Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Giai thoại về một câu ca pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.54 KB, 8 trang )




Giai thoại về một câu ca

TRẦN XUÂN TOÀN
Bình Định xưa là nơi đất lành chim đậu. Chuyện cách đây hơn 4 thế kỷ, có một
người con nhà ca kỹ "xướng ca vô loại" ở đất làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, nổi tiếng thông minh và hiếu học, vì luật lệ hà khắc của chúa Trịnh
không cho phép con nhà xướng ca ứng thí khoa trường, đã quyết chí tìm đường lập
thân ở xứ Đàng Trong. Sách "Trịnh - Nguyễn diễn chí" do Bảng trung hầu Nguyễn
Khoa Chiêm (1659-1763) soạn có viết việc này: " bẩm tính thông minh, sáng trí,
thông hiểu sự tích cổ kim, các sách ngũ kinh, chư sử, Kinh Thư không sách nào là
không đọc" và khi không được dự thi "ngày đêm suy nghĩ để tìm phương kế lập
thân, anh em họ hàng đều không hay biết". Con người chí lớn đó là Đào Duy Từ
(1572-1634). Vào xứ Đàng Trong, ở đất Bình Định, ông chính thức cộng tác với
chúa Nguyễn từ năm 1627 đến năm 1634. Với một năng lực lớn, văn võ song toàn,
tài cao đức rộng, Đào Duy Từ đã giữ một vai trò lớn trong buổi đầu khai nghiệp
của nhà Nguyễn Đàng Trong.

Ở làng Tùng Châu, phủ Hoài Nhân (Hoài Nhơn ngày nay) tỉnh Bình Định, Đào
Duy Từ được các thân hào nhân sĩ nhìn nhận. Quan Khám lý Cống quận công Trần
Đức Hòa, nhân vật có tên tuổi lúc bấy giờ và là em kết nghĩa với Sãi Vương,
thương yêu gả con gái cho và tiến cử lên Sãi Vương, được Vương mến phục và
trọng dụng. Nhớ lại buổi đầu dừng chân ở đất này, sách trên có chép: "Một hôm
Duy Từ đi qua phủ Hoài Nhân. Nơi đây địa hình phong phú tươi đẹp, phong tục
hào hiệp, Duy Từ quyết chí ở lại đây tìm chỗ nương thân trong thôn ấp, chịu làm
đầy tớ nhà người để tìm kế lập thân. Nhưng Duy Từ vẫn chưa tìm được nơi vừa ý,
đành phải dừng chân ở quán nước nghỉ ngơi "

Một kẻ chăn trâu ở mướn mà luận bàn với các ông nho học ở làng về lẽ nho quân


tử, nho tiểu nhân và kẻ chăn trâu anh hùng, kẻ chăn trâu tôi tớ thì đâu phải là kẻ
bình thường trong thiên hạ.

Chuyện Đào Duy Từ rời bỏ quê hương ở Đàng Ngoài chạy vào Đàng Trong theo
Chúa Nguyễn gắn liền với giai thoại một câu ca nói về mối quan hệ giữa một Chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài với Đào Duy Từ ở Đàng Trong thời Trịnh - Nguyễn phân
tranh.

Giai thoại kể rằng: Sau khi Đào Duy Từ bỏ vào Đàng Trong theo Chúa Nguyễn,
Trịnh Tráng sai người đưa thư và lễ vật vào Nam chiêu dụ Đào ra Bắc với mình.
Đào không ra và gửi cho Chúa Trịnh bài thơ sau:

Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thủa nào ra?
Trịnh Tráng lại tiếp tục cho người vào gặp Đào Duy Từ một lần nữa. Ông vẫn
không ra và gửi tiếp cho Chúa Trịnh hai câu sau :

Có lòng xin tạ ơn long
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen.
Trịnh Tráng tức giận bèn làm mấy câu hát nhắn với Đào:

Có ai về tới Đàng Trong
Nhắn nhe bố đỏ liệu trông đường về
Mải tham lợi, bỏ quê quán tổ
Đất nước người, dù có như không
Giai thoại là thế chẳng biết hư thực thế nào. Phải đâu Đào "mải tham lợi, bỏ quê

quán tổ" mà chỉ vì Bình Định là nơi đất lành thì chim đến đậu, nơi đãi sĩ chiêu
hiền, dưỡng nuôi bao tài năng văn hóa, văn học cho dân, cho nước. Câu ca bây giờ
được giảng dạy ở nhà trường phổ thông lớp mười:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay!
- Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thủa nào ra?
Câu ca đã một thời gắn liền với mảnh đất vốn trọng sĩ, đãi hiền có bề dày văn hóa
lịch lãm và thượng võ là Bình Định.

Đào Duy Từ, Thần Hoàng đình Lạc Giao

Đình Lạc Giao ở thành phố Buôn Ma Thuột hình thành năm 1928, là đ
ình làng
đầu tiên của những người Việt (Kinh) từ đồng bằng lên đây lập nghiệp. L
à nơi
thờ Thần Hoàng (còn gọi là Thành Hoàng), là người có công lập làng. Đình c
ũng
là nơi diễn ra các sinh hoạt tập tục có tính cộng đồng, cũng là nơi tôn th
ờ các anh
hùng đã có công lớn trong việc bảo vệ, xây dựng làng.



Năm 1932, Vua Bảo Đại đã ban sắc tứ phong cho Đào Duy Từ là Thần Ho
àng
của đình Lạc Giao. Nhân vật được sắc phong Thần Hoàng là một danh
nhân văn
hoá, một tài năng l
ớn trong nhiều lĩnh vực: Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá …
đặc biệt ông là người có công mở mang đất nước, xây dựng nên nhiều vùng đ
ất
mới.

Đào Duy Từ (1572-1639): Tác giả Ngọa Long Cương Văn, giúp chúa Nguy
ễn
mở cơ nghiệp
.


Đình Lạc Giao
“Dưới thời Lê Trung Hưng (1532 - 1788) Đào Duy Từ l
à
con một kép hát ở Thanh Hoá, không đư
ợc dự thi, phẫn chí
ông bỏ Đàng Ngoài vào Đàng Trong s
ống với Trần Đức
Hoà (Quy Nhơn) lúc nhàn rỗi, ông lấy phác l
àm vui, nhân
đó mà Châu Ta (tức Bình Định) đư
ợc di phong.

Vũ khúc Tam tinh chúc thọ: Có nghĩa là ba sao chúc sống lâu. Đó l
à ba sao Phúc,

Lộc, Thọ. Vũ khúc này được dùng trong dịp lễ vạn Thọ, múa chúc thọ nh
à vua.
Đến đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Đào Duy Từ sửa lại để múa vào các ngày l

Vạn Thọ, Thánh Thọ, Tiên Thọ, Thiên Xuân, ngụ ý chúc nhà vua phúc - lộc - th

kiêm toàn.

Vũ khúc Múa quạt: (Vũ phiến), cũng do Đào Duy Từ đặt ra, múa vào các bu
ổi
yến tiệc, tân hôn dành cho Hoàng Thái Hậu, Hoàng H
ậu, phi tần, công chúa
thưởng lãm


Vũ khúc Tứ linh: Là bốn loài thú linh thiêng: R
ồng (Long), Kỳ lân (Long hay
Ly), rùa (Quy) và chim Phượng (Phụng). Vũ khúc này có từ thời cổ được Đ
ào
Duy Từ chỉnh biên lại để múa vào những ngày Vạn thọ, Thánh thọ, Tiên th
ọ,
Thiên xuân và cúng M
ụ.

Chính điện

Vũ khúc Nữ tướng xuất quân: Múa trong những ngày lễ chiến thắng, Hưng qu
ốc
Khánh niệm, những buổi dạ yến và tiếp sứ thần nước ngoài. Vũ khúc n
ày do Đào

Duy Từ đặt ra để ghi nhớ công đức Hai Bà Trưng có công đánh giặc giữ nư
ớc.

Vũ khúc Tam quốc - Tây du: Cũng do Đào Duy T
ừ đặt ra để diễn lại sự tích
những vị anh hùng chiến đấu vì dân vì nước. Còn riêng đi
ệu múa Tây Du nhằm
làm siêu thoát âm hồn thập loại chúng sinh. Vũ khúc Tam Quốc -
Tây Du múa
vào các ngày lễ Vạn thọ, Khánh thọ và Tiên th
ọ.

Vũ khúc Đấu chiến thắng Phật: Múa vào các ngày lễ Vạn thọ Khánh thọ, Ti
ên
thọ và cúng Mụ. Đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Đào Duy T
ừ đem kinh Phật đặt
ra vũ khúc này chủ yếu để trừ yêu ma quỉ chướng. Vì điệu múa có hai vị thần l
à
Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp nên cũng gọi là múa song quang.

×