Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đề cương ôn thi môn Đại cương văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.2 KB, 21 trang )

ĐẠI CƯƠNG VĂN HĨA VIỆT NAM
Câu 1. Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hố gốc chăn ni du mục và văn hố
gốc nơng nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là tiêu chí quan trọn để phân
biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân tộc dù phong phú và
đa dạng đến mấy cũng đều có nguốn gốc xuất phát từ một trong hai loại hình văn hóa gốc là
văn hóa gốc chăn ni du mục và văn hóa gốc nơng nghiệp trồng trọt. Giữa hai loại hình văn
hóa gốc này có sự khác nhau mang tính tương đối căn cứ vào yếu tố trội như sau:
Về điều kiện tự nhiên và mơi trường:
Loại hình văn hóa gốc chăn ni du mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở phương Tây,
bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khơ, địa hình chủ yếu là thảo nguyên, xứ
sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề truyền thống của cư dân phương Tây
cổ xưa là chăn ni.
Trong khi loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương Đơng gồm
Châu Á và Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con sơng lớn, những
vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển.
Về đặc trưng:
Đặc điểm đầu tiên là về lối sống, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục ở phương
Tây phổ biến với nghề chăn nuôi gia súc, đến mức trong Kinh Thánh từ cừu được nhắc tới
5.000 lần, tín đồ được gọi là con chiên, Chúa là người chăn chiên. Lịch sử cho biết người
phương Tây xưa chủ yếu ni bị, cừu, dê, ăn thịt và uống sữa bò, áo quần dệt bằng lông cừu
hoặc làm bằng da thú vật. Như vậy, vì là loại hình chăn ni gia súc địi hỏi họ phải sống du
cư, nay đây mai đó, tạo thành thói quen, lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại.
Cịn loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp ở phương Đơng do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng
ẩm, mưa nhiều, có những con sơng lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp
cho nghề trồng trọt phát triển. Do nghề trồng trọt buộc con người phải sống định cư để chờ cây
cối lớn lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống định cư dẫn đến cư dân nông nghiệp
phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, khơng thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, hướng nội.
Ở đặc điểm thứ hai về cách ứng xử với môi trường tự nhiên, đối với loại hình văn hóa gốc chăn
ni du mục vì ln di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không phụ thuộc vào thiên
nhiên, nảy sinh tâm lý coi thường thiên nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự tự nhiên.


Trong khi loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp ở phương Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào


thiên nhiên nên cư dân rất tôn trọng và sùng bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với
thiên nhiên.
Đối với đặc điểm thứ ba về tính chất xã hội, vì sống du cư nên tính gắn kết cộng đồng của dân
du mục khơng cao, đề cao tính cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối
sống độc tơn, độc đốn trong tiếp nhận,cứng rắn trong đối phó. Trong khi loại hình văn hóa gốc
nơng nghiệp ở phương Đơng lại đề cao tính cộng đồng do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc
vào tự nhiên, buộc cư dân phải sống định cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.
Xét về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, do cuộc sống du cư nên cần đến sức mạnh để bảo vệ dân
cư trong bộ tộc chống lại sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên người đàn ơng có vai trị quan
trọng, tư tượng trọng sức mạnh, trọng nam giới trong khi loại hình văn hóa phương Đơng lại
trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ, vai trò của người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ
giữ vai trị quan trọng trong gia đình, chăm lo vun vén cho gia đình và làmcác cơng việc đồng
án.
Về lối nhận thức tư duy, đối với loại hình văn hóa gốc chăn ni du mục thiên về tư duy phân
tích, coi trọng vai trị của các yếu tố khách quan, vì nghề chăn ni du mục địi hỏi sự khẳng
định vai trò cá nhân, đối tượng tiếp xúc hành ngày là đàn gia súc với từng cá thể độc lập, từ đó
hình thành kiểu tư duy phân tích chú trọng vào từng yếu tố. Cịn loại hình văn hóa gốc nơng
nghiệp ở phương Đơng thì thiên về tư duy tổng hợp – biện chứng, coi trọng các mối qua hệ,
thiên về kinh nghiệm chủ quan cảm tính hơn là coi trọng khách quan và khoa học thực nghiệm
do trồng trọt của cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…
Và ở đặc điểm cuối cùng về cách thức ứng xử trong cộng đồng, loại hình văn hóa gốc chăn
ni du mục có lối sống trọng lí, ứng xử theo ngun tắc, thói quen tơn trọng pháp luật khác
với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp do cuộc sống cộng đồng, gắn kết với nhau nên sống
trọng tình, thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi bật khác
nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Tuy nhiên, trong
thực tế thường khơng có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính chất nơng nghiệp trồng trọt

hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn hóa này mang tính
tương đối và căn cứ vào các yếu tố, đặc điểm có tính trội.
Câu 2. Hãy chứng minh rằng văn hoá Việt Nam thuộc loại hình văn hố gốc nơng nghiệp
trồng trọt điển hình.
Do Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, với điều kiện vị trí địa lí, tự nhiên
thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía Đơng – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có
nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ là


điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước nên văn hóa Việt Nam thuộc loại hình
văn hóa nơng nghiệp điển hình.
Người Việt thích cuộc sống định cư, ổn định, khơng thích sự di chuyển, thay đổi, tình cảm gắn
bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… nên hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội.
Do cư dân Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp nên rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn
mưa thuận gió hịa để có cuộc sống no đủ “Lạy trời, ơn trời…”, có nhiều tín ngưỡng, lễ hội
sùng bái tự nhiên vì vậy phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước.
Cuộc sống định cư tạo cho người Việt có tính gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ vai trò cá nhân:
“Bán anh em xa mua láng giềng gần”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”.
Lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử nhiều hóa,
nhân ái, khơng thích sức mạnh, bạo lực. Cuộc sống định cư ổn định của nghề nông nghiệp
trồng trọt cần đến vai trò chăm lo thú vén của người phụ nữ, vai trị của người phụ nữ được tơn
trọng và đề cao.
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng thể hiện rõ
trong văn hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ sở
khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kêt hợp lối sống
trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
Như vậy, loại hình văn hóa Việt Nam được xem là loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp trồng trọt
điển hình, đều được thể hiện rõ nét trong cách tổ chức đời sống phương thức tư duy, lối ứng xử
của người Việt và được xem là nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.

Câu 3: Hãy chỉ ra sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với mơi trường tự nhiên của người
Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng quốc
gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha ông ta xây
dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với mơi
trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Qua q trình lao động sản xuất, cha ơng ta đã rút gọn được một hệ thống kinh nghiệm của
nghệ thuật trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không được lưu truyền trong dân gian, mà
vẫn được tập hợp lại, chỉnh sửa thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân (Vi dụ: cuốn sách
Minh nông phả của Trần Cánh đời Lê; Nông gia thuật sử dụng kinh nghiệm quyết định của


Trần Ngọc Trác; Nơng tồn đồ của Lê Thúc Hoạch đời Nguyễn). Để phục vụ cho nông nghiệp,
cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ truyền thông rất phong phú, đa dạng, gồm
hàng tram kiểu loại khác nhau.
Tất cả những kinh nghiệm được kết hợp và những thành tựu được tạo ra từ phương thức sản
xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với sự ưu
tiên của người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với mơi trường tự nhiên của người Việt cũng được thể hiện
rõ nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mêm déo, linh hoạt của cư dân nông
nghiệp Việt Nam. Trước hết ở việc ăn ng theo mùa, theo vùng miền, đó là một biểu hiện của
lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa là một cách tự thích nghi của nên kinh
tế tiểu nơng tư túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc chế biến và lựa chọn thế (điều
hịa âm - dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với mơi các món ăn để điều chỉnh, làm cân bằng các
trạng thái của cơ trường để đối phó với thời tiết.
Trong văn hóa trang phục Việt Nam, người Việt thường sử dụng các chất liệu có sẵn trong tự
nhiên, mỏng, nhẹ và có nguồn gốc từ thực vật, mang đậm dấu ấn nông nghiệp trồng trọt, sống ở
xứ nóng nên chất liệu mỏng, nhẹ, thống mát như: tơ tằm,sợi bơng, sợi đay, sợi gai… Màu sắc
trang phục truyền thống của người Việt là màu nâu (màu đất) và màu đen (màu bùn). Điều đó

cũng phản ánh phong cách truyền thống của người VN là ưa sự kín đ, giản dị, đồng thời cũng
thể hiện sự thích nghi với mơi trường sống và sinh hoạt của nghề nơng trồng lúa nước. Ngồi ra
chiếc nón lá cũng là một bộ phận kèm theo không thể thiếu trong trang phục của phụ nữ VN
truyền thống. Nón có vành rộng và có mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm mưa nhiều. Trang
phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng
bức và cơng việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa… thể hiện
khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN. Mang đậm dấu ấn của vùng
sông nước với nhà sàn là kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả miền sơng nước lẫn miền núi để
ứng phó với những tác động xấu của môi trường (tránh côn trùng, thú dữ, lũ, ngập lụt…). Sang
thời phong kiến thì nhà đất bằng là phổ biến, song dấu ấn văn hóa song nước cịn thể hiện ở
kiểu nhà mái cong mô phỏng mũi thuyền, thậm chí cư dân sơng nước cịn dùng thuyền làm nhà
ở hình thành nên các xóm chài. Khơng gian ngơi nhà Việt là khơng gian mở, có cửa rộng,
thống mát, giao hồ vs tự nhiên, xung quanh có cây xanh bao bọc che chở. Về việc chọn
hướng nhà và chọn đất làm nhà, hướng nhà ưa thích của người Việt là hướng nam hoặc đông
nam, các hướng này sẽ tận dụng được gió mát từ biển thổi vào và tránh được nắng nóng.
Về văn hóa đi lại, giao thơng đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư dân ít có nhu
cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa các vùng


và do sơng ngịi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ yếu là đi bộ, vận
chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu.
Giao thơng đường thủy do địa hình nhiều sơng ngịi, bờ biển kéo dài từ Bắc chí Nam nên người
Việt đi lại chủ yếu bằng thuyền, ghe, xuồng,đị...Vì đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô
thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn
liền với sông nước nên hình ảnh dịng sơng, con đị đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách nghĩ
(Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người
Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sơng nước như lặn lội, q giang, xe đị...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các nhu cầu cần
thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với mơi trường

tự nhiên. Qua đó, thể hiện rõ nét dấu ấn loại hình văn hóa nơng nghiệp trồng trọt, đồng thời thể
hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt với môi trường sông nước và xứ sở
thực vật.
Câu 4. Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được thể hiện ở lĩnh
vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng quốc
gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha ông ta xây
dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của người Việt với môi
trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hố vật chất.
Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất tiêu nông
tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng kinh tế của hội Việt
Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định hình từ thời Văn
Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, trong quá trình xây dựng quốc gia tự
chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nơng và có các chính sách khuyến
nơng tích cực. Bằng những công cụ dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự
nhiện như: tơ chuối, sợi đay, sợi gai, tơ tăm và sợi bông, những người thợ thủ công đã dệt ra
nhiều loại vải, lụa rất phong phú, không chỉ đáp ứng được nhu câu may mặc trong nước mà cịn
bán nước ngồi. Như vậy, từ thời Hùng Vuơng dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại
Việt, phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước được duy trì và phát triển với vai trị kinh tế
chủ đạo. Cùng với nghề nông là sự mở rộng và phát triển các làng nghề thủ công phục vụ cho
các nhu cầu sản xuất và sinh sống hàng ngày. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương thức sản
xuất nông nghiệp tiêu nông tự cung tự cấp, các quan hệ giao luu bị hạn chể, do đó sản xuất
nơng nghiệp và thủ công nghiệp chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ của nên kinh tế tiêu nông đáp ứng
các nhu cầu tiêu dùng chứ không thế vuơn tâm phát triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương
mại.


Trong văn hóa ẩm thực, bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành viên trong bữa ăn liên
quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì mang tính cộng đồng

nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trị chuyện. Do lối sống cộng đồng cùng với sự chi
phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việst rất coi trọng nghi lễ và
thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền chắc “ăn
chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: nâu, đen,
chàm…phù hợp với mơi trường sơng nước, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ, vàng…) chỉ
mặc vào dịp lễ hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp (Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì
phân). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân, quần
lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là một trong những nét bản
sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu.
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc). Trang phục
truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng bức
và cơng việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ. Trong sự
ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt thể hiện quan niệm thẩm mỹ về vẻ
đẹp kín đáo, giản dị.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngơi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho cuộc
sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính cộng đồng.
Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phịng biệt lập thì nhà Việt
truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình, các gian
nhà thường để thơng nhau, khơng có vách ngăn. Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng thường
chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi..) được xén thấp
để dễ qua lại.
Về văn hóa đi lại, giao thơng đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư ân ít có nhu
cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa các vùng
và do sơng ngịi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ yếu là đi bộ, vận
chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở giao thơng đường thủy vì đường
thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố
Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sơng nước nên hình ảnh dịng sơng, con đị đã ăn sâu
vào trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến
chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước: lặn

lội, quá giang, xe đị...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các nhu cầu cần
thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường
xã hội.


Câu 5. Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương – Ngũ hành với sự hình thành các
triết lý sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyế âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư tưởng
triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao
gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Trang văn hóa bản địa của người Việt
cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự
đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại.
Là cơ sở để thuyết âm dương ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt,
trở thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền bá cho
thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ với:
Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp đôi: trong tâm
thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng, cân bằng ân dương thì
sự vật mới hồn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm dương thường được sử dụng
cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước…
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hịa âm dương: từ triết lí âm
dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng, hài hịa âm dương thì
mới bền vững, khơng bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo triết lí quân bình, duy trì
trạng thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài
hòa trong quan hệ với người khác để khơng làm mất lịng ai khiến cho người Việt tự bằng lịng,
an phận với những gì mình đang có, khơng hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực
đoan.
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do nhận thức
được qui luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái nhìn
bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được qui

luật chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ
hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn
đến tiêu cực, tự bằng lịng và an bài với cuộc sống hiện tại, khơng nỗ lực cố gắng.
Câu 6. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo ở Việt Nam và vai trị của
phật giáo đối với đời sống văn hố tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo là một trong ba luồng tư tưởng nổi bật của tư tưởng và tôn giáo thời Đại Việt và cho
đến ngày nay. Vào những thế kỉ đầu thời kì Đại Việt, phật giáo phát triển rất nhanh và đạt tối
cực thịnh vào thời Lý – Trần và được xem là quốc giáo với những đặc điềm nổi bật như sau:


Tính nhập thế: Giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh, luôn đồng hành
với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các hoạt động XH: nhà
chùa mở trường dạy học, tham gai đào tạo tri thức, nhiều nhà sư đồng thời nhà sư đồng thời là
thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người Việt cụ thể hóa trong các mối liên
hệ đời thường.
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến thái độ
ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:
- Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa: dung hợp với
tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần,
Thánh, Mẫu, Thành Hồng, Thổ địa…
- Dung hợp giữa các tơng phái Phật giáo.
- Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho nhau
để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và văn
hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi
miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí sống, ngơi chùa là
nơi giáo dục đạo đức và lịng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng
đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ lâu. “Mái chùa
che chở hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”.
Và đến ngày nay, trong số các tơn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tơn giáo lớn nhất,

có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay Việt Nam có
khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến 10% dân số. Hiện nay, số lượng người đi chùa
ngày càng đơng, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày rằm, mồng
một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò của Phật giáo
trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Câu 7. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò của
Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc và đến thế kỉ XV, Nho giáo được xem là đạt
đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo. Các triều đại phong kiến Đại
Việt lấy Nho giáo làm nền tảng để xây dựng hệ tư tưởng, đạo đức, giáo dục, pháp luật, qua đó
để xây dựng mơ hình nhân cách con người. Tuy nhiên do sự phân phối của văn hóa bản địa nên
Nho giáo Trung Hoa đã được người Việt tiếp nhận và vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt:


Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà vua được
đế cao tuyệt đối thì Nho giáo Việt Nam tuy vẫn đề cao tư tưởng này nhưng không cực đoan đến
mức phải hy sinh tính mạng vì vua, quan niệm trung quan của người Việt gắn liền với ái quốc,
trong nhiều trường hợp nước còn được đề cao hơn vua. Người Việt đề cao tinh thần yêu nước,
thương dân, lấy dân làm gốc.
Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa đã bị khúc xạ qua lăng kính của người
Việt, nó khơng chỉ là một khái niện hạn hẹp về đạo đứcmà nó cịn trở thành một lý tưởng xã
hội cao đẹp vì cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân – “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
trong Cáo bình Ngơ của Nuyễn Trãi.
Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào Việt Nam cũng nhẹ bớt đi bởi truyền thống
trọng phụ nữa có trong văn hóa bản địa.
Mặc dù, khơng thể phủ nhận một thực tế rằng trong gần 10 thế kỉ xây dựng và củng cố nhà
nước phong kiến nho giáo đã trở thành nền tảng tư tưởng chi phối về mọi mặt của đời sống xã
hội Việt Nam, thấy được vai trò của Nho giáo trong đời sống tư tưởng và văn hóa tinh thần của
người Việt:
- Là nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ sở pháp lý để quản lý, duy

trì dự ổn định của xã hội dựa trên các mối quan hệ cộng đồng xã hội và gia đình theo quan
niệm tam cương, ngũ thường.
- Xây dựng nền tảng đạo đức, củng cố các mối quan hệ gia đình theo thứ bậc, kỹ cương của
giáo lý nho giáo, xác lập chuẩn mực đạo đức để xây dựng mơ hình nhân con người Việt Nam
truyền thống với các tiêu chí: đạt đức, đạt đạo.
- Ngoài ra, nho giáo đã chi phối trực tiếp và toàn diện hệ thống giáo dục, thi cử truyền thống, từ
mục đích đến nội dung và phương pháp giáo dục.
Câu 8. Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hố nơng nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao tiếp ứng
xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào cần được giữ gìn và
phát huy.
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ nét. Do
sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng xử của
người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây
Do nền văn hóa nơng nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt coi trọng
việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức ứng xử văn hóa
quan trọng của người Việt “lời chào cao hơn mâm cổ”, thích thăm viếng nhau, coi việc thăm


viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ và giàu tính hiểu khách
(khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình).
Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích tìm hiểu,
quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân của đôi tượng
giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...). Đặc điểm này cũng có
ngun nhân từ tính cong đơng và lôi sống trọng tinh (quan tâm đến ngưoi khác). Tuy nhiên,
việc này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí. Trong thực tế người Việt
Nam vẫn coi trọng “cái tình” hơn cả, bất đắc dĩ lắm mới dùng “cái lý” để giải quyết những mâu
thuẫn. “Cái tình” sẽ làm cho người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng “cái tình” là rất đẹp,
để rồi “một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”, để khơng phải hối hận về sau. Người ta thường
nói “tình làng nghĩa xóm” lúc “tắt lửa tối đèn” là để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa “cái lý”
ra làm thước đo con người. Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số trươờng hợp

ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Việt. Vì khơng giải quyết theo lý mà chỉ lụy tình,
người Việt thường có thói quen: Người càng thân ta thì càng đúng hơn. Thậm chí có việc người
nhà ta, người làng ta, người cơ quan ta sai lè lè, khơng cịn cách nào khác, người đứng ra bênh
vực bảo: “Anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có kiểu xưng
hùng xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo quan hệ thân
tộc, coi mọi người trong cộng đơng như bà con họ hàng: cơ, bác, chú, dì, cháu, con... Ngoài ra,
trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn là giá trị vật chất (Tốt danh
hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp; Trâu
chết để da, người ta chết để tiếng...). Vì coi trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp
cũng thể hiện tính tơn ti, thứ bậc. Văn hóa nơng nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không
gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình
cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động
lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng,
buổi trưa, buổi chiều, buổi tối….
Chính vì q coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện “ở đời muôn sự của
chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “đem chuông đi đánh nước người, không kêu
cũng đánh ba hồi lấy danh”; “một quan tiền công không bằng một đồng tiến thưởng”;.. Vì trọng
danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi vậy, dư luận trở thành một thứ vũ khí lợi
hại, một sợi dây vơ hình để ràng buộc cá nhân với cộng đồng, nhờ đó mà duy trì sự ổn định của
làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đốn trong giao
tiếp, khơng đi thắng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo tam quốc" để đưa
đẩy, tạo khơng khí thân mật và thăm dị thái độ của đối tượng giao tiếp. Chính sự đắn đo cân


nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đốn. Để tránh phải
quyết đốn, và đồng thời để khơng làm mất lịng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người
Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người
Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên

trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hịa thuận. Người Việt
thường khơng biểu lộ trực tiếp cảm úc của mình với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu
ca dao, thành ngữ, thơ ca thường dùng hinh tượng ẩn dụ, bóng gió “tram dâu đổ một đầu tằm”;
“tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý
trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn, cả nể, sợ mất lòng người đối thoại “lời nói chẳng
mất tiền mua, lựa lơi mà nói cho vừa long nhau; “Một sự nhịn, chin sự lành”;… Và hệ quả của
việc giữ ý, cả nề dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc thái quá, thiếu tính quyết đốn trong giao
tiếp “người khơn ăn nói nửa chừng, để cho ngưrời dại nửa mừng nửa lo; “uốn lưỡi ba lần trước
khi nói...). Chính thói quen ứng xử nặng tinh cảm hơn lý trí và thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính
quyết đốn trong giao tiếp đã khiến cho ngươi Việt không dám thẳng thắn bày tỏ quan điểm trái
chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để
bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái độ ứng xử tiêu cực
với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người diễn ra
hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam qua hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh mềm làm nên nét đẹp và là chìa
khóa thành cơng của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi nét đặc trưng văn hóa ứng xử giao
tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền văn hóa ứng xử mn màu, phong phú
thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng
văn hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật tất yếu đêu phải có những mặt tích cực và mặt tiêu
cực, hai yếu tố này luôn song hành cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu khơng có ánh sáng
thì khơng thể nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu
cực này mà có thể thơng qua đó phát triển hơn, hồn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát
huy các đặc trưng văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống
Việt Nam nói chung.
Câu 9. Hãy trình bày đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai trị
của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Văn hố gia đình truyền thống Việt Nam là toàn bộ những giá trị, chuẩn mực truyền thống của
gia đình Việt Nam trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, mối quan hệ giữa gia
đình với xã hội được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời sống gia đình, gắn liền

với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội. Đó là những giá trị được
kết tinh của kiểu gia đình truyền thống Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với nền văn
hoá nông nghiệp lúa nước và cốt lõi quan hệ văn hố gia đình Nho giáo phương Đơng. Do sự


chi phối của phương thức sản xuất nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa gia đình
Việt Nam truyền thống có các đặc điểm sau:
Từ lâu truyền thống Việt Nam đã dành cho gia đình một chỗ đứng quan trọng không chỉ trong
công việc xây dựng xã hội quốc gia, mà cả trong việc đào tạo con người nữa. Truyền thống văn
hóa Việt Nam coi gia đình là con đường phải qua nếu các cá nhân muốn thành đạt và được kính
trọng ngồi xã hội. Tư tưởng này đã ăn sâu trong quan niệm thăng tiến xã hôi của con người
Việt Nam: muốn ổn định thiên hạ thì phải có khả năng trị quốc; muốn trị được quốc điều trước
tiên là phải tề gia. Phần quan trọng nhất trong văn hóa làm người Việt Nam là phải tuân thủ gia
đạo. Đạo là con đường dẫn từ khởi điểm tới đích điểm. Gia đạo chính là những nguyên tắc cơ
bản và ổn định, những bổn phận phải làm và những điều phải tránh trong sinh hoạt gia đình.
Đây chính là cái khung tiêu chuẩn của đạo lý con người. Những điều nầy được chỉ dạy cho mọi
thành viên trong gia đình. Khi mọi người một mực trung thành tuân giữ, người ta gọi là người
có gia giáo. Một cách đơn giản, gia giáo là sự chỉ dạy cách ăn nết ở trong gia đình, ngồi xã
hội, nơi làng nước. Thường những lời chỉ dạy nầy xuất phát từ kinh nghiệm sống của người
trước về cách cư xử, phép tắc, thói tục; các kinh nghiệm này đã được xã hội hóa. Người lớn
trong gia đình đóng vai trị làm gương sáng, chỉ dạy cho trẻ nhỏ. Một gia đình có gia giáo là gia
đình có nề nếp, tơn ti trật tự, kính trên nhường dưới.
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với nền văn
hố nơng nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình. Mỗi gia đình
thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vì vậy
các thành viên trong gia đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau (Trẻ cậy
cha, già cậy con; Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng; Anh em như thể tay
chân...). Vừa đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt đối của tập thể gia đình đối với
mỗi thành viên), tinh thần vì lợi ích chung, vừa coi trọng đúng mức vai trò cá nhân; vừa coi
trọng tập thể gia đình; vừa tơn trọng giới hạn tự do cá nhân. Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy tính

cộng đồng, tính tập thể thường lấn át, tới mức, người phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có
một "chủ nghĩa cộng đồng".
Người Việt Nam quen với đời sống nông nghiệp, gần gũi với trời đất, thiên nhiên và vạn vật.
Ngôi nhà của gia đình Việt Nam nép mình bên dịng suối, bờ sông, dưới gốc đa, tàn lá, được
bảo bọc che chở bởi lũy tre xanh, bởi đồng lúa vàng, ln tìm sự nương tựa vào thiên nhiên, đất
trời. Người Việt ln ý thức trên đầu mình, trong nhà ngồi ngõ, nơi sơng núi và ngồi đại
dương ln có những lực lượng thần thiêng chi phối cuộc sống và an sinh của mình. Tình cảm
tín ngưỡng nầy đã ăn sâu trong văn hóa gia đình Việt Nam. Các lễ nghi cúng vái thờ thần luôn
được thể hiện trong cuộc sống gia đình và làng nước. Tin vào lẽ phải thiêng liêng và đó là lẽ
trời ln thúc giục người ta biết ăn ở ngay lành, làm điều thiện được phúc đức, làm điều ác sẽ
bị quả báo trừng phạt “Ai ơi, chớ ở đầy vơi. Trời cao khơng phụ lịng người hiếu trung.” Người
thành công trong công ăn việc làm, cha mẹ đông con, gia đạo bằng yên hạnh thông đều nhờ lộc


trời, ân đất. Quan điểm về phúc đức nầy đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam: “trời cho thanh cao
mới được phần thanh cao.” Nhưng phúc đức cũng có thể do bởi ơng bà cha mẹ nữa, “Cây xanh
thì lá cũng xanh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con.”
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sự ảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn hoá gia đình Nho
giáo phương Đơng nên con cái mang họ bố; người bổ có quyền uy tuyệt đổi và chịu trách
nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt đầu con ngồi đấy); con
trai đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên.
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng phong kiến,
phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tịng tư đức, chấp nhận gia đình đa thê, "trai
chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"...,Quan niệm gia đình đơng con
là phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ thực tiễn của cuộc sống nơng nghiệp. Sinh con là
để có người lo việc đồng áng, và lập gia đình để có người phụ giúp nông trang.
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng nam
khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên nhân gây ra nhiều
thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong thời kỳ phong kiến,
lúc bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền phân công lao động, cho đến quyền

quyết định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí
thành nơ lệ. Người đàn ơng có quyền đánh đập. “bán vợ, đợ con”, xã hội xuất hiện sự bất bình
đẳng. Người đàn ơng nắm quyền lực chính trong gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ,
dù cho vai trò của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội.
Vai trị:
Cho đến nay, vai trị của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính bền vững, gia
đình ln là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất tiếc khóc chào đời
đến khi mất đi. Ở hồn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn ln là nhân tố tích cực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng quan trọng của gia đình đó
là: Tái tạo sản xuất ra con người; tái tạo sức lao động, sản xuất ra của cải vật chất và cũng là
nơi gìn giữ và phát huy giá trị tinh thần cao qúy của dân tộc; là tổ ấm đem lại hạnh phúc, yêu
thương, chia sẻ vui buồn, luôn đảm bảo những điều kiện tốt nhất, an toàn nhất cho mỗi con
người. Bên cạnh vai trị đó, gia đình cịn là mơi trường sống, môi trường giáo dục đầu tiên để
mỗi cá nhân hình thành, hồn thiện nhân cách.
Vai trị giáo dục trong gia đình giữ vai trị chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách
con người, kết hợp giáo dục từ nhà trường và xã hội. Mỗi cá nhân, từ khi lọt lòng mẹ đến khi
trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời ăn, tiếng nói, từ cách ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh
chị em, với cộng đồng thế nào cho đúng, cho lễ phép. Khi bước chân vào cánh cửa nhà trường,
môi trường giáo dục nhà trường, bên cạnh việc dạy chúng ta kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ


thuật thì giáo dục đạo đức, lối sống vẫn là nội dung quan trọng để mỗi cá nhân hình thành nhân
cách. Trong môi trường giáo dục, khẩu hiệu mà chúng ta thường gặp đó là: “Tiên học lễ, hậu
học văn”. Một cá nhân trước tiên phải có nhân cách tốt, có đạo đức, làm điều thiện, biết chăm
lo cho bản thân, gia đình và rộng hơn phải biết thương yêu đồng loại; biết ứng xử làm sao cho
văn hóa, văn minh nơi cơng cộng. Nói về đức và tài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Có tài mà
khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”, bởi vậy, đạo
đức mỗi con người luôn được đề cao, là cái trước tiên, là thước đi, là tiêu chí quan trọng để
đánh giá một con người.
Trong gia đình Việt Nam thường tồn tại nhiều thế hệ, có mối liên hệ mật thiết với nhau, ở đó

các cá nhân khơng ngừng học tập, hồn thiện chính mình. Nhiều cá nhân tốt sẽ thành gia đình
tốt. Với ý nghĩa là mơi trường văn hóa đầu tiên, gia đình hay văn hóa gia đình là giá trị cốt lõi
của văn hóa xã hội. Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù gắn liền với
những điều kiện cụ thể của tự nhiên, xã hội. Văn hóa gia đình được hình thành từ việc tổ chức
cuộc sống có nền nếp, trật tự, gia phong, mà ở đó là mơi trường đầu tiên cho việc dạy điều hay,
lẽ phải, ứng xử văn hóa, giao tiếp lịch sự của mỗi cá nhân… Ở gia đình, mỗi thành viên vừa là
người thầy, vừa là trị. Thơng qua giáo dục gia đình, các thế hệ đi trước truyền thụ cho thế hệ
trẻ những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, tạo nên giá trị xã hội và nhân cách văn hóa
của mỗi con người. Ở xã hội đương đại, bình đẳng xã hội được đề cao, việc áp đặt của người
lớn với trẻ nhỏ, hay người có vai vế thấp trong gia đình khơng cịn như trước, bởi vậy mối quan
hệ tương tác qua lại trong giáo dục gia đình ngày càng một hoàn thiện. Bên cạnh việc giáo dục
thế hệ trẻ, người lớn biết lắng nghe, học tập và hồn thiện chính mình. Trong chủ trương xây
dựng gia đình văn hóa hiện nay, tiêu chí một gia đình văn hóa phải đảm bảo các tiêu chí cơ
bản, đó là: Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước;
tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương nơi cư trú; Gia đình hịa thuận, hạnh
phúc, tiến bộ; Tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng; Tổ chức lao động, sản xuất, kinh
doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Gia đình văn hóa biểu hiện ở
mối quan hệ ứng xử tốt đẹp, hiểu biết, sẻ chia, thông cảm quan tâm, chắm sóc giữa các thành
viên. Từ các tiêu chí đó, văn hố gia đình chính là mấu chốt để hình thành, gìn giữ và phát
triển, hồn thiện nhân cách con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Câu 10. Hãy trình bày đặc trưng của văn hố làng và ảnh hưởng của nó đến thói quen, lối
sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt (ảnh hưởng đến Pháp luật). Sưu tầm những câu
thành ngữ, tục ngữ nói về văn hố làng của người Việt.
Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo làm nên
bản sắc của văn hóa truyển thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã cùng gặp nhau khi khái
quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tính cộng đồng và tính tự trị.


Lối sống định cư của cư dân nông nghiệp trồng trọt đã hình thành nên tính cộng đồng như là
một đặc trưng tiên biểu của văn hóa làng. Tính cộng đồng là sự liên kết, gắn bó chặt chẽ giữa

các gia đình, gia tộc, giữa các thành viên trong làng với nhau. Về cơ sở hình thành của tính
cộng đồng, tính cộng đồng được hình thành trên nền tảng của hai mối quan hệ: láng giềng và
huyết thống. Quan hệ láng giềng do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải
định cư, người Việt đã sống quần tụ thành cộng đồng, từ đó hình thành mối quan hệ láng giềng
gắn bó như việc Việt Nam thúc đẩy hợp tác giữa các nước làng giềng mê công; “Bán anh em xa
mua láng giềng gần”. Về quan hệ huyết thống, làng Việt được hình thành trên cơ sở của sự
quần tụ các gia đình có cùng huyết thống, gắn bó, cưu mang, đùm bọc nhau cà về vật chất lẫn
tinh thần “chị ngã em nâng”; “một người làm quan cả họ được nhờ”;… Hai mối quan hệ này đã
tạo nên chất keo gắn kết các thành viên trong làng thành một khối cộng đồng bền chặt. Gắn kết
với nhau về kinh tế giữa các thành viên trong làng xã, luôn tương trợ giúp đỡ nhau trong lao
động sản xuất, chống thiên tai (hạn hán, lũ lụt), khi đói rét, mất mùa, lực lượng chức năng giúp
đỡ người dân miền Trung trong trận lụt. Về xã hội, những người trong làng ln giúp đỡ nhau
khi có khó khăn, hoạn nạn, chia sẻ khi vui, khi buồn. Về phong tục, tín ngưỡng, cả làng có
chung phong tục, tập qn, tín ngưỡng, cùng thờ chung một vị thần của làng (Thành Hoàng),
cùng tham gia các hội hè, đình đám… đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Về
luật pháp, mỗi làng có qui ước, luât tục riêng, mỗi thành viên trong cộng đồng không được
pháp luật công nhận với tư cách cá nhân, mà bị hòa tan trong cái chung của cộng đồng, làng xã
“một người làm quan cả họ được nhờ”; “phúc cùng hưởng, họa cùng chia”; … Biểu tượng của
tính cộng đồng là sân đinh - bến nước – cây đa. Làng nào cũng có một cái đình. Đó là biểu
tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện: trung tâm hành chính, trung tâm văn hố,
trung tâm về mặt tơn giáo và trung tâm về mặt tình cảm. Cây đa, đó là biểu tượng của sự hiền
hịa, n bình, trường thọ. Cây đa là địa chỉ dừng chân cho khách thập phương viếng thăm làng
xã. Cây đa là nơi nghỉ ngơi hóng mát của thợ cày, thợ cấy, của các bô lão và con trẻ trong làng.
Cây đa là nơi đưa tiễn người đi xa và cũng là địa chỉ đón người về làng… Bến nước là nơi diễn
ra các lễ hội của cư dân nông nghiệp lúa nước như bơi chải, rối nước, bơi lội… Bến nước là địa
chỉ kết nối cộng đồng, mơi trường và văn hóa…
Tuy nhiên, điều gì cũng có hai mặt tích cực va tiêu cực, ảnh hưởng tiêu cực trong đặc trưng
tính cộng đồng của văn hóa làng là do lối sống đề cao tính cộng đồng, coi nhẹ vai trò cá nhân
nên người dân trong xã hội phong kiến không được pháp luật công nhận với tư cách cá nhân,
mà họ bị hòa tan trong cái chung của cộng đồng, họ mạc, làng xã (chịu trách nhiệm liên đới:

quan hệ huyết thống – con dại cái mang; hôn nhân, láng giềng – tru di tam tộc, cửu tộc). Hình
thanh thói quen ứng xử bao che lẫn nhau. Tâm lý dựa dẫm, ỷ lại, không chịu trách nhiệm cá
nhân. Là hệ quả của tính cộng đồng, thói quen ứng xử nặng tình nhẹ lý đã có nhiều tác động
tiêu cực đến văn hóa ứng xử với pháp luật, cụ thể là do tình cảm được đặt ở vị trí được ưu tiên
trong việc giải quyết các mối quan hệ nên đã hình thành thói quen ứng xử trọng tình nhẹ lý, dẫn
đến cách hành sự chủ quan, tùy tiện, vô nguyên tắc. Trong việc giải quyết các mâu thuẫn, bất


đồng thường dễ dàng tha thứ cho nhau, "chín bỏ làm mười", "dĩ hịa vi q", khơng đấu tranh
đến cùng mà dễ dàng thỏa hiệp, ứng xử nửa vời, cả nể, ngại va chạm, "một đời kiện 9 đời thù",
từ đó pháp luật khơng phải là một cách giải quyết tranh chấp được ưa chuộng đối với người
Việt.
Nhưng dù cho thế nào, ta cũng không thể phủ nhận được rằng sự gắn kết cộng đồng đã tạo nên
một chất keo gắn bó các thành viên trong làng, khiến cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt
chẽ. Tính cộng đồng được bảo tồn, ni dưỡng, được hình thành trên nền tảng của văn háo làng
cũng chính là cơ sở để hình thành tinh thần đồn kết dân tộc như một giá trị tinh thần truyền
thống quí báu của dân tộc ta.
Nếu tính cộng đồng là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng với nhau thì
tính tự trị lại là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng khác. Về cơ sở hình thành
tính tự trị, phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu nông tự
túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối sống khép kín, tự trị, hướng nội của văn hóa làng. Thêm
nữa, do tính cố kết cộng đồng cao khiến cho mỗi làng là một đơn vị độc lập, khép kín, co cụm
lại trong khơng gian khá biệt lập của mỗi làng, tạo nên tính chất tự trị, khép kín như một đặc
trưng nổi bật của văn hóa làng. Về tổ chức hành chính, mỗi làng có một bộ máy hành chính tự
quản độc lập, có vai trị và chức năng giải quyết mọi việc trong làng. Về tình cảm, các thành
viên trong làng đều có quan hệ họ hàng nên quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín
trong phạm vi làng. Nếu cây đa, đình làng là biểu tượng cho tính cộng đồng thì lũy tre làng và
cổng làng là biểu tượng cho tính tự trị, khép kín của văn hóa làng; đồng thời là ranh giới phân
định cụ thể không gian sống biệt lập của mỗi làng.
Trong cách tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống, mỗi làng là một đơn vị hành chính độc lập,

quản lý xã hội chủ yếu bằng luật tục - Hương ước - Lệ làng. Vì luật tục - lệ làng rất cụ thể và
phù hợp với đặc điểm cụ thể của mỗi làng, trong khi luật pháp của nhà nước thì chỉ mang tính
phổ qt cho nên người dân chỉ quen với việc tuân thủ lệ làng mà không quan tâm đến luật
pháp của nhà nước. Đó là lý do khiến cho luật pháp của nhà nước khơng có mấy hiệu lực đối
với cuộc sống của cư dân sau lũy tre làng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến ý
thức không tôn trọng pháp luật. Rõ ràng, các truyền thống văn hóa ngàn đời của làng xã Việt
Nam là rất đáng trân quý. Nhưng bên cạnh đó, có các quy tắc, giới luật trong làng xã đôi khi đi
quá giới hạn. Đã ăn sâu vào máu thịt, trong tâm khảm của người dân. Khiến Phép Vua thua lệ
làng lại ở vế đầu tiên (vế này mang ý nghĩa tiêu cực). Đó là đặt ra những quy định tùy tiện,
những Hương ước bất chấp tất cả kỷ cương phép nước, mang tính bảo thủ. Các hành vi trái với
luân thường đạo lý, trái với đạo đức xã hội: Nạn mê tín dị đoan để trục lợi, hũ tục ma chay, tảo
hôn, trọng nam khinh nữ… Hiện nay, Phép vua thua lệ làng cũng đang dần dần nằm trong sự
kiểm soát của nhà nước. Đảng & nhà nước ta vẫn đang ngày ngày áp dụng chính sách tun
truyền vận động xóa bỏ các Hương ước lạc hậu, những phong tục tập quán mang tính tiêu cực,


cổ hủ. Đồng thời củng cố để cho phát triển các bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục tốt đẹp
của làng xã đã có từ xa xưa. Để mong có một xã hội tiên tiến, cơng bằng và văn minh.
Câu 11. Hãy phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn hoá Việt
Nam từ truyền thống đến hiện đại.
Văn hóa Việt Nam (cũng như bất cứ nền văn hóa của một dân tộc nào) đều là sản phẩm của
tính q trình, như một dịng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại. Nền văn hóa truyền thống
Việt Nam là sản phẩm của ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, trên nền tảng của phương
thức sản xuất nông nghiệp lúa nước tiểu nông. Những đặc trưng của văn hóa truyền thống đã
thẩm thấu đến những tầng sâu nhất của đời sống xã hội, kết đọng trong lôi sông, cách tư duy và
mô thức ứng xử của con người, làm nên cái gọi là bản sắc văn hóa Việt.
Tuy nhiên, là một phạm trù xã hội, văn hóa hiển nhiên la khơng thế ổn định, bất biến khi xã hội
có những thay đổi mang tính bước ngoặt. Sự thay đổi có tính bước ngoặt của xã hội Việt Nam
sau mấy mươi thế kỷ tồn tại của xã hội phong kiến, trên nền tảng của văn minh nơng nghiệp lúa
nước đó là cuộc tiếp xúc, giao lưu với phương Tây, được khởi đầu chính thức từ cuộc xâm lược

của thực dân Pháp (1858).
Sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại thực ra đã được manh
nha từ thế XVII, bắt đầu từ cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây thơng qua vai trị của các
nhà bn (đến từ Bổ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, buôn bán ở Kẻ Chợ Thăng Long và
các phố cảng như Hội An, Phố Hiến), và sau đó là các giáo sĩ Cơ-đốc giáo đến để truyền đạo.
Tuy nhiên, chỉ từ khi người Pháp đặt được sự thống trị lên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thì ảnh
hưởng của văn minh cơng nghiệp phương Tây mới thực sự tác động một cách toàn diện và sâu
sắc trên mọi lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của người Việt, từng bước làm thay đổi văn
hóa Việt. Dấu ấn của văn hố Pháp ở Việt Nam là những điều tốt đẹp, tích cực, làm phong phú
thêm chính văn hố dân tộc chúng ta. Có những di sản phi vật thể như chữ Quốc ngữ mà chúng
ta đang dùng ngày nay có một phần văn hố của phương Tây nói chung và người Pháp. Hiện
nay, Tiếng Việt cũng có 1 số lượng khơng nhỏ từ mượn Tiếng Pháp: Nhà ga, xúc-xích,trứng
ốp-lết, áo vét, găng tay... Nhu cầu xây dựng các cơng trình cơng cộng và nhà ở cho người Pháp
đã khai sinh ngành công nghiệp xây dựng ở Việt Nam và để lại những cơng trình kiến trúc độc
đáo, một di sản chung cho cả hai quốc gia. Chúng ta có thể thấy Chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức
Bà, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Phủ Chủ Tịch, Nhà Thờ Lớn Hà Nội, Ngồi ra cịn có các cơng
trình như trụ sở Bộ Ngoại giao, đường Trần Phú, bệnh viện Xanh Pôn, thư viện quốc gia, chợ
Đồng Xuân… Đây đều là những công trình đẹp, tiêu biểu cho phong cách Pháp ở Việt Nam.
Các thể chế nghệ thuật khác như nhà hát Opera Hà Nội, Opera Saigon, Opera Hải Phòng, rạp
chiếu phim Cinema Palace (nay là rạp Công Nhân),… và tiếp tục tồn tại tới ngày nay. Văn hóa
ẩm thực Pháp cịn thẩm thấu mạnh mẽ vào xã hội Việt Nam để những thói quen mới được hình
thành như uống cà phê, rượu vang, bánh mì, pa tê, các món trứng và thói quen dùng dao, nĩa.


Có thể nói kể từ khi du nhập vào Việt Nam, văn hóa Pháp có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa
Việt xưa và nay.
Cuộc tiếp xúc và giao lưu với văn hóa Mỹ và phương Tây diễn ra từ 1954 đến 1975 diễn ra ở
miền Nam là hệ quả tất yếu của cuộc chiến tranh xâm lược của để quốc Mỹ; theo đó, nền kinh
tế, văn hóa, xã hội ở miền Nam phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Người Mỹ rất coi
trọng tính tự lập và cá tính bản thân. Chính vì vậy nét văn hóa này có ảnh hưởng rất lớn tới

Việt Nam. Người Việt vốn là nước phong kiến trước đây giá trị con người giữa nam và nữ có
sự khác biệt vơ cùng lớn. Tuy nhiên, cùng với sự hòa nhập phát triển văn hóa người Việt hiện
nay có sự thay đổi vơ cùng lớn. Đó là đề cao giá trị con người, sự bình đẳng khơng phân biệt,
giới tính, dân tộc vùng miền… Sự xuất hiện rất nhiều món ăn ngon từ Mỹ tại Việt Nam khơng
cịn xa lạ hiện nay. Đây chính là ảnh hưởng lớn văn hóa ẩm thực của Mỹ tới Việt Nam rõ nhất.
Ngồi món ăn truyền thống người Việt có cơ hội thưởng thức món ăn khối khẩu của Mỹ tại
Việt Nam như bánh pizza, hotdog, sườn nướng, thịt xơng khói, các món tráng miệng và các
loại súp… Tuy vậy, có thể nói, 30 năm có mặt của chủ nghĩa thực dân mới (Mỹ) ở miền Nam
Việt Nam, có mặt trực tiếp của đơng đảo binh lính Mỹ với văn hóa Mỹ, lối sống Mỹ nhưng
riêng về văn học Mỹ ở miền Nam khơng có vị trí to lớn như các nền văn học Pháp và văn học
Trung Quốc (cũng là điều hơi lạ). Ngoại trừ sách bán chạy (Best Seller Books) sách giải trí,
sách tình dục và vụ án, văn học Mỹ chỉ có thể lọt được vào địa bàn này vài tên tuổi như W.
Faulkner, E. Hemingway, J. Dos, Passos… nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức giới thiệu sơ lược.
Ảnh hưởng của văn hoá Mỹ ở miền Nam Việt Nam chủ yếu là âm nhạc, điện ảnh, lối sống,
trang phục của các phong trào Hippies với những mặt tiêu cực là sa đọa, hưởng lạc và ma túy,
mại dâm…
Cuộc giao lưu văn hóa với các nước XHCN Đông Âu diễn ra ở miền Bắc XHCN, đây là cuộc
giao lưu văn hóa với tính chất chủ động, thông qua con đường hợp tác, giúp đỡ, trao đổi kinh
tế, văn hóa, giáo dục, khoa học (gửi sinh viên và cán bộ đi học ở nước ngoài; chun gia nước
ngồi sang giúp Việt Nam). Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Nga khá mạnh mẽ,
tuy mỗi giai đoạn lịch sử có sự tiếp nhận theo những xu hướng khác nhau. Sự giao lưu này diễn
ra ở nhiều lĩnh vực với các hình thức và nội dung đa dạng: văn học, điện ảnh, sân khấu, mỹ
thuật, giáo dục, đào tạo, xuất bản,… Sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Nga đã có ảnh
hưởng không nhỏ đến thế giới tinh thần và phong cách sáng tác của các văn nghệ sĩ Việt Nam.
Nhiều nhà lý luận văn học, văn hoá học, nghệ thuật học của Việt Nam cũng tiếp nhận được
những bài học quý báu từ các nhà khoa học lớn của Nga và Liên Xơ cũ. Bên cạnh những ảnh
hưởng tích cực là chủ yếu, cuộc tiếp xúc này cũng không tránh khỏi để lại một số dấu ấn tiêu
cực. Mơ hình quan liêu bao cấp đã đưa đến những hậu quả không chỉ trong kinh tế, mà cả trong
khoa học, giáo dục, đào tạo và văn hoá nghệ thuật của Liên Xơ. Sự đề cao vai trị độc tơn của
hệ tư tưởng, những hạn chế của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng

lối mòn của những môtip, đề tài chiến tranh, xu hướng minh họa đường lối, tơ hồng hiện thực,
xu hướng chính trị hố văn hoá - nghệ thuật, sự vi phạm nguyên tắc dân chủ trong hoạt động


sáng tạo,... cũng đã làm giới hạn tự do tư tưởng và tự do sáng tác của giới văn nghệ sĩ. Và điều
đó cũng đã tác động khơng nhỏ đến văn hóa Việt Nam.
Theo nhận xét của nhà nghiên cứu Hoài Thanh: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn
nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ". Tác động của sự kiện này đã khiến cho “Cả
nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay". Chính “cuộc biến thiên lớn nhất" của lịch sử này
đã tất yếu dẫn đến sự thay đổi có tính bước ngoặt của văn hóa Việt Nam, khi nó vượt ra khỏi
giới hạn của phạm trù văn hóa truyền thống phương Đông nông nghiệp, để bắt đầu cuộc hội
nhập với nền văn hóa và văn minh cơng nghiệp phương Tây.
Câu 12. Anh hay chí hãy phân tích văn hố Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố và ảnh
hưởng của nó đến ứng xử của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Sau 1975, hai miền thống nhất, xã hội Việt Nam được qui về một mối, giao lưu văn hóa được
mở rộng. Qúa trình hội nhập giữa Việt Nam với thế giới đã khẳng định thái độ của Việt Nam là
nhận tồn cầu hóa từng bước: tham gia hiệp hội các nước Đông Nam Á (khối ASEAN), diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Thông qua các tổ chức quốc tế và khu vực này, nước ta đã chủ động tạo quan hệ
để liên kết các giá trị khu vực, từng bước hội nhập thế giới. Văn hóa trong bối cảnh tồn cầu
hóa góp phần kích thích sự cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, làm tang tốc độ
phát triển kinh tế, tăng mức sống của cư dân, rút ngắn thời gian để theo kịp sự phát triển của
thế giới nhờ việc áp dụng kinh nghiệm và khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời
qua giao lưu văn hóa với thế giới, nền văn hóa truyền thống Việt Nam sẽ được bổ sung, làm
giàu thêm bởi những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại. Về văn hóa vật chất, tồn cầu hóa
góp phần kích thích sự cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, làm tăng tốc độ
phát triển kinh tế, tăng mức sống của cư dân, rút ngắn thời gian để theo kịp sự phát triển của
thế giới nhờ việc áp dụng kinh nghiệm và khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Về văn
hóa tinh thần, trong giao lưu tồn cầu hóa, cư dân văn hóa nơng nghiệp lúa nước Việt Nam
đưoc tiếp xúc với các nền văn hóa phong phú, có điều kiện để hưởng thụ các sản phẩm văn hóa

da dạng của nhân loại. Tạo ra môi trường để co xát giữa văn hóa truyền thơng với những giá trị
văn hóa mới của nhân loại, đó là con đường để đào thải những đặc trung văn hóa dân tộc đã trở
nên lỗi thời, khơng cịn phù hợp với thời hiện đại. Tuy nhiên, tồn cầu hóa với nền kinh tế thị
trường cạnh tranh lạnh lung vì lợi nhuận đang dẫn tới nguy cơ làm xói mịn những gia trị
truyền thống của dân tộc (lối sống trọng tình, sự bên vững của gia đình và tính ổn dịnh của xã
hội...). Tồn cầu hóa kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thu các gia trị vật chất, theo đó là văn hóa
tiêu dùng, văn hóa hưởng thụ, là khát vọng làm giàu, lối sống ăn chơi sa đọa, bạo lực, thực
dụng, tác động đến lối sống giản dị, cần kiệm của người Việt Nam truyền thống. Tính cộng
đồng như một giá trị tốt đẹp của văn hóa làng xã đang chịu thử thách mạnh mẽ trước làn sóng
đơ thị hóa. Các quan hệ gia đình lỏng lẻo dân, có sự phân hóa trong tư duy, lối sống, cách ứng
xử giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư, các thế hệ. Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa Việt


Nam đang ở buổi giao thời, khi các giá trị truyền thống đang bị khủng hoàng, nhiều cái cũ đã tỏ
ra lỗi thời, trong khi cái mới đuoc du nhập ồ ạt mà chưa được thẩm định bởi thời gian nên chua
định hình những chuẩn mực mới. Do đó sẽ không tránh khỏi những hiện tượng xô bo, đan xen
về văn hóa, trong đó tốt - xấu lẫn lộn, tệ nạn xã hội lan tràn, kiểm sốt, thậm chí có lúc, có nơi,
cái xấu nổi trơi. lấn át cải tốt. Đặc biệt, đối với tầng lớp thanh niên luôn vồ vập với cái mới thì
càng khó định vị một chuẩn mực sống cho phủ hợp, cũng những nguyên nhân trực tiếp đë ra
các loại tội phạm trong thanh niên - một thực trạng đáng báo động hiện nay.
Trong giao lưu hội nhập tồn cầu hóa, giới trẻ có ý thức hơn về quyền và nghĩa vụ học tập sẽ
vào học trong các ngành nghề đáp ứng dần với thị trường lao động trong nước và quốc tế. Giới
trẻ có quan điểm thực tế hơn đối với việc chọn bậc đại học. Từ đó dẫn tới tỷ lệ thanh niên đăng
ký theo học các trường nghề và các trường trung học chuyên nghiệp tăng lên đáng kể. Giới trẻ
ý thức đầy đủ hơn và tích cực tham gia vào xây dựng xã hội học tập; nhiều người sẽ thực hiện
phương châm: ở đâu, làm gì, thời gian nào, cũng học tập và học tập thường xuyên, suốt đời. Số
giới trẻ đi du học nước ngoài tăng nhanh, nhất là thanh niên đi du học tự túc; số thanh niên tự
tìm kiếm học bổng đi du học nước ngoài tăng lên đáng kể. Giới trẻ mong muốn Nhà nước có
các chính sách khuyến khích thanh niên học tập nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề;
mong muốn được đào tạo trong môi trường học tập thân thiện và chất lượng đào tạo cao. Khả

năng trí tuệ của giới trẻ, năng lực tự chủ và tính năng động của giới trẻ có bước phát triển đáng
kể. Bộ phận thanh thiếu niên tiên tiến có quyết tâm cao, hồi bão lớn và ln phấn đấu cống
hiến cho đất nước sẽ ngày càng đông đảo. Nhận thức chính trị của giới trẻ được tăng cường là
động lực tinh thần quan trọng để phát huy tính xung kích, tinh thần tình nguyện của đa số thanh
niên Việt Nam trong thời gian tới. Tỷ lệ giới trẻ tích cực phấn đấu gia nhập tổ chức Đồn,
Đảng có xu hướng tăng. Ngịai ảnh hưởng của thế hệ “cha chú” trong cộng đồng gia đình hay
quốc gia - dân tộc, trong thời đại tịan cầu hóa, giới trẻ cịn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
văn hóa, tri thức, kinh nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng đồng và cá nhân khác trên thế
giới. Với tất cả những điều kiện đó, thanh niên thường có xu hướng thử nghiệm nhiều khả
năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho những thử nghiệm đó,
vì đối với họ, dù có phạm sai lầm vẫn có thời cơ làm lại, thử nghiệm lại. Và vì vậy, phần đơng
giới trẻ thường có xu hướng hoài nghi, kiểm chứng lại những lựa chọn, chế định và quan niệm
của thế hệ đi trước, thậm chí cố tình phủ nhận, làm khác, coi đó như một phương thức để khẳng
định tư cách “người lớn” của mình. Đó là nguyên nhân thường dẫn đến những “lệch chuẩn”
trong ứng xử văn hóa của giới trẻ. Khi những thử nghiệm bị thất bại, những “lệch chuẩn” bị lên
án thì thanh niên sẽ rơi vào tình trạng bi quan, chán nản, phản kháng và thậm chí là phạm tội.
Trong một vài thập kỷ gần đây, những lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc
đã xuất hiện trong đời sống xã hội, từ thành phố cho đến những vùng nông thôn. Một bộ phận
lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống bng thả, quay lưng lại với văn hóa, giá trị đạo đức truyền
thống. Họ khơng thích hoặc thờ ơ với các bản nhạc, bài ca cách mạng, khơng quan tâm đến các
hình thức nghệ thuật, các dòng dân ca truyền thống; trái lại, tán dương và cổ vũ cho những bài



×