Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của cây Keo lưỡi liềm (Acacia crassicarpa) ở vùng đất cát nội đồng xã Phong Hòa - huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên Huế,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.1 MB, 61 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Vùng đất cát ở khu vực Bắc Trung Bộ - Việt Nam có diện tích rất lớn,
khoảng 334.740 ha, chiếm 12% tổng diện tích đất lâm nghiệp của cả vùng,
trong đó 36,7 % diện tích còn bỏ hoang (Theo Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Nghĩa
- Viện KHLN Việt Nam). Với diện tích lớn như vậy nhưng việc canh tác lâm
nghiệp còn khá nhiều bất cập. Một trong những bất cập lớn nhất là chưa xác
định được loài cây trồng chính trong vùng và các biện pháp kỹ thuật lâm
sinh phù hợp. Trong những năm gần đây công tác trồng rừng trên cát đã và
đang được nhiều cơ quan chức năng quan tâm đầu tư, diện tích rừng đã tăng
đáng kể. Tuy nhiên hiệu quả của rừng trồng chưa cao và chưa được đánh giá
một cách đầy đủ. Một số nghiên cứu của Viện KHLN Việt Nam cho một số
loài cây trồng trên vùng này gồm có: Keo lá tràm, Keo tai tượng, phi lao, các
loài keo chịu hạn và một số loài bạch đàn trắng nhưng cũng chưa đi sâu.
Qua tìm hiểu, cây Keo lá liềm là một loài cây trồng có khả năng thích ứng
cao với các vùng đất cát bạc màu và khô cằn đã được Trung tâm Khoa học
lâm nghiệp Bắc Trung Bộ trồng thành công theo đề tài nghiên cứu.
Người dân ở vùng đất cát nội đồng Bắc Trung Bộ nói chung và ở
huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng đa số là dân nghèo, đời
sống phụ thuộc vào nghề nông, canh tác nông nghiệp thu nhập thấp, trong
khi đất cát nội đồng lại bỏ hoang khá nhiều, đây là một bức xúc cần quan
tâm giải quyết. Do đó xác định được cơ cấu cây lâm nghiệp và biện pháp kỹ
thuật phù hợp cho vùng cát nội đồng Bắc Trung Bộ có một ý nghĩa rất lớn
về kinh tế và xã hội, góp phần cung cấp gỗ, củi cho người dân trong vùng,
làm vành đai bảo vệ các khu canh tác nông nghiệp, nâng cao đời sống cho
người dân, cải tạo môi sinh môi trường. Nay huyện Phong Điền – Thừa
Thiên Huế đã và đang đưa vào xây dựng các mô hình trồng Keo lá liềm
nhằm giúp người dân vùng đất cát có thể phát triển một loài cây lâm nghiệp
với các mục tiêu ổn định đất đai canh tác, bảo vệ môi trường sinh thái và có
thể giải quyết công ăn việc làm, thu lại hiệu quả kinh tế trồng rừng.
1
Xuất phát từ những cơ sở trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: Nghiên


cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của cây Keo lưỡi liềm (Acacia
crassicarpa) ở vùng đất cát nội đồng xã Phong Hòa - huyện Phong Điền –
tỉnh Thừa Thiên Huế, nhằm tìm hiểu về đặc điểm sinh trưởng, phát triển của
cây Keo lưỡi liềm trong các điều kiện thỗ nhưỡng, khí hậu… ở địa phương
2
PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Tổng quan về đất cát.
Đất cát là hệ sinh thái phổ biến trên thế giới. Theo Mc Harg (1972),
các dải đất cát ven biển là một dạng công trình thiên nhiên có tác dụng hấp
thu năng lượng từ gió, thuỷ triều và sóng, qua đó bảo vệ các vùng đất phía
trong. Các vùng đất cát ven biển tại các châu lục khác nhau, tuy cách xa về
mặt địa lý nhưng đều được xếp vào cùng một dạng hệ sinh thái đặc thù do có
chung một số đặc điểm như: kết cấu rời rạc, độ phì thấp, khả năng trữ nước
và chất dinh dưỡng kém, thảm thực vật chủ yếu là các loại cây bụi có khả
năng chống chọi lại các điều kiện khắc nghiệt (Moreno-Casasola, 1982).
Thực tế ở tất cả các quốc gia có đường bờ biển trên thế giới đều có hệ
sinh thái vùng cát, các bãi cát và cồn cát ven biển là vùng đệm an toàn giữa
biển và đất liền và rất dễ bị tổn thương do hoạt động của con người cũng
như do thay đổi chế độ động lực biển và khí hậu. Mỗi một vùng biển có thể
có nhiều thế hệ đất cát xuất hiện vào các thời kỳ địa chất khác nhau có mầu
sắc khác nhau: đất cát đỏ (là loại cát cổ nhất), cồn cát vàng nghệ, cồn cát
trắng và cồn cát vàng xám.
Trong rất nhiều năm qua, hệ sinh thái vùng cát ven biển không chỉ là bức
trường thành bảo vệ bờ biển tại những vùng đất thấp, chúng còn là một hệ sinh
thái duy nhất dọc bờ biển. Tuy nhiên đất cát ven biển được xem là loại đất có
nhiều vấn đề nhất vì rất dễ bị thoái hoá. Tại những vùng đất cát bị thoái hoá,
hiện tượng cát bay, cát nhảy thường xuyên xảy ra gây nhiều hậu quả nghiêm
trọng dẫn đến hiện tượng sa mạc hóa làm mất đất ở và đất canh tác, phá huỷ
các công trình xây dựng Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thoái hoá là do tác

động của khí hậu và của con người, đặc biệt là các hoạt động công nghiệp,
nông nghiệp không bền vững, gây ô nhiễm môi trường đã và đang làm phá vỡ
hệ sinh thái tự nhiên của nhiều vùng đất cát trên thế giới.
3
Ở Việt Nam: Theo NIAPP (2003), nhóm đất cát biển có tổng diện tích
hơn 442.570 ha, có mặt trên 120 huyện, 28 tỉnh, chiếm khoảng 1,61% diện
tích tự nhiên của cả nước. Phần lớn diện tích đất cát tập trung thành một dải
chạy dọc bờ biển miền trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận và rải rác
một số ít vùng ven biển Bắc bộ và Nam bộ. Trước đây ta vẫn dùng đất cát
biển vì chủ yếu phân bố ven biển, nhưng cũng có một số đất cát phân bố
ven một số sông lớn hoặc ở một số vùng đất phát triển tại chỗ trên đá mẹ sa
thạch hoặc granit.
Về sự hình thành: Đất cát là loại đất rất trẻ (từ kỷ đệ tứ đến hiện đại).
Nó là sản phẩm của hai quá trình chính: Quá trình vận động nâng lên của
thềm biển cũ và quá trình bồi tụ tạo lập đồng bằng của hệ thống sông ở
miền Trung và hoạt động địa chất của biển. Do hệ thống các con sông miền
Trung ngắn, độ dốc lớn, nên vận tốc dòng chảy lớn, khiến sản phẩm tích tụ
được thường thô, chủ yếu là cát các loại. Mặt khác, các sông suối lại bắt
nguồn từ các khu vực có cấu tạo bởi các loại đá mẹ khó phong hóa như
granit, riolit, cát kết nên các sản phẩm phong hóa trong nước sông cũng rất
thô.
Theo hệ thống phân loại của FAO – UNESCO, đất cát có 7 loại (đơn
vị) là:
- Đất cồn cát trắng vàng - Luvic Arenosols
- Đất cồn cát đỏ - Rhodic Arenosols
- Đất cát điển hình - Haplic Arenosols
- Đất cát mới biến đổi - Cambic Arenosols
- Đất cát potzon - Albic Arenosols
- Đất cát glây - Gleyic Arenosols
- Đất cát feralit - Feralit Arenosols

4
Trên bản đồ tỷ lệ lớn hay trung bình, các nhà thổ nhưỡng còn tách ra
một số loại nữa:
- Đất giồng cát - đây là đất cát cổ tập trung ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Thường là những dải cát dài, hình vòng cung theo bờ biển
nhưng ở sâu trong lục địa (ở Cửu Long, Bến Tre, Bà Rịa ).
- Cát san hô - vỏ sò - phát triển trên nền biển cũ là san hô hay sò hến.
Nhưng chỉ có 3 loại có diện tích nhiều nhất là: Đất cồn cát trắng vàng,
Đất cồn cát đỏ, Đất cát điển hình.
2.1.2. Tổng quan về keo lưỡi liềm
Keo lưỡi liềm (Acacia crasscicarpa) có nguồn gốc từ Australia,
Papua New Guinea và Indonesia, có phân bố ở vĩ độ 8 – 20
o
Nam, độ cao 5 -
200 m trên mặt biển, lượng mưa 1000 -3500 mm/năm, gỗ có tỷ trọng 0,6 -
0,7 thích hợp cho xây dựng, làm đồ mộc (Doran, Turnbull, etal, 1997), ngoài
ra còn có một số được tìm thấy tại khu vực bờ biển phía Nam của Trung Quốc,
Fiji của Malaysia và Thái Lan.
Keo lưỡi liềm (còn gọi là keo lá liềm vì lá có hình lưỡi liềm) có tên
khoa học là Acacia crassicarpa, thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae). Cây thân
gỗ có thể biến dạng từ thân bụi đến thân gỗ lớn tùy môi trường sống. Nơi
nguyên sản tại các đụn cát ven biển (Australia) là cây thân bụi cao 2-3m, còn
bình thường cao 5-20m, nơi thích hợp cao tới 30m, đường kính thân ít khi to
quá 50cm. Thân thẳng, đâm nhiều cành nhánh, vỏ màu sẫm hay nâu xám,
nhiều vết nứt sâu. Rễ phát triển mạnh, có nhiều vi khuẩn cố định đạm cộng
sinh nên vừa có tác dụng bảo vệ và cải tạo đất rất tốt, đặc biệt là các vùng
cát trắng ven biển. Lá già nhẵn bóng mọc thành lá kép, màu xanh lục, lá đơn
hình lưỡi liềm dài 11-12cm, rộng 1-4cm, thường xanh. Hoa màu vàng nhạt
gần giống hoa keo lá tràm. Quả dạng quả đậu, mọc xoắn, hạt nhẵn màu đen,
khoảng 35.000-40.000 hạt/kg. Độ cao thích hợp dưới 200m, cũng có thể

trồng tới độ cao 700m so với mặt biển. Lượng mưa bình quân hàng năm từ
1.000-2.500mm, mưa theo mùa hoặc mưa tập trung vào mùa hè, chịu được
5
khô hạn, gió Lào… Chịu nhiệt độ bình quân các tháng nóng nhất là 31-34
o
C,
nhiệt độ bình quân các tháng lạnh nhất 15-22
o
C, không có sương giá. Có thể
sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau kể cả đất cát sâu và đất sét khó
thoát nước. Có thể chịu được độ mặn, đất cằn cỗi và khả năng chịu lửa tốt.
Gỗ keo lưỡi liềm khá nặng, gỗ lớn dùng đóng đồ mộc, gỗ xây dựng,
làm ván ghép thanh; gỗ nhỏ dùng làm nguyên liệu giấy, dăm, ván ép, cọc trụ
mỏ… Do tán lá rộng thường xanh, mọc chồi khỏe, có khả năng cạnh tranh
với cỏ dại nên dùng để trồng trên đồi trọc làm cây che bóng cho các cây ăn
quả, cây công nghiệp rất tốt. Trên các vùng đất dốc có thể trồng thành hàng
rào hay băng xanh để chống xói mòn, làm băng cản lửa, chắn gió để bảo vệ
đất rất hữu hiệu. Với các vùng đất cát ven biển, đặc biệt là các đồi cát nội
đồng hoặc đồi cát di động, bán di động… là cây trồng lý tưởng để hình
thành rừng phòng hộ bảo vệ đất, điều hóa khí hậu, chống cát bay, cát nhảy,
cải tạo môi trường sinh thái, tạo điều kiện thuận lợi cho canh tác nông
nghiệp và đời sống dân sinh. (Viện KHLN Việt Nam)
Theo Hanum &Van der Maesen, 1997, Keo lưỡi liềm có vùng phân bố
rộng nhiệt độ thích hợp từ 15-34
0
C, lượng mưa từ 500-3500 mm. mùa khô
có thể kéo dài 6 tháng phân bố từ vùng đất cát ven biển đến đất đồi núi, xuất
hiện ở nơi đất khô hạn, nhiểm mặn. Nó thích hợp với nhiều loại đất (Đất ven
biển, đất vàng, đất núi lửa đất axit hay bị ngập lụt vào mùa ẩm.)
Trong thời gian 15 năm trở lại đây, Keo lưỡi liềm đã được nghiên cứu

đưa vào trồng ở một số nước Đông Nam Á và châu Phi, và nó đã chứng tỏ là
một trong những loài cây trồng lâm nghiệp mới có nhiều hứa hẹn cho các
vùng đất cát ven biển, các vùng đất bị suy thoái. Ở Việt Nam, Keo lưỡi liềm
là loài cây triển vọng nhất trong tập đoàn cây trồng rừng chủ yếu trên đất cát
nội đồng khu vực miền Trung. Keo lưỡi liềm có khả năng thích nghi trong
điều kiện khắc nghiệt của đất cát nội đồng, có khả năng sinh trưởng tốt trên
cát nội đồng úng ngập khi được lên líp, vừa thích hợp trong điều kiện cát
bay cục bộ nhờ bộ rễ đặc biệt phát triển. Ngoài ra, với bộ rễ có nhiều nốt sần
6
và bộ tán lá dày, rụng lá nhiều nên có ưu thế trong việc cải tạo đất, cải tạo
môi trường.
2.1.3. Cơ sở của vấn đề nghiên cứu.
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á nơi được xem là giàu có
bậc nhất thế giới về tài nguyên di truyền thực vật. Cùng với nền văn
minh nông lâm nghiệp lâu đời nên Việt Nam có di sản quý giá là tài
nguyên cây trồng phong phú, đa dạng. Cho đến nay, hệ thống bảo tồn tài
nguyên di truyền thực vật phục vụ cho mục tiêu nông nghiệp, trồng rừng
của nước ta đang bảo tồn 20.000 giống của 200 loài cây trồng trong đó
có nhiều loài cây trồng quan trọng như lúa, chuối, khoai sọ, nhiều loài
thuộc chi cam - quýt, nhiều loài thuộc chi vải - nhãn, nhiều loài cây họ
đậu và nhiều tập đoàn các cây trồng lâm nghiệp khác của Việt Nam.
Với một số lượng tập đoàn cây trồng phong phú như vậy, cho đến
nay vẫn chưa có công trình nào trong nước nghiên cứu đánh giá, tư liệu
hoá ở mức độ phân tử về đa dạng di truyền các tập đoàn cây trồng ở Việt
Nam một cách sâu rộng, bài bản có hệ thống.
Khu vực miền Trung gồm 14 tỉnh nằm dọc theo bờ biển từ Thanh
Hóa đến Bình Thuận, có diện tích đất cát ven biển lớn 415.000 ha chiếm
78 % tổng diện tích đất cát ven biển của cả nước (Đặng Văn Thuyết,
2000). Các tỉnh có diện tích đất cát ven biển lớn như: Tỉnh Quảng Bình
có 34.000 ha (Nguyễn Xuân Chàm, 1996), Quảng Trị có 30.133 ha (Viện

Điều tra và Quy hoạch rừng - 2001), Thừa Thiên Huế có 28.498,8 ha
(Viện Điều tra và Quy hoạch rừng - 2001), Tỉnh Ninh Thuận và Tỉnh
Bình Thuận có 170.000 ha (Lâm Công Định, 1990). Theo số liệu từ các
trung tâm điều tra quy hoạch của các tỉnh, hiện nay diện tích đất cát
hoang hóa chưa sử dụng của các tỉnh khá lớn chiếm bình quân từ 22-
35% tổng diện tích đất cát ven biển của tỉnh. Như tỉnh Hà Tĩnh tổng diện
tích đất cát còn hoang hóa là 8500ha/28.000ha chiếm 30,35%, Quảng Trị
10.020ha /30.133ha chiếm 33,25%, Tỉnh Thừa Thiên Huế là 6515,97ha,
7
đất hoang hóa chiếm tỷ lệ 6515,97/28.498ha chiếm 22,86%, Tỉnh Quảng
Bình tỷ lệ 8200ha/ 34000ha chiếm 24,1% Đặc biệt 2 huyện Tuy Phong
và Bắc Bình (Bình Thuận) có diện tích đất cát hoang hoá lớn khoảng
35000 ha. Những vùng đất hoang hóa này rất khô căn và nắng nóng vì
vậy bức bách và cần thiết phải chọn ra giống cây chịu hạn, nóng để phủ
xanh vùng đất phòng hộ xung yếu này.
Trong những năm gần đây do biến đổi khí hậu nên khu vực miền
trung thường xuyên phải hứng chịu những trận bão lớn và những trận lũ
lụt kinh hoàng, bờ biển bị lấn chiếm dần như bờ biển Hòa Duân của
Thừa Thiên Huế, đảo Lý Sơn Quảng ngãi. Sóng lớn hàng năm tấn công
vào bờ, cộng với nạn khai thác cát bừa bãi nên đảo Lý Sơn bị xâm thực
nghiêm trọng, diện tích đất ở huyện đảo đang mất dần. Nếu năm 1975
diện tích đất của đảo là 1.400ha thì đến năm 2010 chỉ còn lại 997ha.
Nước biển xâm thực ảnh hưởng nghiêm trọng cuộc sống và việc sản xuất
của người dân vùng cát.
Quá trình di động của cát và hiểm họa sa mạc hóa vùng duyên hải
miền Trung đã thật sự trở thành mối hiểm nguy đe doạ đến môi trường
sinh thái và sự phát triển ổn định bền vững của kinh tế xã hội toàn vùng.
Nhiều vùng đất đai đã bị thoái hoá lâu ngày, đất cát di động mạnh hoặc
phục hồi sự di động vẫn chưa đưa vào sử dụng được. Đời sống người dân
trong vùng còn nghèo nàn, gặp nhiều khó khăn. Ví dụ: hai huyện Tuy

Phong và Bắc Bình (Bình Thuận) có các đồi cát di động với diện tích
khoảng 5000 ha hiện nay là nguy cơ thưòng xuyên tạo ra những cơn bão
cát, dữ dội, bay bốc, di chuyển cát từ dải ven biển trở vào, đe doạ chôn
vùi làng mạc, ruộng đồng, phủ lấp quốc lộ 1A trên một phạm vi rộng
hàng ngàn ha.
Đây là vùng sinh thái rất nhạy cảm và khắc nghiệt, chịu sự tác
động mạnh của các yếu tố tự nhiên, thường xuyên bị ảnh hưởng của các
loại hình thiên tai. Rừng bị tàn phá nghiêm trọng do con người và do
thiên nhiên, nạn chặt phá rừng, đào bới cát để khai thác titan, nguyên
8
liệu làm thủy tinh, vật liệu xây dựng và đào hồ nuôi tôm trên cát là mối
nguy hại nghiêm trọng ảnh hướng đến hệ sinh thái khu vực ven biển. Là
nơi có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh -
quốc phòng và phòng hộ môi trường bờ biển của đất nước, chính vì vậy
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, chú ý tới việc đầu tư bảo tồn, phát
triển môi trường - kinh tế - xã hội ở vùng này. Việc bảo tồn và lựa chọn
cây lâm nghiệp để phục vụ trồng rừng ven biển miền Trung là một trong
những mục tiêu quan trọng của Chính phủ.
Tuy nhiên, hiện nay cơ cấu cây trồng trên vùng cát còn khá đơn
giản. Nhiều loài cây đang trong giai đoạn khảo nghiệm, sự thích ứng và
độ bền vững của những loài cây này trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt,
đất khô nóng - nghèo chất dinh dưỡng, đặc biệt là khu vực cát bay, tốc
độ gió mạnh, nắng nóng cao, còn rất nhiều hạn chế. Keo lưỡi liềm là một
trong những loài cây hiện đang được trồng ở nhiều ở vùng cát tỉnh Thừa
Thiên Huế, tuy nhiên vẫn chưa có nhiều nghiên cứu để đánh giá khả
năng sinh trưởng phát triển để phát triển rừng ờ vùng cát miền trung.
Vì vậy, tôi thực hiện đề tài này nhằm giải quyết được những vấn
đề bức thiết đã nêu trên. Nghiên cứu sinh trưởng phát triển của keo lưỡi
liềm trên vùng cát Thừa Thiên Huế nói riêng và vùng cát khu vực Trung
bộ nói chung là hết sức cấp bách và cần thiết, có ý nghĩa khoa học và

thực tiễn cao hiện nay.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới.
- Tại Queensland, Australia và Papua New Guinea:
Ban đầu, Keo lưỡi liềm được trồng và phát triển mạnh mẽ trên đất bị
suy thoái sau khi trồng và đốt slash ở Papua New Guinea, chính những khả
năng đặc biệt của loài keo này nên nó đã được trồng và phát triển mạnh về
phía Bắc của quần đảo.
9
Những nghiên cứu chính thức đã được Trung tâm giống cây lâm
nghiệp Úc (ATSC) đưa vào nghiên cứu để thuần hóa loài cây phục vụ cho
mục đích thương mại từ năm 1980 theo chương trình tài nguyên di truyền và
cải thiện giống cây có sự hỗ trợ của tổ chức Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc
(AusAID), Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Úc (ACIAR) và Bộ
lâm nghiệp Papua New Guinea. Đến năm 1993, loài Keo lưỡi liềm đã chứng
minh sự tồn tại và sức mạnh tuyệt vời trong một loạt các thử nghiệm trong
vùng nhiệt đới ẩm và đã được ghi nhận bởi nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho
Nghiên cứu và phát triển keo ở khu vực Đông Nam Á.
Sau hơn 15 năm nghiên cứu và thử nghiệm, đến nay các chương trình
nghiên cứu của ATSC vẫn đang tiếp tục với mục đích đi sâu vào nghiên cứu
phân tử đa dạng di truyền của loài keo này, đưa loài cây này thành cây lâm
nghiệp ưu tiên phát triển ở vùng đất cát ven biển các nước trong khu vực
Châu Á.
- Tại Thailand:
Nghiên cứu sinh trưởng của các loài keo trên 6 vùng sinh thái khác
nhau sau 36 tháng tuổi, sinh trưởng của các loài này có sự sai khác rõ ràng,
trong đó 2 loài là Keo lưỡi liềm và Keo lá tràm thể hiện sinh trưởng tốt nhất.
Loài Keo chịu hạn sinh trưởng chậm hơn Keo tai tượng và Keo lá tràm về cả
chiều cao cũng như đường kính. Sinh khối khô và tươi của Keo chịu hạn
cũng thấp hơn Keo tai tượng và Keo lá tràm.

Các nhà nghiên cứu Thailand đã nghiên cứu tính năng suất vật chất
khô (tấn/ha) cho thân, cành, lá, và gỗ củi (thành phần gỗ có đường kính từ
2cm trờ lên) và thấy rằng các loài Keo lá tràm và Keo lưỡi liềm cho kết quả
khá nhất.
Một số nghiên cứu cho thấy với rừng trồng Keo lá xuất xứ Papua
New Guinea sau 3 năm đạt 207 tấn sinh khối khô/ha (Visaranata 1989).
Ở vùng khô hơn là Ratchaburi – Thái Lan nó có năng suất ngang bằng
Keo lá tràm: 40 tấn sinh khối/ha (3 tuổi). Ở Sarah – Malaysia nó được
10
trồng trên đất đá có tầng mặt mỏng và đất cát cho kết quả H = 15 – 23m
đáp ứng nhu cầu ngành công nghiệp bột giấy trong khu vực và phục vụ các
nghiên cứu thuần hóa loài, D
1,3
= 10 – 16cm sau 4 năm tuổi, tốt hơn cả
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) và Keo tai tượng (Acacia mangium)
(Sim và Gan 1991)
- Tại Indonesia:
Loài Keo lưỡi liềm được trồng thương mại rộng rãi trên đảo Sumatra.
Có đến hơn 40.000 ha rừng trồng đã được thành lập, chủ yếu là trên đất cao
hữu cơ có độ pH thấp và có thể được đôi khi ngập úng. Keo lưỡi liềm đã trở
thành quen thuộc với các đồn điền ở Sumatra để phục vụ cho keo này. Theo
những đánh giá chung thì keo lưỡi liềm trên các vùng đất ngập nước kém
hơn so với Keo lai trên vùng đất khô hạn, nhưng với mật độ trồng cao hơn
thì năng suất giữa 2 loài là tương tự.
Với hơn 40.000 ha rừng trồng Keo lưỡi liềm trên đảo Sumatra, đại
diện cho một tài sản trị giá hơn một tỷ đô la (Mỹ), tạo rất nhiều cơ hội việc
làm và phát triển kinh tế cho người dân ở Indonesia và các cơ hội công
nghiệp phát triển mạnh cho ngành công nghiệp giấy ở các nước trên thế giới.
2.2.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam.
Hoạt động nghiên cứu và sản xuất lâm nghiệp của Việt nam đã có

từ lâu đời, đặc biệt trên các vùng đất cát ở các tỉnh miền trung vào thời
Pháp thuộc người dân đã trồng những dải rừng Phi lao chắn cát ven biển
như vùng Quảng Bình, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế… lúc này
nghề trồng rừng Phi lao đã chiếm 50-60% thu nhập hàng năm của người
dân đặc biệt là ở Bình Dương – Thăng Bình - Quảng Nam, ngoài ra cây
này còn mang lại lợi ích chắn gió chắn cát, cải tạo đất, bảo vệ sinh thái
nên cây Phi Lao được coi là cây “độc nhất vô nhị” trên vùng đất cát
miền Trung. Tuy nhiên, nhằm nâng cao tính đa dạng sinh học cho các
vùng sinh thái và tăng giá trị sản xuất cho người dân các nhà nghiên cứu
lâm sinh đã tìm ra một loài cây nhập nội mới là cây Keo lưỡi liềm rất có
11
khả năng thích hợp với một số vùng trồng ở Việt Nam nên đã tiến hành
một số nghiên cứu nhằm phát triển tiềm năng lâm nghiệp.
Báo cáo nghiên cứu “Điều tra tập đoàn cây trồng trên cát và xây
dựng mô hình trồng rừng Keo lá liềm (Acacia crassicarpa) trên cát nội
đồng vùng Bắc Trung Bộ” do Nguyễn Thị Liệu ở Trung tâm khoa học
Bắc Trung Bộ thực hiện năm 2000. Đây là nghiên cứu được thực hiện ở
3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế dựa trên phương pháp
bố trí thí nghiệm trồng rừng thực tế và tìm hiểu ảnh hưởng của biện pháp
làm đất, mật độ trồng và chế độ bón phân đến sinh trưởng của loài cây
Keo Lưỡi liềm và cây Keo Lá tràm (cây đối chứng). Kết quả của nghiên
cứu đã chọn ra được các loài cây trồng chính ở vùng cát của các tỉnh Bắc
Trung Bộ chủ yếu là : Keo lá tràm (Acacia auriculiformis), Keo lưỡi
liềm (Acacia crassicarpa), Phi lao (Casuarina equisetifolia). Trong đó
nghiên cứu rút ra tổng kết là trong tất cả các loài cây thì khả năng sinh
trưởng của Keo lưỡi liềm tốt nhất, thích nghi rộng và tỉ lệ sống cao nhất
trên điều kiện đất cát nội đồng, cây thường đơn thân, xanh tốt.
Dự án CARD – VIE: 032/05 nghiên cứu phát triển bền vững và
hiệu quả kinh tế cho rừng trồng keo tại Việt Nam. Thí nghiệm về lên lip
trồng rừng được tiến hành tại Quảng Trị, nơi có lượng mưa trung bình

năm đạt 2200-2800mm/năm và thường hay bị ngập lụt vào mùa mưa
(Nguyễn Thị Liệu, 2004) . Thí nghiệm được tiến hành với Keo lá tràm
(A. auriculiforimis) và Keo lưỡi liềm (A. crassicapar). Kết quả cho thấy
sau 4.5 năm, lêp líp làm tăng một cách ý nghĩa đường kính và chiều cao
của Keo lưỡi liềm, tuy nhiên với Keo lá tràm sự khác nhau rõ rệt chỉ xảy
ra đối với đường kính. Kích thước thích hợp cho Keo lưỡi liềm là cao
0,2m, rộng 4m và cho keo lá tràm là 0,2m chiều cao và 1,5m chiều rộng.
Nghiên cứu, xây dựng các mô hình trồng Keo lưỡi liềm trên nhiều
vùng sinh thái khác nhau, đặc biệt là các đồi các nội đồng và đồi cát di
động ở Thừa Thiên–Huế của các nhà khoa học Viện khoa học lâm
nghiệp Việt Nam. Sau hơn 10 năm nghiên cứu thì các nhà khoa học Viện
12
Khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã phối hợp với Trung tâm giống cây lâm
nghiệp thuộc Sở NN-PTNT tỉnh Bình Thuận và Chi cục lâm nghiệp Thừa
Thiên - Huế đưa ra khuyến cáo bà con và các địa phương vùng duyên hải
miền Trung nước ta bổ sung vào cơ cấu trồng rừng phòng hộ ven biển giống
keo lưỡi liềm được chọn tạo thành công từ nguồn giống nhập nội của
Australia.
Nghiên cứu về việc phát triển các loài keo Acacia ở Việt Nam của
Nguyễn Hoàng Nghĩa. Cùng với các loài trong chi Acacia như Keo tai tượng
(A. mangium), Keo lá tràm (A. auriculiforimis), Keo đa thân
(A.aulacocarpa), Keo bụi (A. cincinnata), Keo đen (A. mearnsii), thì Keo
lưỡi kiềm (A. crassicarpa) được xem là một trong những loài triển vọng nhất
khi được phát triển tại Việt Nam. Trong hầu hết các khảo nghiệm ở Việt
Nam, Keo lưỡi liềm đều chứng tỏ khả năng sinh trưởng tốt và rất tốt, đặc
biệt là các nguồn gốc có xuất xứ từ Papua New Guinea, cây cũng được trồng
thành công trên các vùng đất cát nội đồng khô cằn (như ở Thừa Thiên –
Huế) mà nhiều loài cây khác, kể cả Phi lao đều sinh trưởng rất kém. Trong
khảo nghiệm được thực hiện tại Đá Chông- Hà Tây (cũ) với 39 xuất xứ của
5 loài keo đã cho thấy phần lớn các xuất xứ Keo lưỡi liềm đều đứng đầu

bảng và tổng hợp lại thì loài keo này cũng xếp ở vị trí cao nhất về đường
kính (bình quân 2.38 cm/năm). Khảo nghiệm 52 tháng tuổi tại Đông Hà –
Quảng Trị và 16 tháng tuổi tại La Ngà – Đồng Nai (cùng bộ xuất xứ với Đá
Chông) cũng cho thấy Keo lưỡi liềm xếp thứ nhất về chiều cao và thứ hai về
đường kính. Với sức sinh trưởng mạnh mẽ, Keo lưỡi liềm được coi là loài có
triển vọng gây trồng trên các loại đất feralit vùng đồi, chua và nghèo dinh
dưỡng. Khảo nghiệm các lô hạt giống của 9 xuất xứ Keo tai trượng, 1 xuất
xứ Keo lá tràm, 1 xuất xứ Keo lưỡi liềm, 1 xuất xứ Keo đa thân tại Đại Lải
1988, thứ tự đầu bảng của Keo lưỡi liềm đã chứng tỏ khả năng chịu đựng
điều kiện lập địa khô cằn, nghèo kiệt của loài keo này.
Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh trưởng của các loài Bạch đàn
Eucalyptus camaldulensis,Eucaluytus pellita và các loài keo: Acacia
crassicarpa, Acacia aulacocarpa trồng thử nghiệm 3 năm tại trạm thực
13
nghiệm Mang Yang tỉnh Gia Lai do Nguyễn Danh của sở Tài nguyên và
môi trường tỉnh gia lai thực hiện. Kết quả của nghiên cứu đã cho thấy
loài cây bạch đàn Eucalyptus camaldulensis và keo Acacia crassicarpa
sinh trưởng rất tốt trên điều kiện tự nhiên tỉnh Gia Lai.
Nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng vùng cát ven biển Miền trung của
PGS.TS Đặng Thái Dương trường Đại học nông lâm Huế năm 2011.
Nghiên cứu đã đánh giá tình hình chung của điều kiện tự nhiên và sinh
thái toàn bộ các tỉnh ở miền trung, đưa ra một số mô hình trồng nông
lâm kết hợp trên vùng đất cát trong đó có các loài keo. Đề tài này đã
cung cấp đặc điểm thích nghi của một số loài cây và trình bày kỹ thuật
trồng cây trên đất cát rất bổ ích.
14
PHẦN 3: MỤC TIÊU – NỘI DUNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
3.3.1. Mục tiêu chung

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của cây Keo lưỡi liềm
(Acacia crassicarpa) ở vùng đất cát nội đồng xã Phong Hòa - huyện Phong
Điền – tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.3.2 Mục tiêu cụ thể
• Đánh giá tình hình sinh trưởng của một số dòng Keo lưỡi liềm tại khu
vực nghiên cứu.
• So sánh khả năng sinh trưởng của Keo lưỡi liềm với một số loài Keo
khác tại khu vực nghiên cứu.
• Đề xuất một số giải pháp để nâng cao khả năng sinh trưởng, phát triển
của Keo lưỡi liềm tại khu vực nghiên cứu.
3.2. Nội dung nghiên cứu
• Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội địa phương.
• Phân tích các đặc điểm lý hóa tính của đất cát tại khu vực nghiên cứu.
• Đánh giá khả năng sinh trưởng của các dòng Keo lưỡi liềm đang được
sử dụng trong các mô hình rừng trồng ở khu vực nghiên cứu.
• Đánh giá tình hình sinh trưởng của Keo lưỡi liềm với một số loài Keo
khác trong khu vực nghiên cứu.
• Đánh giá sinh khối rừng trồng của mô hình Keo lưỡi liềm.
• Đề xuất giải pháp phù hợp để rừng keo lá liềm sinh trưởng tốt.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
Thu thập các tài liệu, số liệu liên quan đến đối tượng nghiên cứu như:
các loại ấn phẩm, thông tin khoa học về keo lưỡi liềm, kế hoạch trồng rừng,
hồ sơ thiết kế, nghiệm thu hoặc bảng kiểm kê đánh giá hiện trạng rừng trồng
mới nhất về khu vực điều tra, các loại bản đồ địa hình, bản đồ tỷ lệ 1/10000,
15
khoảnh rừng trồng. Chuẩn bị quy trình kỹ thuật, sổ tay điều tra quy hoạch
rừng…
Lập ô mẫu: tiến hành lập ô tiêu chuẩn theo phương pháp ô mẫu điển
hình. Trên mỗi lâm phần lập một ô, vị trí ô tiêu chuẩn phải mang tính đại

diện cho lâm phần nghiên cứu về điều kiện sinh thái và tình hình sinh
trưởng. Mật độ cây trên diện tích ô phải đảm bảo, diện tích ô tiêu chuẩn
được chọn với diện tích là 1000m
2
, dạng hình chữ nhật có chiều dài 50m và
chiều rộng 20m. Tiến hành điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng, kết quả đo đạt,
tính toán được ghi chép đầy đủ vào biểu mẫu sau:
PHIẾU ĐIỀU TRA CÂY ĐỨNG RỪNG TRỒNG
Ô tiêu chuẩn: Địa điểm:
Loài cây: Tuổi cây:
Ngày điều tra:
Stt
(cây)
C
13
(cm)
D
13
(cm)
H
VN
(m)
D
t
(m)
ĐT NB BQ
1 2 3 4 5 6 7
1
2
3

4
5

M
16
Đối với đường kính tán cây (d
t
):
Với những cây đo h
vn
tiến hành đo d
t
theo phương pháp sau: Lấy hình
chiếu của tán cây bằng dây dọi xuống mặt đất (nằm ngang), sau đó đo đường
kính tán theo hai hướng Đông - Tây, Nam - Bắc, sau đó lấy giá trị trung
bình theo công thức:
Đối với rừng Keo lưỡi liềm 6 thàng tuổi: chỉ đo đường kính gốc (D
0
)
và chiều cao H.
Trong ô mẫu đã được lập tiến hành chặt cây gỗ đại diện rồi tách riêng
lá, thân, cành và gốc rồi tiến hành cân để xác định trọng lượng tươi. Sau đó
được cắt nhỏ đem sấy trong phòng thí nghiệm nhằm xác định sinh khối khô.
+ Rễ cây được rửa qua bằng nước, loại bỏ hết đất, đá để thật khô ráo
trước khi cân đo lấy trọng lượng tươi.
+ Các bộ phận thân , cành, lá, vỏ, rễ được cân đo lại thêm 1 lần nữa để
xác định trọng lượng tươi rồi cắt nhỏ ra trước khi đem sấy.
+ Mẫu được để trong các lon nhôm với cùng một trọng lượng như
nhau, được đặt trong tủ sấy với nhiệt độ 90
o

C.
+ Mẫu khi sấy cứ 2 giờ thì được kiểm tra 1 lần, nếu sau 3 lần kiểm tra
liên tiếp thấy trọng lượng trong mỗi hộp nhôm không đổi thì đó chính là
trọng lượng khô kiệt của mẫu.
3.3.1.2. Phương pháp xử lý số liệu
Dựa vào phương pháp chỉnh lý tài liệu thực nghiệm của Brooks và
Carruther cho từng dấu hiệu quan sát như sau:
*Số bình quân cộng:
17
*Phương sai và sai tiêu chuẩn:
*Hệ số biến động:
*Hệ số chính xác:
*Phạm vi biến động
R = X
max
- X
min
Trong đó: Dung lượng mẫu (cây): n
Giá trị lớn nhất: X
max
;
Giá trị nhỏ nhất: X
min
*Biến động chung
V
T
=
*Biến động ngẫu nhiên
V
N

=
*Biến động do nhân tố A
V
A
= V
T
- V
N

18
+ Tính sinh khối của rừng trồng:
M = D * V
Trong đó: M là khối lượng của các mô hình (tấn/ha)
D là tỷ trọng của các loài cây (g/cm
3
)
V là thể tích của các mô hình (m
3
/ha)
+ Độ ẩm mẫu:
MC (%) = {(FW – DW)/FW}*100
Trong đó: MC là độ ẩm tính bằng %
FW là trọng lượng tươi của mẫu
DW là trọng lượng khô kiệt của mẫu.
+ Sinh khối khô:
TDM = [TFW * (1- MC)]*k
k = 100 / tỷ lệ % đem sấy.
Trong đó: TDM là tổng sinh khối khô trên một hécta tính bằng tấn.
TFW là tổng sinh khối tươi ô tiêu chuẩn tính bằng tấn
MC là độ ẩm tính bằng %.

19
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội xã Phong Hòa
4.1.1. Điều kiện tự nhiên:
4.1.1.1. Vị trí địa lý:
Xã Phong Hòa là một xã đồng bằng thấp trũng nằm về phía Đông bắc
huyện Phong Điền, cách trung tâm huyện lỵ 15 km, trải dài theo Quốc lộ
49B và dọc bờ sông Ô lâu. Toàn xã có 13 thôn, trong đó có 11 thôn ở tập
trung khu trung tâm xã và 2 thôn ở cách khu trung tâm xã là thôn Đức Phú
và thôn Mè, vị trí địa lý được giới hạn như sau:
+ Phía Bắc giáp với huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
+ Phía Nam giáp với xã Phong Hiền huyện Phong Điền.
+ Phía Đông giáp với xã Phong Bình, Phong Chương, huyện Phong
Điền.
+ Phía Tây giáp với xã Phong Thu, Thị trấn Phong Điền, huyện Phong
Điền.
4.1.1.2. Diện tích tự nhiên và địa hình:
Là một xã thuộc vùng đồng bằng, với diện tích tự nhiên: 3489,24 ha,
dân số 9.699 người, có đường Quốc lộ 49B và đường Tỉnh lộ 6 đi qua, có
chợ Ưu Điềm giao lưu mua bán hàng hóa của huyện Hải Lăng, Quảng Trị và
các xã ngủ điền. Nhìn chung địa hình địa mạo cũng khá thuận lợi cho việc
phát triển hạ tầng, đầu tư các dịch vụ, phát triển khu dân cư cũng như sản
xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.

4.1.1.3. Về khí hậu:
Xã Phong Hoà nằm trong vùng duyên hải miền Trung nên chịu ảnh
hưởng sâu sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do chịu sự tác động của khí
hậu chuyển tiếp bắc nam nên khí hậu nơi đây tương đối khắc nghiệt. Khí hậu
trong năm phân thành 2 mùa rõ rệt, mùa khô bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8,
mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau.

20
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 24-250C. Mùa khô chịu ảnh hưởng
của gió tây nam nên khô nóng, nhiệt độ trung bình từ 29-30oC, có khi lên
đến 39-40oC. Về mùa lạnh do ảnh hưởng của gió mùa đông bắc nên mưa
nhiều nhiệt độ trung bình từ 18-20oC, có khi thấp hơn dưới 10oC. Nhiệt độ
cao nhất thường tập trung vào tháng 6, thấp nhất vào tháng 10, tháng 11
hàng năm.
Độ ẩm trung bình hàng năm vào khoảng 84%. Độ ẩm trong năm cũng
có sự khác biệt khá rõ nét: vào các tháng mùa mưa độ ẩm cao, có thể lên đến
90% vào các tháng khô nóng độ ẩm chỉ đạt ở mức 45-50%.
Lượng mưa trung bình hàng năm trên địa bàn vào khoảng 2400 mm.
Mưa lớn thường tập trung vào các tháng 10, 11 với 280-300 mm. Trong khi
đó thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 lượng mưa không đáng kể.
Nhìn chung Phong Hoà có nền nhiệt độ tương đối cao và khá ổn định.
Đây là điều kiện thuận lợi cho việc bố trí mùa vụ. Mùa hè có thể trồng được
các loại cây nhiệt đới, mùa lạnh có thể trồng được các loại cây cận nhiệt đới.
Mặc dù vậy sự chênh lệnh nhiệt độ giữa các mùa trong năm, đặc biệt là sự
tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu trong thời gian gần đây đã gây ra
rất nhiều khó khăn cho địa phương trong việc chọn giống và bố trí cây trồng
vật nuôi.
Trên địa bàn có sông Ô Lâu, hói và một mạng lưới hồ, trằm tương đối
thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên vào mùa mưa mực nước lên cao, lưu lượng trung bình
khoảng 3000m/s. Mùa khô, dòng sông khô cạn lưu lượng nước thấp xuống
từ 3m3/s-4m3/s. Tình trạng này tạo nên một thực tế là thiếu nước vào mùa
khô và ngập lụt vào mùa mưa gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống cũng
như các hoạt động sản xuất trên địa bàn.
21
4.1.1.4. Tài nguyên:
Đất đai trên địa bàn xã Phong Hoà gồm 2 loại chính: Đất phù sa phân

bố dọc sông Ô Lâu và đất cát nội đồng phân bố ở phía đông nam của xã.
a) Đất đai được phân bố như sau:
- Diện tích trồng lúa 596 ha
- Diện tích trồng lạc 50 ha
- Diện tích trồng sắn km 94 hàng năm từ 105-110 ha
- Diện tích trồng khoai lang và rau màu các loại 150 ha
- Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 7,9 ha
Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng các loại đất chính năm 2012 của xã
Phong Hòa
Loại đất Diện tích (ha)
Tổng diện tích tự nhiên 3489,24
Nhóm đất nông nghiệp 2291,42
Đất trồng cây hàng năm 508,92
Đất trồng lúa 349,27
Đất trồng cây lâu năm 12,07
Đất lâm nghiệp 1624,25
Đất nuôi trồng thủy sản 1,88
Nhóm đất phi nông nghiệp 1095,11
Đất ở nông thôn 245,10
Đất chuyên dùng 222,21
Đất tôn giáo tín ngưỡng 15,65
Đất nghĩa trang, nghĩa địa 206,29
Đất sông suối và mặt nước 405,86
Nhóm đất chưa sử dụng 102,71
22
b) Rừng: Có 1.102,10 ha; trong đó:
- Rừng sản xuất 178,2 ha
- Rừng phòng hộ và rừng kinh tế 853,9 ha được chăm sóc và bảo vệ.
c) Nguồn nước:
Tài nguyên nước của xã Phong Hoà khá phong phú và đa dạng, được

cung cấp từ nguồn nước mạch, nguồn nước ngầm. Nguồn nước mạch bao
gồm sông Ô Lâu, hồ Mỹ Xuyên, trằm Niêm, trằm Thiềm và một số ao hồ
khác cung cấp lượng nước khá lớn đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất và sinh
hoạt trên địa bàn. Tiềm năng về nước ngầm cũng rất lớn, tuy nhiên chất
lượng nước chưa bảo đảm, cần phải có biện pháp xử lý trước khi đưa vào sử
dụng, đặc biệt cho nhu cầu sinh hoạt.
d) Khoáng sản:
Trên địa bàn xã có vùng đất cát là loại đất là nguyên liệu cho sản xuất
thuỷ tinh, nguyên vật liệu xây dựng. Ngoài ra còn có mỏ than bùn phân bố ở
thôn Đức Phú đang được khai thác để sản xuất phân vi sinh. Đây là điều
kiện để phát triển công nghiệp giải quyết công ăn việc làm tại địa phương.
e) Nhân lực- Lao động:
Tổng số hộ: 1.940 hộ. Nhân khẩu 9.699 khẩu. Lao động trong độ tuổi
3.750 người, trong đó đi làm ăn xa 765 người. Cơ cấu lao động trong các
lĩnh vực như sau:
- Lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp: 1.940 lao động, chiếm 65%.
- Lao động trong Công nghiệp, TTCN: 298 lao động, chiếm 10%.
- Lao động trong dịch vụ, ngành nghề khác: 747 lao động, chiếm 25%.
4.1.2 Thực trạng phát triển kinh tế xã hội xã Phong Hòa
4.1.2.1. Giao thông nông thôn.
Hệ thống đường giao thông xã (đường trục xã liên xã đường trục thôn
xóm, đường ngõ xóm và đường trục chính nội đồng) hiện có là: 94.810m,
bao gồm:
* Đường liên xã: 15.000m trong đó:Đã nhựa hóa mặt đường 3-3,5m:
8.000m. Bê tông mặt đường 2- 3m: 2.000m. Đường đất: 5.000m
23
* Đường liên thôn: 29.500m. Trong đó: Bê tông mặt đường 3- 3,5m:
600m. Bê tông mặt đường 2- 2,5m: 10.160m. Đường đất chưa bê tông:
18.740m.
* Đường liên xóm: 31.880m. Trong đó: Bê tông mặt đường 3- 3,5m:

không. Bê tông mặt đường 2- 2,5m: 5.221m. Đương đất chưa bê tông:
26.659m
* Giao thông nội đồng:
Đường giao thông gồm: 18.850m, 52 tuyến. Đa số các tuyến đường
đều bằng đất, nền đường rộng từ 2,5-3,m.
- Cống nước: Số cống hiện có trên địa bàn xã là: 17, trong đó có 5
cống đáp ứng yêu cầu, số cống cần nâng cấp 12, xây dựng mới 3.
4.1.2.3. Thủy lợi.
Diện tích được tưới, tiêu nước bằng công trình thủy lợi 302 ha lúa
nước. Số hồ, đập có khả năng cấp nước là: 6 đập ( Đập Mỹ Xuyên, đập
Niêm, đập Thiềm, đập Ông Môi, đập Hào, đập Bọng Mè) .Số trạm bơm: 04.
Hệ thống kênh mương của xã với tổng chiều dài 67.000m, Trong đó:
Đã bê tông hóa cấp I: 13.850m.
Đã bê tông hóa cấp II: 21.264m.
Đã bê tông hóa cấp III:
Tổng số kênh mương đã bê tông hóa: 35.119m. Số kênh
mương bê tông hóa bị hỏng: 5.000m. Số kênh mương bằng đất: 31.881m.
4.1.2.4. Điện.
Hệ thống điện của xã hiện nay do 01 Hợp tác xã Điện quản lý, với
hiện trạng như sau: Số trạm biến áp: 12 trạm với tổng dung lượng 1.660
KVA, có 12 trạm đạt yêu cầu. Số mét đường dây hạ thế loại 0,4: 19.500m,
trong đó có 16.000m đạt yêu cầu. Số mét đường dây hạ thế loại 0,2 (rẻ
nhánh): 28.750m, trong đó có 17.250m đạt yêu cầu. Tỷ lệ hộ dùng điện
thường xuyên, an toàn: 100%. Mức độ đáp ứng yêu cầu điện cho sản xuất,
sinh hoạt: đạt 80% so với hiện trạng.
24
4.1.2.5. Trường học.
a) Trường Mầm non.
Gồm 01 cơ sở chính, trong đó 03 cơ sở bán trú tập trung, 01 cơ
sở lẻ, được bố trí tại trung tâm khu dân cư, thuận lợi cho trẻ đến trường và

đảm bảo các quy định về an toàn, vệ sinh môi trường.
b) Trường tiểu học:
- Trường Tiểu học Phước Mỹ: Số lượng học sinh 205 em, Trường
có 09 lớp học, mỗi lớp có không quá 23 em học sinh, phòng học có diện tích
bình quân 2m2/ học sinh, có đầy đủ bàn ghế, hệ thống quạt, điện và trang
thiết bị dạy học.
- Trường Tiểu học Trạch Phổ: Tổng số học sinh: 219 em. Trường
có 09 lớp học, mỗi lớp có không quá 25 em học sinh, diện tích khuôn viên
trường: 3.590 m2, phòng học có diện tích bình quân 16,3m2/ học sinh, có
đầy đủ bàn ghế, hệ thống quạt, điện và trang thiết bị dạy học
- Trường Tiểu học Ưu Điềm:
Trường Tiểu học Ưu Điềm (cơ sở chính):
Tổng số học sinh: 173 em, diện tích khuôn viên trường: 4.995m2 .
Trường có 8 lớp học, mỗi lớp có không quá 22 em học sinh, phòng học có
diện tích bình quân 2,1m2/ học sinh, có đầy đủ bàn ghế, hệ thống quạt, điện
và trang thiết bị dạy học.
Trường tiểu học Ưu Điềm (cơ sở Đức Phú):
Tổng số học sinh: 31 em, diện tích khuôn viên trường: 3.600m2.
Trường có 2 lớp học, mỗi lớp có không quá 16 em học sinh, phòng học có
diện tích bình quân 3m2/ học sinh, có đầy đủ bàn ghế, hệ thống quạt, điện và
trang thiết bị dạy học.
c) Trường THCS: 01 trường; diện tích khuôn viên trường: 6.919m2, trong
đó sân chơi bãi tập: 4.300m2. Tổng số học sinh: 435 em. Cơ sở vật chất
trường học hiện nay đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho hoạt động giáo dục.
25

×