toàn thể công ty
theo một mục tiêu chung. Ngoài ra nhà lãnh đạo giỏi còn là người biết đưa ra
các định hướng chiến lược phù hợp – làm tiền đề cho mọi quyết định kế
hoạch của công ty.
2.4. Các điều kiện phục vụ cho công tác lập kế hoạch sản xuất
Kế hoạch sản xuất là một bộ phận kế hoạch không thể thiếu trong
doanh nghiệp. Nhưng nếu chỉ dựa vào những lý luận cơ bản của kế hoạch sản
xuất thì không phải cán bộ làm kế hoạch nào cũng có thể hoàn thành tốt

nhiệm vụ quản lý của mình. Ngoài chuyên môn trong công tác lập kế hoạch
thì hoạt động kế hoạch còn chịu nhiều tác động từ các yếu tố khác như cơ cấu
tổ chức của công ty, của phòng kế hoạch, các điều kiện khác phục vụ cho
công tác kế hoạch như trình độ của cán bộ kế hoạch, điều kiện làm việc, các
công cụ được công ty trang bị,…
a. Về cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp và chức năng nhiệm vụ của các
phòng ban
Công tác kế hoạch hóa không chỉ là việc của lãnh đạo công ty và phòng
kế hoạch nó còn đòi hỏi sự tham gia của tất cả các bộ phận trong công ty.
Lãnh đạo công ty là người thiết kế quy trình kế hoạch hóa, xác định nội
dung và trình tự thực hiện công tác kế hoạch. Ban lãnh đạo có nhiệm vụ phải
soạn lập được kế hoạch chiến lược, xác định được các mục tiêu phát triển. Từ
đó tất cả các hoạt động của công ty kể cả hoạt động kế hoạch hóa sản xuất
cũng phải lấy đó làm tiêu chí, tôn chỉ cho mọi hành động.
Với công tác kế hoạch hóa sản xuất thì trách nhiệm của các phòng ban
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
20
Luận văn tốt nghiệp
chức năng khác trong công ty là cung cấp các thông tin cần thiết một cách
chính xác, nhanh nhất cho đơn vị trực tiếp lập kế hoạch.
Phòng kế hoạch của công ty phải là nơi trực tiếp soạn thảo kế hoạch
sản xuất, theo dõi đánh giá kiểm tra việc thực hiện kế hoạch. Như vậy chức
năng của phòng kế hoạch sản xuất là:
- Trực tiếp soạn lập các loại kế hoạch sản xuất ngắn hạn và dài hạn cho
công ty
- Tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất tại công ty
- Tiến hành kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch một cách thường
xuyên, đánh giá việc thực hiện kế hoạch một cách định kỳ.
- Tham mưu cho lãnh đạo công ty trong việc soạn lập chiến lược doanh
nghiệp, cung cấp các thông tin chính xác cho các phòng ban chức năng khác

- Tổ chức các khóa học cần thiết cho người tham gia vào công tác kế
hoạch để có thể kịp thời áp dụng những đổi mới trong công tác kế hoạch.
b.Trình độ cán bộ kế hoạch
Để bản kế hoạch được thành công thì ngoài việc tổ chức bộ máy kế
hoạch hợp lý thì cán bộ làm kế hoạch cũng cần phải có những phẩm chất,
trình độ sau:
- Là nhà lý luận tốt, có thói quen suy luận trừu tượng và có tính chất
của một nhà ngoại giao
- Có chuyên môn kế hoạch chuyên sâu, biết sử dụng hiểu biết của mình
vào việc soạn thảo kế hoạch, chính sách và tổ chức điều hành công tác kế
hoạch hóa trong doanh nghiệp
- Có khả năng giao tiếp ở mức độ chuyên nghiệp với các chuyên viên,
chuyên gia chức năng khác như tài chính, hành chính, marketing,..
- Có những hiểu biết sâu rộng nhiều vấn đề kinh tế xã hội, có sở thích
Sinh viên: Hoàng Thị Nhuần Lớp: Kế hoạch 47A
21

×