Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Quản lý tập trung kinh tế. Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị tăng cường công tác quản lý tập trung kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.51 KB, 131 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong tiến
trình hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế. Sự thâm nhập của
các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường trong nước ngày càng sâu rộng.
Nhiều doanh nghiệp nước ngoài trong đó có các tập đoàn đa quốc gia, đầu tư
vào Việt Nam bằng cách mua lại các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời,
các doanh nghiệp trong nước cũng có xu hướng cấu trúc lại bằng cách mua
lại, sáp nhập với các doanh nghiệp khác để mở rộng quy mô hoạt động; tìm
kiếm, mở rộng thị trường; nâng cao khả năng cạnh tranh.
Đặc biệt chính sách tiền tệ thắt chặt của Chính phủ nhằm kiềm chế
lạm phát đã làm cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn sản xuất kinh
doanh. Vì vậy việc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp được đặt ra như một
phương án giúp các doanh nghiệp tìm kiếm những cơ hội phát triển mới, tăng
quy mô hoạt động nhằm tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhìn chung, tập trung kinh tế ở Việt Nam đang được đặt ra như một
giải pháp chiến lược của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, xu hướng này gia tăng sẽ hình thành các doanh nghiệp lớn có sức
mạnh chi phối thị trường, ảnh hưởng tới môi trường cạnh tranh mà chính phủ
Việt Nam đang nỗ lực cải thiện. Quản lý tập trung kinh tế đang được đặt ra
như một nhiệm vụ quan trọng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy,
nghiên cứu đề tài “Quản lý tập trung kinh tế: Kinh nghiệm quốc tế và kiến
nghị tăng cường công tác quản lý tập trung kinh tế ở Việt Nam” là rất cần
thiết.
Với mục tiêu nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp để tăng cường
công tác quản lý tập trung kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới, đề tài được
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
1
Luận văn tốt nghiệp
kết cấu gồm bốn chương như


sau:
Chương I. Cơ sở lý luận về tập trung kinh tế. Nội dung của chương
xây dựng khung lý thuyết chung về tập trung kinh tế và công tác quản lý tập
trung kinh tế.
Chương II. Kinh nghiệm quản lý tập trung kinh tế trên thế giới.
Nội dung của chương tập trung nghiên cứu quá trình tập trung kinh tế và công
tác quản lý tập trung kinh tế ở một số quốc gia trên thế giới đã có nhiều thành
công trong quản lý tập trung kinh tế nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.
Chương III. Thực trạng tập trung kinh tế và công tác quản lý tập
trung kinh tế ở Việt Nam thời gian qua. Nội dung của chương là nghiên
cứu thực trạng tập trung kinh tế, công tác quản lý tập trung kinh tế ở Việt
Nam; phân tích những thành tựu cũng như những vấn đề còn tồn tại và chỉ ra
nguyên nhân của những tồn tại đó trong quản lý tập trung kinh tế ở Việt Nam.
Chương IV. Kiến nghị tăng cường công tác quản lý TTKT ở Việt
Nam. Nội dung của chương là phân tích xu hướng TTKT ở Việt Nam trong
thời gian tới đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế đã
tìm ra ở chương III và những giải pháp cho yêu cầu đặt ra trong quản lý
TTKT thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Hướng tới nội dung nghiên cứu trong các chương như trên, phạm vi
nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề sau:
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
2
Luận văn tốt nghiệp
Thứ nhất, các hình thức,
mức độ tập trung kinh tế ở Việt
Nam và một số quốc gia trên thế
giới.
Thứ hai, khung pháp lý

điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tập trung kinh tế ở Việt Nam và một số
quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, các cơ quan có chức năng quản lý tập trung kinh tế ở Việt
Nam và một số quốc gia trên thế giới.
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu đề tài là phương pháp thu thập thông tin, dữ
liệu sơ cấp và thứ cấp phân tích, kết hợp với phương pháp phân tích – tổng
hợp thông tin trong các tài liệu thống kê, các báo cáo, nghiên cứu, phân tích
hiện có của Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương Việt Nam và các cơ
quan khác có liên quan, thu thập tài liệu trên các sách, báo, tạp chí, website
chính thức của cơ quan quản lý cạnh tranh một số quốc gia trên thế giới và
các tổ chức quốc tế.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Nguyễn Thị Hoa cùng các cán
bộ của Cục Quản lý cạnh tranh đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo điều kiện tốt
giúp em hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu nhưng do hạn chế về kiến thức cũng
như thời gian nghiên cứu nên đề tài không không tránh khỏi những thiếu sót.
Em kính mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô để kết quả nghiên cứu
của em được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa thiết thực trong thực tiễn.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
3
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
I. Một số vấn đề cơ bản về tập trung kinh tế
1. Khái niệm và hình thức tập trung kinh tế
1.1. Khái niệm tập trung kinh tế
Khái niệm tập trung kinh tế được xem xét trên cơ sở nền kinh tế thị
trường- nơi các chủ thể kinh tế tồn tại độc lập và có quyền tự chủ trong các
quyết định sản xuất- kinh doanh của mình. Khái niệm tập trung kinh tế được

xem xét theo hai cách tiếp cận cơ bản như sau:
1.1.1. Dưới góc độ cấu trúc thị trường
Với tính chất là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của
cấu trúc thị trường, tập trung kinh tế được hiểu là quá trình mà số lượng các
doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các
hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của
doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất. Cách nhìn nhận này đã
làm rõ nguyên nhân và hậu quả của tập trung kinh tế đối với cấu trúc thị
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
4
Luận văn tốt nghiệp
trường cạnh tranh. Tuy nhiên,
dường như quan điểm trên đã
coi hiện tượng tích tụ tư bản là
một phần của khái niệm tập
trung kinh tế.
1.1.2. Dưới góc độ là hành vi của các doanh nghiệp
Nhìn từ góc độ là hành vi của các doanh nghiệp, tập trung kinh tế (còn
gọi là tập trung tư bản) được hiểu là sự gia tăng tư bản do hợp nhất nhiều tư
bản lại hoặc một tư bản này thu hút một tư bản khác. Khái niệm này không
đưa ra các biểu hiện cụ thể của tập trung kinh tế nhưng lại cho thấy bản chất
và phương thức của hiện tượng.
Như vậy, dù nhìn ở góc độ nào thì các nhà khoa học kinh tế cũng có sự
thống nhất về bản chất của tập trung kinh tế gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, TTKT có thể hiểu là quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp, tái
cấu trúc thị trường nhờ vào: sự tăng trưởng nội sinh, sự rút khỏi thị trường
của một số doanh nghiệp, hiện tượng gia nhập thị trường của một số doanh
nghiệp; sự sáp nhập của một số doanh nghiệp (tăng trưởng ngoại sinh)...
Thứ hai, chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp hoạt động
trên thị trường. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thể là các

doanh nghiệp hoạt động trong cùng hoặc không cùng thị trường liên quan.
Thứ ba, tập trung kinh tế đã hình thành nên doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh tổng hợp hoặc liên kết thành nhóm doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế,
từ đó làm thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị
trường.
Tuy nhiên, mức độ tác động của TTKT tới tương quan cạnh tranh trên
thị trường là khác nhau tuỳ thuộc vào các hình thức TTKT khác nhau.
1.2. Các hình thức tập trung kinh tế
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
5
Luận văn tốt nghiệp
Có nhiều cách phân chia
các hình thức TTKT. Nhưng để
phân biệt được tác động của
TTKT đối với mức độ cạnh
tranh và tương quan cạnh tranh
trên thị trường, chúng ta có thể phân chia các hình thức tập trung kinh tế theo
ba tiêu chí dưới đây.
1.2.1. Căn cứ vào cách thức tập trung kinh tế trên thị trường
TTKT được chia thành bốn hình thức sau:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh
nghiệp khác đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hay nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị
hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua lại toàn bộ hoặc
một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ
hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.

Liên doanh giữa các doanh nghiệp: là việc hai hay nhiều doanh nghiệp
cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
mình để hình thành một doanh nghiệp mới.
1.2.2. Căn cứ vào mức độ liên kết trong hoạt động tập trung kinh tế
TTKT được chia thành 2 hình thức sau:
Tập trung kinh tế chặt chẽ (tổ hợp) bao gồm các hành vi tập trung kinh
tế trong đó sự liên kết giữa các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế khá
chặt chẽ về quyền sở hữu, về tài sản... Theo đó, các hành vi tập trung kinh tế
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
6
Luận văn tốt nghiệp
như: sáp nhập, hợp nhất, mua lại
doanh nghiệp có thể nói là
những hình thức tập trung kinh
tế khá chặt chẽ.
Tập trung kinh tế không
chặt chẽ bao gồm các hành vi tập trung kinh tế trong đó sự liên kết giữa các
doanh nghiệp tham gia tập trung không chặt chẽ về quyền sở hữu hay tài
sản...
Một hành vi tập trung kinh tế có thể coi là chặt chẽ hay không chặt chẽ
còn phụ thuộc vào quy mô tài sản hay phạm vi quyền, lợi ích hợp pháp được
chuyển nhượng trong khi thực hiện tập trung kinh tế.
Như vậy, tập trung kinh tế chặt chẽ là hình thức tập trung phức tạp và
có thể gây hạn chế cạnh tranh hơn so với hành vi tập trung kinh tế không chặt
chẽ.
1.2.3. Căn cứ vào vị trí của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trong
các cấp độ kinh doanh của các ngành kinh tế
TTKT thường được phân chia thành 3 hình thức sau:
Tập trung kinh tế theo chiều ngang là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại
hoặc liên doanh của các doanh nghiệp trong cùng một giai đoạn sản xuất

trong một chuỗi giá trị và sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tương tự nhau hay có
thể hiểu là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh giữa các doanh
nghiệp trong cùng một thị trường liên quan (bao gồm thị trường sản phẩm
liên quan và thị trường địa lý liên quan).
Trong đó, thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng
hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.
Và thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những
hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
7
Luận văn tốt nghiệp
tự nhau và có sự khác biệt đáng
kể với các khu vực lân cận.
Tập trung kinh tế theo
chiều dọc là sự sáp nhập, hợp
nhất, mua lại hoặc liên doanh
giữa các doanh nghiệp nằm trong các giai đoạn sản xuất khác nhau của cùng
một chuỗi giá trị sản xuất ra một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ nào đó hay còn
gọi là các doanh nghiệp có quan hệ người mua- người bán (gồm quan hệ cung
cấp- sản xuất hoặc sản xuất- bán lẻ).
Tập trung kinh tế dạng hỗn hợp (dạng tập đoàn-conglomerate) là sự
hợp nhất, sáp nhập, mua lại, liên doanh của các doanh nghiệp không cùng
hoạt động trên một thị trường sản phẩm đồng thời cũng không có mối quan hệ
khách hàng với nhau. Mục tiêu của việc hợp nhất này thường là nhằm phân
tán rủi ro vào những thị trường khác nhau hoặc từ những lý do chiến lược thị
trường của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế.
Như vậy, TTKT có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Với
mỗi góc độ tiếp cận, chúng ta có thể nhận dạng TTKT qua các hình thức
TTKT khác nhau. Tuy nhiên, để đánh giá một thị trường là tập trung cao hay
thấp hoặc đánh giá một hành vi TTKT gây ra những tác động như thế nào tới

tương quan cạnh tranh trên thị trường và cấu trúc thị trường đó, chúng ta cần
có hệ thống các tiêu chí đánh giá.
2. Các phương pháp đo lường mức độ tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế là một hình thức tái cấu trúc doanh nghiệp đồng thời
tự nó làm thay đổi cấu trúc thị trường. Cấu trúc thị trường quyết định tương
quan cạnh tranh trên thị trường, ảnh hưởng tới các quyết định sản xuất- kinh
doanh của các chủ thể kinh tế trên thị trường và đến một mức độ nào đó, các
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
8
Luận văn tốt nghiệp
hành vi của các doanh nghiệp
trên thị trường có thể không
tuân theo các quy luật của nền
kinh tế thi trường như: quy luật
giá trị, quy luật cung- cầu, quy
luật cạnh tranh... Vì vậy, có thể coi mức độ tập trung kinh tế là một thước đo
khá chính xác trong việc đánh giá mức độ cạnh tranh trên thị trường.
Mức độ tập trung kinh tế phụ thuộc vào số lượng các doanh nghiệp và
quy mô tương đối của các doanh nghiệp trên thị trường.
Quy mô tương đối của một doanh nghiệp có thể được đo bằng thị phần
của doanh nghiệp theo doanh thu, theo tài sản hoặc theo số lượng lao động.
Có một số phương pháp đo mức độ tập trung kinh tế dựa vào thị phần
của các doanh nghiệp trên thị trường liên quan (gồm thị trường sản phẩm liên
quan và thị trường địa lý liên quan) như sau.
2.1. Đường cong Lorenz và hệ số Gini
Khái niệm đường cong Lorenz
Đường cong Lorenz phản ánh tỷ lệ phần trăm của tổng thị phần trên thị
trường (100%) được phân phối tương ứng với tỷ lệ phần trăm cộng dồn của
các nhóm doanh nghiệp trên thị trường.
 Cách sử dụng phương pháp đường cong Lorenz

Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông với hai cạnh
là hai trục của một hệ trục toạ độ Oxy. Trục tung Oy biểu diễn phần trăm thị
phần cộng dồn của các doanh nghiệp trên thị trường (từ 0 – 100%), trục
hoành Ox biểu diễn phần trăm số doanh nghiệp cộng dồn của các nhóm doanh
nghiệp được sắp xếp theo thứ tự thị phần tăng dần (từ 0 – 100%).
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
9
Luận văn tốt nghiệp

Hình 1.1- Đường cong Lorenz
Tất cả các đường cong Lorenz đều xuất phát từ gốc O của hình vuông
và kết thúc ở điểm H đối diện (Hình 1.1). Tại điểm O: 0% số doanh doanh
nghiệp chiếm 0% thị phần trên thị trường. Tại điểm H: 100% số doanh nghiêp
chiếm 100% thị phần trên thị trường. Đường phân giác OH là đường bình
đẳng tuyệt đối. Nghĩa là bao nhiêu phần trăm số doanh nghiệp chiếm bấy
nhiêu phần trăm thị phần trên thị trường. Khi đó, có thể nói mức độ tập trung
thị trường là thấp nhất. Còn nếu một doanh nghiệp nào đó chiếm 100% thị
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B


A B
10
% Thij phần cộng dồn
0
100 %

0
% Số doanh nghiệp cộng dồn 100%
H
Luận văn tốt nghiệp

phần còn các doanh nghiệp
khác không có một chút thị
phần nào thì đường cong
Lorenz biểu diễn sự phân phối
thị phần này sẽ có dạng hình
chữ L với hai cạnh là cạnh đáy và một cạnh bên phải của hình vuông. Đây
chính là đường phân phối thị phần bất bình đẳng tuyệt đối. Và có thể đánh giá
mức độ tập trung thị trường là cao nhất. Nhìn chung, đường cong Lorenz
thường nằm giữa đường bất bình đẳng tuyệt đối và đường bình đẳng tuyệt
đối. Đường Lorenz nào càng nằm xa đường bình đẳng tuyệt đối thì sự phân
phối thị phần trong trường hợp đó càng bất bình đẳng, thị trường có mức độ
tập trung càng cao.
 Ý nghĩa của phương pháp
Đường cong Lorenz cho phép đánh giá mức độ bất bình đẳng về thị
phần giữa các doanh nghiệp trên một thị trường.
Hạn chế của phương pháp
Phương pháp này vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc đánh giá
mức độ bất bình đẳng do nó chưa lượng hoá được mức độ bất bình đẳng. Do
đó, khi so sánh mức độ bất bình đẳng giữa các thị trường khác nhau, chúng ta
không thể đưa ra những kết luận chính xác khi các đường cong Lorenz cắt
nhau và sẽ là khá phức tạp nếu phải so sánh giữa nhiều thị trường. Để khắc
phục nhược điểm này, chúng ta có thể sử dụng hệ số Gini – một hệ quả được
rút ra từ đường cong Lorenz.
 Khái niệm hệ số Gini
Hệ số Gini là hệ số được xác định dựa vào đường cong Lorenz.
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
11
Luận văn tốt nghiệp
 Cách sử dụng hệ số
Gini

Hệ số Gini (G) được tính
bằng cách chia phần diện tích
đường cong Lorenz lệch khỏi
đường bình đẳng tuyệt đối (A) cho diện tích của nửa hình vuông có chứa
đường cong Lorenz (A + B).
Công thức tính:
G= A/ (A + B)
Nếu coi mỗi cạnh của hình vuông là 1 đơn vị thì diện tích (A + B) luôn
bằng 1/2, khi đó:
G= 2*A
Hệ số Gini luôn có giá trị nằm trong đoạn [0 , 1].
G= 0: Phân phối thị phần trên thị trường là tuyệt đối bình đẳng, mức độ
tập trung thị trường thấp nhất.
G= 1: Phân phối thị phần trên thị trường là bất bình đẳng tuyệt đối,
mức độ tập trung thị trường cao nhất.
G càng gần 1 thì phân phối thị phần giữa các doanh nghiệp càng bất
bình đẳng, mức độ tập trung kinh tế trên thị trường càng cao.
Ý nghĩa của phương pháp
Hệ số Gini dùng để đo mức độ bất bình đẳng về thị phần giữa các
doanh nghiệp trên thị trường, từ đó cho phép đánh giá được mức độ TTKT
trên một thị trường nhất định. Hệ số Gini còn cho phép so sánh chéo về mức
độ bất bình đẳng trong phân phối thị phần giữa các doanh nghiệp giữa các thị
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
12
Luận văn tốt nghiệp
trường với nhau. Đó cũng chính
là những điểm mạnh của
phương pháp đo này.
 Hạn chế của phương
pháp

Cả đường cong Lorenz và hệ số Gini đều có xu hướng tập trung đánh
giá mức độ bất bình đẳng về thị phần của các doanh nghiệp trên thị trường
chứ không chú trọng tới số lượng doanh nghiệp trên thị trường đó mặc dù nếu
mức độ bất bình đẳng như nhau nhưng số lượng doanh nghiệp khác nhau thì
cấu trúc thị trường hoàn toàn khác nhau. Việc điều tra số lượng doanh nghiệp
cộng dồn và doanh thu cộng dồn của các doanh nghiệp trên thị trường để tính
chỉ số này là khá phức tạp.
Để khắc phục nhược điểm này, chúng ta có thể sử dụng một số phương
pháp khác đánh giá mức độ tập trung kinh tế đơn giản hơn thông qua sự phân
phối thị phần của một nhóm doanh nghiệp lớn trên thị trường.
2.2.Tỷ lệ tập trung kinh tế (CR
n
) có thể là CR
3
, CR
4
hoặc CR
8
 Khái niệm
Tỷ lệ tập trung kinh tế CR
n
- Concentration Ratio, là tổng thị phần của
n doanh nghiệp hàng đầu (có thị phần lớn nhất) trên một thị trường nhất
định. Trong đó n thường được sử dụng là 3, 4 hoặc 8 doanh nghiệp.
Cách sử dụng phương pháp
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
13
Luận văn tốt nghiệp
Tỷ lệ TTKT được tính
theo công thức:

1
n
i i
i
CR S
=
=

Trong đó: CR
n
là tỷ lệ
tập trung kinh
tế của n doanh nghiệp hàng đầu trên thị trường.
S
i
là thị phần của doanh nghiệp thứ i trên thị trường(%)
n là số doanh nghiệp đang xét: thường n=3, n=4 hoặc n=8.
Chỉ số này được sử dụng để đánh giá quy mô tương đối của một số
doanh nghiệp hàng đầu trong ngành so với quy mô toàn ngành.
Nếu tỷ lệ tập trung này là rất nhỏ, có thể nói mức độ tập trung thị
trường là rất nhỏ, không đáng kể và có thể coi cấu trúc thị trường là cạnh
tranh hoàn hảo.
Giả sử xét tỷ lệ tập trung kinh tế của 4 doanh nghiệp hàng đầu trên một
thị trường nhất định (CR
4
).
Nếu CR
4
< 40%: có thể kết luận mức độ tập trung thị trường là trung
bình và cấu trúc thị trường là cạnh tranh độc quyền.

Nếu CR
4
> 40%: mức độ tập trung thị trường tương đối cao và cấu trúc
thị trường là độc quyền nhóm.
Nếu CR
4
~ 100%: mức độ tập trung thị trường rất cao và có thể kết luận
cấu trúc thị trường là độc quyền.
 Ý nghĩa của phương pháp
Tương tự đối với các chỉ số tập trung kinh tế của 3 hoặc 8 doanh
nghiệp, chúng ta có thể dùng để đánh giá một cách tương đối chính xác về
cấu trúc thị trường của một thị trường ngành hoặc một thị trường địa lý nhất
định.
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
14
Luận văn tốt nghiệp
Để tính được chỉ số tỷ lệ
tập trung, chúng ta cần có số
liệu về thị phần của một nhóm
các doanh nghiệp hàng đầu trên
thị trường và số lượng doanh
nghiệp hàng đầu trong thị trường ngành hay trong thị trường địa lý nhất định
là một con số không lớn nên việc tính toán chỉ số này có thể nói là không quá
phức tạp.
 Hạn chế của phương pháp
Sử dụng tỷ lệ tập trung kinh tế (CR
n
) cũng có những hạn chế nhất định
trong việc đo lường và đánh giá mức độ tập trung kinh tế do: Chỉ số này chỉ
hướng vào các doanh nghiệp hàng đầu mà không xét đến sự phân bố thị phần

của các doanh nghiệp còn lại. Vì vậy không cho phép đánh giá một cách tổng
thể nhất về thực trạng mức độ tập trung kinh tế trên thị trường. Hơn nữa, việc
tính tổng thị phần của các doanh nghiệp hàng đầu chưa có sự phân biệt về
mức độ ảnh hưởng khác nhau của các doanh nghiệp khác nhau đến mức độ
tập trung thị trường do chưa tính đến trọng số của các doanh nghiệp có quy
mô, thị phần khác nhau. Để khắc phục hạn chế này, chúng ta có thể sử dụng
chỉ số Hirschman – Herfindahl Index (HHI).
2.3.Chỉ số Hirschman – Herfindahl (HHI)
 Khái niệm
Chỉ số Hirschman – Herfindahl (HHI) được định nghĩa là tổng bình
phương của thị phần của tất cả các doanh nghiệp trong một thị trường nhất
định. HHI có giá trị từ 0 đến 10.000.
 Cách sử dụng phương pháp
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
15
Luận văn tốt nghiệp
Chỉ số HHI được tính
theo công thức:
2
1
n
i
i
HHI S
=
=

Trong đó: S
i
là thị phần

của doanh nghiệp thứ i trên thị
trường(%)
n là tổng số doanh nghiệp trên thị trường
Có một số mốc đánh giá mức độ TTKT tương đối chính xác như sau:
HHI= 0: thị trường không có một doanh nghiệp nào hoạt động.
HHI < 1.000: thị trường không mang tính tập trung.
1.000 <= HHI <= 1.800: mức độ tập trung thị trường là vừa phải.
HHI > 1.800: mức độ tập trung thị trường cao.
HHI= 10.000: thị trường chỉ có một doanh nghiệp duy nhất. Lúc này
mức độ tập trung thị trường là cao nhất.
Chỉ số HHI có giá trị càng gần 0 thì có thể đánh giá thị trường có rất
nhiều doanh nghiệp và cùng có quy mô nhỏ. Khi HHI có giá trị càng gần tới
10.000 thì càng có ít doanh nghiệp chiếm thị phần lớn trên thị trường, mức độ
tập trung thi trường càng cao.
 Ý nghĩa của phương pháp
HHI là một chỉ số khá mạnh và khá thông dụng trong việc đánh giá
mức độ TTKT trong một thị trường, từ đó xác định khá chính xác cấu trúc thị
trường.
Phương pháp sử dụng chỉ số HHI đã khắc phục được nhược điểm của
phương pháp tính tỷ lệ TTKT đó là đã tính tỷ trọng lớn hơn cho các doanh
nghiệp có thị phần lớn hơn trong khi thực hiện bình phương thị phần của các
doanh nghiệp.
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
16
Luận văn tốt nghiệp
Hạn chế của
phương pháp
Đó là những hạn chế về
kỹ thuật tính toán. Việc điều tra
số liệu về thị phần của tất cả các doanh nghiệp trong một thị trường ngành

hay một thị trường địa lý và việc tính chỉ số này khá phức tạp, đòi hỏi có sự
đầu tư thời gian, kinh phí khá lớn và phải có một hệ thống thông tin đảm bảo
tính chính xác của các số liệu về thị phần của các doanh nghiệp. Bởi việc tính
toán chỉ số này có thể có những sai số rất lớn khi bình phương thị phần của tất
cả các doanh nghiệp.
2.4. Hệ số Entropy
 Khái niệm
Phương pháp sử dụng hệ số Entropy là một phương pháp đo mức độ
tập trung kinh tế. Hệ số này được định nghĩa là tổng của tích thị phần của mỗi
doanh nghiệp nhân với logarit tự nhiên của nghịch đảo thị phần.
 Cách sử dụng phương pháp
Công thức tính:
E=∑S
i*
1/ lnS
i
Với i= 1--> N
Trong đó: S
i
là thị phần của doanh nghiệp thứ i(%)
N là tổng số doanh nghiệp trên thị trường
Chỉ số này được sử dụng để đo độ bất định trong một thị trường ngành. Qua
đó đánh giá độ bất định trong việc ra quyết định của các doanh nghiệp xét
trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với khách hàng.
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
17
Luận văn tốt nghiệp
E= 0: độ bất định của thị
trường thấp nhất, độ chắc chắn
trong mối quan hệ trong tương

lai giữa doanh nghiệp hiện tại
với khách hàng là cao nhất,
mức độ tập trung thị trường cao nhất – thị trường độc quyền bởi một doanh
nghiệp. Doanh nghiệp này nắm trọn thị trường vì không có hàng hoá thay thế.
E càng thấp độ bất định của thị trường càng thấp thì độ chắc chắn
trong mối quan hệ trong tương lai giữa các doanh nghiệp đang hoạt động với
khách hàng càng cao. Nghĩa là các doanh nghiệp càng có sức mạnh trong mối
quan hệ thương lượng với khách hàng do có càng ít hành hoá thay thế. Khi
đó, mức độ tập trung thị trường càng cao và cấu trúc thị trường càng mang
tính chất độc quyền.
Ngược lại, khi E càng lớn nghĩa là độ bất định của thị trường càng cao,
độ chắc chắn trong mối quan hệ tương lai giữa các doanh nghiệp hiện tại với
khách hàng càng thấp, mức độ tập trung thị trường càng thấp và cấu trúc thị
trường càng cạnh tranh hơn.
Khi muốn so sánh mức độ bất định thị trường của hai ngành có số
lượng doanh nghiệp khác nhau, chúng ta có thể tính hệ số Entropy tương đối
RE.
RE= E/n
Với n là tổng số doanh nghiệp trên thị trường ngành.
 Ý nghĩa của phương pháp
Như vậy, hệ số Entropy cho phép xác định mức độ chặt chẽ trong mối
quan hệ tương lai giữa doanh nghiệp hiện đang hoạt động với khách hàng. Từ
đó đánh giá mức độ TTKT trên thị trường và xác định cấu trúc thị trường
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
18
Luận văn tốt nghiệp
ngành. Chỉ số RE còn cho phép
so sánh chéo mức độ tập trung
kinh tế trên các thị trường
ngành khác nhau.

Đặc biệt, một ưu điểm
nữa của chỉ số này là việc nhân thị phần của mỗi doanh nghiệp S
i
với 1/ln S
i
đã ngầm gán trọng số thấp hơn cho các doanh nghiệp có thị phần lớn hơn.
Điều đó cũng đồng nghĩa với việc đánh giá cao hơn tác động của các doanh
nghiệp lớn hơn tới mức độ TTKT. Vì E càng thấp thì mức độ tập trung kinh
tế càng cao.
 Hạn chế của phương pháp
Việc tính toán chỉ số này có thể có sai số lớn đặc biệt là khi số lượng
doanh nghiệp trong một thị trường ngành càng lớn.
2.5. Chỉ số tập trung hỗn hợp CCI
Khái niệm và cách sử dụng phương pháp
Chỉ số tập trung hỗn hợp CCI – Comprehensive Concentration Index,
được định nghĩa bởi công thức sau:
Trong đó: S
1
là thị phần của doanh nghiệp lớn nhất trên thị trường
S
i
là thị phần của doanh nghiệp thứ i trên thị trường
N là tổng số doanh nghiệp trên thị trường
CCI được sử dụng để đánh giá mức độ tập trung kinh tế trên một thị
trường.
CCI có giá trị từ 0 đến 1.
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
19
Luận văn tốt nghiệp
CCI= 0: thị trường

không có doanh nghiệp nào
hoạt động.
CCI= 1: thị trường có
một doanh nghiệp hoạt động,
mức độ tập trung thị trường là cao nhất (cấu trúc thị trường độc quyền).
CCI càng cao thì mức độ tập trung thị trường càng lớn.
 Ý nghĩa của phương pháp
Sử dụng chỉ số CCI giúp đánh giá mức độ tập trung thị trường. Ưu
điểm của phương pháp đo này là đã xét đến số lượng các doanh nghiệp trên
thị trường và kết hợp đánh giá thị phần của tất cả các doanh nghiệp này trong
đó có tính trọng số riêng đối với doanh nghiệp lớn nhất trên thị trường và tính
trọng số lớn hơn đối với các doanh nghiệp có thị phần lớn hơn nhờ việc bình
phương thị phần của các doanh nghiệp lớn thứ 2 trở đi. Đây là một phương
pháp đánh giá khá chính xác mức độ tập trung thị trường.
 Hạn chế của phương pháp
Việc gán cho doanh nghiệp lớn nhất một trọng số riêng như vậy đòi hỏi
phải có số liệu điều tra về thị phần của các doanh nghiệp tương đối chính xác
để có thể xác định doanh nghiệp nào là lớn nhất. Và việc áp dụng công thức
này sẽ là không phù hợp khi xem xét trong một ngành có một số doanh
nghiệp lớn có thị phần xấp xỉ nhau và khả năng chi phối thị trường tương
đương nhau.
Để khắc phục nhược điểm này, chúng ta có thể đánh giá chung về khả
năng chi phối thị trường của một nhóm các doanh nghiệp hàng đầu trong một
thị trường theo chỉ số Linda như dưới đây.
2.6. Chỉ số Linda( L)
 Khái niệm
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
20
Luận văn tốt nghiệp
Chỉ số Linda (L) là chỉ số

đo lường sự chênh lệch trong
nội bộ một nhóm doanh nghiệp
nào đó trên một thị trường nhất
định.
 Cách sử dụng phương pháp
Công thức:
Trong đó: N là số doanh nghiệp trên thị trường.
Q
i
là tỷ lệ giữa thị phần trung bình của i doanh nghiệp hàng
đầu và (N – i) doanh nghiệp còn lại.
 Ý nghĩa của phương pháp
Thông qua chỉ số này, cho phép xác định nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường và nhóm doanh nghiệp chỉ có mức độ ảnh hưởng nhỏ tới
thị trường đồng thời đánh giá được mức độ mà các doanh nghiệp dẫn đầu thị
trường khống chế các doanh nghiệp còn lại trên thị trường đó. Từ đó đánh giá
mức độ TTKT trên thị trường.
Chỉ số L càng lớn chứng tỏ sự chênh lệch giữa các doanh nghiệp dẫn
đầu thị trường và các doanh nghiệp còn lại càng lớn. Khi đó mức độ tập trung
thị trường cao và ngược lại.
Chỉ số Linda cũng là một trong những chỉ số cho phép đánh giá về mức
độ tập trung thị trường. Phương pháp đo lường mức độ TTKT này có ưu điểm
là đã khắc phục được nhược điểm của chỉ số CCI ở trên bằng cách phân ra
các nhóm doanh nghiệp dẫn đầu thị trường và nhóm doanh nghiệp còn lại.
Như vậy thì tác động của các doanh nghiệp có thị phần tương đương nhau đối
với thị trường sẽ được đánh giá tương đương.
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
21
Luận văn tốt nghiệp
 Hạn chế của phương

pháp
Việc cho i thay đổi từ 1
đến N để ghép các doanh
nghiệp thành từng nhóm khác
nhau và tính bình quân thị phần của từng nhóm doanh nghiệp đó là khá phức
tạp nếu số lượng doanh nghiệp trên một thị trường là lớn.
Như vậy, có rất nhiều phương pháp khác nhau cho phép đo lường và
đánh giá mức độ tập trung kinh tế trên một thị trường, có thể là thị trường
ngành hay thị trường địa lý. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm nhất
định. Nhưng bên cạnh đó chúng cũng có những nhược điểm, những hạn chế
không thể phủ nhận. Vì vậy, để có sự định lượng một cách tổng thể và tương
đối chính xác về mức độ tập trung kinh tế cũng như định lượng cấu trúc thị
trường nói chung, chúng ta cần sử dụng kết hợp các phương pháp đo trên và
có sự linh hoạt khi áp dụng trong những ngành, thị trường cụ thể và trong
những điều kiện phát triển kinh tế cụ thể của mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ.
Có thể nói TTKT là một vấn đề xuất phát từ nền kinh tế thị trường. Vậy
TTKT có tác động như thế nào tới sự phát triển kinh tế? Tại sao chúng ta phải
quản lý tập trung kinh tế? Và quản lý tập trung kinh tế phải tuân theo những
nguyên tắc nào?
II.Cơ sở lý luận về quản lý tập trung kinh tế
1. Tác động của tập trung kinh tế đối với sự phát triển kinh tế và sự cần
thiết phải quản lý các hoạt động tập trung kinh tế
Dưới góc độ quản lý vĩ mô nền kinh tế, TTKT vừa có những tác động
tích cực, vừa có những tác động tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế.
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
22
Luận văn tốt nghiệp
1.1. Tập trung kinh tế -
những tác động tích cực đến
sự phát triển kinh tế

TTKT có nhiều tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế. Cụ thể như
sau.
Thứ nhất, TTKT giúp nâng cao tổng sản lượng cho nền kinh tế trong
điều kiện các nguồn lực phát triển không thay đổi. Thật vậy, như đã trình bày
ở trên về những khái niệm và hình thức TTKT, chúng ta có thể thấy: kết quả
của TTKT là sự giảm đi của số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh
trên thị trường và sự gia tăng quy mô sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp
sau TTKT. Theo quy luật về hiệu suất hoạt động theo quy mô: “khi quy mô
vốn tăng lên, hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp
cũng sẽ tăng lên do họ có thể tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm”. Như
vậy TTKT có thể giúp khắc phục tình trạng hoạt động kém hiệu quả của nền
kinh tế do quy mô đầu tư nhỏ lẻ, manh mún, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn
lực phát triển như: vốn, lao động, tài nguyên... Vì vậy, tổng sản lượng trong
nền kinh tế được nâng cao trong điều kiện các nguồn lực không thay đổi.
Thứ hai, TTKT góp phần đưa nền kinh tế vượt qua những giai đoạn kinh
tế khó khăn hay khủng hoảng kinh tế. Vì TTKT là một hình thức tái cấu trúc
doanh nghiệp, tái cơ cấu việc tổ chức sản xuất – kinh doanh. Trong những
giai đoạn khủng hoảng kinh tế, hầu hết các doanh nghiệp gặp khó khăn, thì
TTKT là một biện pháp hiệu quả giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn từ
đó góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi sự khủng hoảng và tiếp tục phát triển.
Thứ ba, TTKT chính là một giải pháp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế bền vững. Thật vậy, bản chất của TTKT là sự chuyển giao quyền sở
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
23
Luận văn tốt nghiệp
hữu giữa các chủ thể kinh tế, có
thể là các doanh nghiệp hay các
tập đoàn kinh tế với nhau.
Quyền sở hữu đó bao gồm các
quyền sở hữu về: vốn, tài sản,

các phát minh sáng chế, các dây chuyền công nghệ... Tập trung kinh tế sẽ thúc
đẩy chuyển giao khoa học – công nghệ, cách thức tổ chức quản lý, kỹ năng
lao động. Theo mô hình hàm sản xuất Cobb – Douglass thì công nghệ chính
là một nhân tố quan trọng tạo ra sản lượng trong nền kinh tế và tăng trưởng
kinh tế:
Y= T.K
a
.L
b
.R
c
(1)
Trong đó: T là khoa học công – nghệ.
K, L, R lần lượt là vốn, lao động, đất đai.
Mô hình Cobb- Douglass sau khi biến đổi sẽ thiết lập được mối quan
hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số như sau :
g= t+ a.k + b.l+ c.r
Trong đó : g là tốc độ tăng trưởng.
k, l, r là tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t là tốc độ tăng tiền bộ khoa học – công nghệ.
Các công nghệ tiên tiến, hiện đại được áp dụng rộng rãi sẽ thúc đẩy
việc tăng năng suất lao động, nâng cao sản lượng trong nền kinh tế. Và tiến
bộ công nghệ là yếu tố vô hạn có thể mở rộng đường giới hạn khả năng sản
xuất của nền kinh tế trong điều kiện các nguồn lực khác đều là hữu hạn, công
nghệ là yếu tố quan trọng của tăng trưởng và phát triển bền vững.
Thứ tư, TTKT có yếu tố nước ngoài còn là một hình thức thu hút vốn
đầu tư nước ngoài khá hiệu quả. Nó không chỉ làm tăng thêm nguồn vốn đầu
tư nước ngoài mà còn thúc đẩy chuyển giao khoa học – công nghệ hiện đại từ
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
24

Luận văn tốt nghiệp
các nước phát triển trên thế
giới. Sau các vụ TTKT thường
kéo theo những nhu cầu đầu tư
mới và tạo ra việc làm mới
trong dài hạn.
Thứ năm, TTKT trong các “ngành then chốt” giúp nền kinh tế hạn chế
và tránh được sự chi phối của các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, đảm bảo việc
thực hiện định hướng phát triển kinh tế của đất nước. Ngành then chốt chính
là ngành quan trọng, quyết định đến sự phát triển kinh tế. Sự thâm nhập thị
trường của các tập đoàn đa quốc gia trong những ngành này đến một mức độ
sâu, rộng sẽ dẫn đến sự phụ thuộc về kinh tế - chính trị vào các tập đoàn đa
quốc gia cũng như các cường quốc trên thế giới. TTKT sẽ thúc đẩy hình
thành các “tập đoàn quốc gia” có tiềm lực kinh tế lớn sẽ góp phần hạn chế sự
phụ thuộc đó, đồng thời thúc đẩy phát triển các ngành khác theo đúng mục
tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Thứ sáu, TTKT còn làm tăng doanh thu thuế bổ sung vào ngân sách
Nhà nước, tăng khả năng chi tiêu của chính phủ, qua đó kích thích tăng trưởng
kinh tế. Như chúng ta đã biết, TTKT là sự chuyển giao quyền sở hữu giữa các
chủ thể kinh tế là các doanh nghiệp trên thị trường. Quá trình chuyển quyền
sở hữu này dẫn đến những thay đổi về đăng ký kinh doanh của các doanh
nghiệp. Chẳng hạn như khi các doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay
liên doanh với nhau để hình thành các doanh nghiệp mới. Khi đó, các doanh
nghiệp thay đổi đăng ký kinh doanh sẽ phải nộp những khoản thuế nhất định
vào ngân sách Nhà nước. Thu ngân sách Nhà nước tăng đồng nghĩa với tăng
khả năng chi tiêu của chính phủ, từ đó tạo điều kiện để chính phủ tăng chi tiêu
cho nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế.
SV Đỗ Thị Thu Lớp Kinh Tế Phát Triển 47B
25

×