Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học, kế thừa tư tưởng “pháp trị” của trường phái pháp gia trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.11 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Triết học Trung Quốc cổ đại nảy sinh trong một thời kỳ xã hội đặc biệt:
Xuân thu – Chiến quốc, thời kỳ đánh dấu bước chuyển quan trọng từ chế độ chiếm
hữu nô lệ sang chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Chính thời đại lịch sử xã
hội đặc biệt này đã tạo tiền đề cho sự nảy sinh, phát triển phong phú và vô cùng rực
rỡ của các trường phái triết học khác nhau. Với tư cách là một hình thái ý thức xã
hội, sự phát sinh, phát triển của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại luôn là tấm
gương phản chiếu sự biến đổi của đời sống xã hội.
Để giải đáp được nhiệm vụ xã hội “Từ gia, trị quốc, bình thiên hạ”, hàng loạt
trường phái triết học đã xuất hiện. Về thực chât, tư tưởng của mỗi trường phái triết
học đều nói lên tiếng nói của mỗi một tầng lớp. Song trong thời Xuân thu – Chiến
quốc, chỉ có một học thuyết được vua chúa áp dụng và đem lại kết quả nhanh
chóng trong việc thống nhất Trung Quốc - đó là học thuyết pháp trị của trường phái
Pháp gia.
Tư tưởng Pháp trị của trường phái Pháp gia chủ yếu dùng pháp luật để trị
nước. Vậy trong muôn sắc hình của thời gian và khơng gian, luật pháp đã có một
bộ mặt thiên hình vạn trạng. Qua các sắc thái vơ cùng chuyển biến ấy có một tiêu
chuẩn căn bản nào hướng dẫn các luật gia trong nhân loại không?
Khác với những hành vi cô lập và độc đốn, luật pháp phải kết tinh những sự
cố gắn khơng ngừng của quyền lập pháp để thực hiện lý tưởng công bằng trong
nhân loại và đảm bảo trật tự an ninh trong xã hội. Thực hiện sứ mệnh này các nhà
tư tưởng ở Phương Đông lúc bấy giờ rong ruổi trên con đường nêucoa quan điểm
khác nhau về pháp luật.
Vẫn biết rằng, xã hội chỉ có thể sinh hoạt trong vòng trật tự, song ở đây, trật
tự được thiết lập và duy trì khơng phải hồn tồn do ngoại cảnh của pháp luật. Xã
hội Trung Quốc lúc đầu theo giáo lý của Khổng Tử đã đi tìm giải pháp ở mỗi cá
nhân một kỷ luật cao thượng bắt nguồn ở sự rèn luyện tâm linh, lấy việc tu thân
làm gốc. Đến Tuân Tử thì kết hợp “Lễ trị với luật” để trị nước, ông cho rằng pháp
1



luật là “cái giá của thiên hạ” ngăn cấm điều bạo ngược và ngăn chặn điều xấu xa
xảy ra. Tư tưởng này như là một bước quá độ từ tư tưởng nhân, lễ, trị của Khổng,
Mạnh và tư tưởng Pháp trị sau này.
Lúc đầu là Quản Trọng và Tử Sản, sau đó tư tưởng Pháp trị được phát triển
lên mộtbước bởi Tương Ưởng. Cuối cùng là Hàn Phi Tử đã phát triển lên đỉnh cao
và coi pháp luật là cơ sở duy nhất để quản lý xã hội, pháp luật thay đổi theo thời
cuộc “thời biến, pháp biến”.
Nhìn chung, tư tưởng về Pháp trị đã được các thời đại phong kiến áp dụng.
Đồng thời, trong giai đoạn hiện nay, tư tưởng Pháp trị cịn có ý nghĩa trong việc
xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề Nhà nước pháp quyền và các đặc trưng của nó đã được rất nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Song vấn đề nghiên cứu được quan tâm ở nhiều góc độ khác
nhau. Chính vì vậy, tơi mạnh dạn chọn đề tài “kế thừa tư tưởng “pháp trị” của
trường phái pháp gia trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện
nay”.
3. Mục đích nghiên cứu.
Xuất phát từ nghiên cứu tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử để chỉ
ra những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền. TRên cơ sở đó thấy được
việc kế thừa tư tưởng pháp trị của trường phái pháp gia như thế nào để phù hợp với
yêu cầu của xã hội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Xuất phát từ mục tiêu đó, đề tài nghiên cứu phải nêu được:
+ Những tư tưởng của trường phái pháp gia.
+ Những giá trị của tư tưởng pháp trị đối với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
+ Nghiên cứu các tài liệu.
2



+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…
6. Kết cấu tiểu luận.
Mục lục
Mở đầu
Chương I: Học thuyết pháp trị của trường phái pháp gia.
1. Sự ra đời của học thuyết.
2. Nội dung học thuyết pháp trị của trường pháp pháp gia.
Chương II: Kế thừa tư tưởng pháp trị của Hàn Phih trong quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
1. Lý luận chung về Nhà nước pháp quyền.
1.1. Quan điểm của Mác, Ăngghen và Lênin về Nhà nước pháp
quyền.
1.2. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền.
2. Những giá trị góp phần hồn thiện việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kết luận

3


Chương I
HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ CỦA TRƯỜNG PHÁI PHÁP GIA
1. Vài nét về sự ra đời của học thuyết.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ của Trung Quốc cổ đại, các trường phái chính
trị xã hội khác nhau đấu tranh quyết liệt xung quanh vấn đề Nhà nước, trị nước, an
dân bằng cách nào. Nhìn chung họ muốn tìm những hình thức cai trị xã hội một
cách thật hữu hiệu, dùng pháp luật hay đạo đức, lễ, nhạc.v.v…
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập, lúc đầu chủ trương “nhân trị, lễ trị” hồn

tồn, nhưng về sau phải tìm kiếm yếu tố thích hợp của tư tưởng pháp trị. Bởi, chủ
nghĩa nhân trị do phái Nho giáo lấy chủ trương lấy sự tu thân làm gốc. Nhưng sự
thực giữa các Nho giáo cũng có sự sai lệch về học thuyết.
Noi theo Khổng Tử, Mạnh Tử tin tưởng là bản tính con người do trời phú
vốn thiện vì trời là chí cơng chí chính. Sở dĩ ta làm việc bất thiện chỉ vì vật dục làm
mờ đi cái bản tính tốt ấy.
Song, chỉ cách vài trăm năm sau, Tuân Tử đã khởi xướng lên một nguyên
tắc hoàn toàn đối lập. Tuân Tử cho rằng, bản tính con người vốn là ác. Chính vì
vậy, mà ta phải tìm cách uốn nắn tính ấy cho phù hợp với đạo để làm điều thiện.
Nhưng để thực hiện được nhiệm vụ này, Tuân Tử vẫn không đi ngoài con đường
cổ truyền của Khổng – Giáo là lễ và nhạc.
Với học thuyết của Tuân Tử ta nhận thấy rõ cơ sở của nhân trị đã bị lay
chuyển. Vì một khi đã xem bản tính con người là ác, tất một ngày kia người ta sẽ
cho sức kiềm chế của lễ nhạc khơng cịn đủ sức để uốn nắn cái bản tính vốn là ác
đó nữa. Khi người ta thấy việc là cần phải đi xa hơn và phải tích cực dùng tới hình
pháp để ép con người quay về chính đạo. Đến giai đoạn này “nhân trị” buộc phải
nhường chỗ cho “pháp trị”.
Pháp gia là một học thuyết chính trị xã hội lớn, đã xuất hiện vào thế kỷ V
trước cơng ngun và đồng thời nó có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng trong lịch sử

4


Trung Quốc. Ở mọi thời đại, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều lấy tư tưởng Pháp gia
làm nền tảng kiểu cai trị của Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền.
Vào thời Xuân thu – Chiến Quốc, xã hội phong kiến bị chia cắt, đó cũng là
thời kỳ phong kiến hố cơ sở hạ tầng. Cho nên nó u cầu phải lập nên kiến trúc
thượng tầng trung ương. Học thuyết Pháp gia ra đời cũng chính giải quyết vấn đề là
đáp ứng yêu cầu về mặt xã hội lúc bấy giờ.
Lúc đầu, đại diện cho tư tưởng “Pháp trị” là Quản Trọng (683 – 640 TCN)

và kế đến là Tử Sản (khoảng 322 TCN), họ chủ trương tư tưởng là phải trọng vua,
vì vua là người đặt ra pháp luật. Pháp luật ban hành phải phù hợp với lợi ích của
nhân dân và mọi người đều phải tuân thủ pháp luật kể cả ông vua.
Tư tưởng pháp trị được phát triển lên một bước mới bởi Thương Ửơng
(khoảng 347 TCN), ông cho rằng, trị nước phải dựa trên 03 yếu tố đó là:
+ Thứ nhất là: pháp luật;
+ Thứ hai là: quyền lực;
+ Thứ ba là: lòng tin của nhân dân.
Sau đó, tư tưởng “pháp trị” của trường phái pháp gia đã được Hàn Phi Tử
(280 – 233 TCN) phát triển lên đỉnh cao của nó. Ơng coi pháp luật là cơ sở duy
nhất để thực hiện việc quản lý xã hội. Đồng thời, ơng cịn cho rằng, pháp luật thay
đổi theo thời cuộc “thời biến pháp biến”.
Nội dung chủ yếu của tư tưởng là thừa nhận quyền bình đẳng của các tầng
lớp địa chủ, phong kiến trước pháp luật; pháp luật là công cụ trị nước an dân và là
tiền đề cho việc xây dựng chế độ phong kiến vững mạnh.
Giá trị hiện thực của tư tưởng pháp trị là giúp Tần Thuỷ Hoàng thu giang
sơn về một mối, thiết lập chế độ phong kiến Trung ương tập quyền. Song, nhà Tần
chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, điều đó khơng phải là sự sai lầm của học
thuyết mà là do tính chất cực đoan và tàn bạo của kẻ cầm quyền lúc bấy giờ.
Nhìn chung, xuyên suốt toàn bộ tư tưởng pháp trị cho đến giai đoạn hiện nay
nổi bật là tác phẩm “Hàn Phi Tử” thể hiện những tư tưởng cốt lõi của Pháp gia. Nội
dung tư tưởng chủ yếu của các tác phẩm là bàn về cách xây dựng Nhà nước phong
5


kiến tập quyền mạnh, thống nhất quốc gia về lãnh thổ, pháp luật và cai trị. Họ đề
cao tư tưởng bá chủ, bá đạo là con đường bá chủ, bàn về những biện pháp, chính
sách cai trị để Nhà nước phong kiến có đủ sức mạnh để thống nhất thiên hạ.
Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân loại đã cho thấy tất cả những học thuyết
khoa học khác nhau đều được ra đời từ chính hiện thực của đời sống xã hội và trải

qua quá trình phát triển lâu dài, với nấc thang tư tưởng từ thấp lên cao, từ những
tiền đề đơn giản đầu tiên để trở thành một nấc thang hoàn chỉnh. Như vậy, tư tưởng
“pháp trị” của trường phái pháp gia, mà suy cho đến cùng là tư tưởng pháp trị của
Hàn Phi đã được áp dụng trong thời đại phong kiến. Với thời đại của chúng ta thì tư
tưởng pháp trị có ý nghĩa trong việc vận dụng để xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Nội dung học thuyết pháp trị của trường phái Pháp gia.
Tư tưởng về hình pháp xuất hiện rất sớm trong xã hội Trung Quốc cồ đại.
Trong thời kỳ đầu của nhà Chu, người ta dùng hai phương pháp trị dân áp dụng cho
hai tầng lớp xã hội: một là lễ áp dụng cho cách cư xử của tầng lớp quý tộc; hai là
hình chỉ áp dụng cho tầng lớp thứ dân theo nguyên tắc Hình không lên tới đại hu,
lễ không xuống đến thứ dân. Việc sử dụng pháp luật là quyền của quý tộc, dân chỉ
biết tuân theo. Cách cai trị đó tất yếu dẫn đến sự hủ bại của tầng lớp thống trị, dân
ốn, nước suy. Trong tình hình ấy, việc xây dựng nước giàu, binh mạnh để thơn
tính các nước khác, để xưng bá trở thành yêu cầu và mục đích chính trị của nhiều
quốc gia, nhiều nhà tư tưởng. Muốn nước giàu binh mạnh thì phải đề cao pháp luật,
đề cao người sản xuất và chiến đấu, tước bớt đặc quyền của tầng lớp quý tộc,
không chấp nhận một lớp người sử dụng pháp luật mà không bị pháp luật chi phối
và một lớp người luôn là đối tượng bị pháp luật hạn chế mà không được pháp luật
bảo vệ. Quản TRọng, tướng quốc nước Tề dưới thời Tề Hồn cơng – người có
cơng giúp vua Tề thành bá chủ đầu tiên đã có tư tưởng đề cao pháp luật, dùng pháp
luật để trị nước. Ông thực hiện chỉnh đốn thuế khoá, bỏ chế độ Tỉnh điền và thay
bằn việc định mức huế, tích trữ hàng hố để cung cấp cho xã hội khi thiếu hụt.

6


Bằng các biện pháp đó, Quản Trọng đã hồn mâu thuẫn trong nước, tranh được
nhiều quyền lợi bên ngoài và làm cho nước Tề mạnh lên.
Tiếp đó, đến thế kỷ thứ VI TCN, Tử Sản, một chính khách của nước Trịnh

đã đặt Hình thư cơng bố trong cả nước. Tử Sản cải cách ở Trịnh với các nội dung:
quy tụ quyền sở hữu ruộng đất và tập trung binh lực vũ khí về chính phủ trung
ương, ban bố luật thống nhất về hình phạt… qua đó đã nâng cao sức sản xuất và
quyền lực của Nhà nước.
Những đại biểu đầu tiên của phái pháp trị như Quản Trọng, Tử Sản hay Ngô
Khởi, Lý Khôi sau này mới chỉ chú trọng đến yếu tố pháp luật, chủ trương dùng
pháp luật để cai trị đất nước thay lễ nghĩa nhưng chưa thực sự đoạn tuyệt với đạo
đức.
Thứ hai: Tư tưởng pháp trị phát triển cùng với sự hình thành trường phái
pháp gia với các học phái Thuật, Thế, Pháp.
Đến thời Chiến quốc, những người theo tư tưởng pháp trị đã tập hợp thành
một trường phái (pháp gia). Họ không chỉ chủ trương dùng pháp luật để cai trị mà
còn kết hợp với những phương tiện khác để trị nước. Đồng thời trong tư tưởng của
các pháp gia, chính trị đã thực sự ly khai với đạo đức, do đó vai trị của pháp luật
tiếp tục được khẳng định và đề cao hơn. Sự khác nhau trong chủ trương lựa chọn
phương tiện kết hợp với pháp luật của các pháp gia đã hình thành nên ba khuynh
hướng tư tưởng đề cao Thế (của Thận Đáo), Pháp luật (của Thương Ưởng) và
Thuật cai trị (của Thân Bất Hại).
Thân Bất Hại (401-337 TCN) là thừa tướng của nước Hán dưới thời vua
Hàn Chiêu hầu. Khác với các pháp gia trước đây ít nhiều cịn tơn trọng đạo đức
chưa thực sự tách khỏi quĩ đạo của nho gia, thì Thân Bất Hại mới là người chính
thức cho chính trị ly khai đạo đức. Xuất phát từ lập trường của một địa chủ mới
kiêm thương nhân, khi tham chỉnh ông cực lực phản đối chế độ danh phận đẳng
cấp và cách cai trị chỉ dựa vào lợi ích. Ông đè nghị Chiêu dùng quyền thuật để điều
khiển hạ thần, nên Hàn có quân đội.

7


Mạnh khơng ai dám xâm phạm. Ơng ủng hộ chủ trương dùng pháp để phủ

định thay thế lễ. Tuy nhiên “học thuyết của Thân tử… lấy việc hình danh làm
chủ”, tức là chú trọng và đề cao các thủ pháp cai trị. Thân cho rằng:
Tai, mắt và trí người ta khơng đủ để dựa vào… Vì vậy làm vau thiên hạ,
không thể không xét đến các lễ ấy… Các bậc vua xưa kia, chỉ làm rất ít, nhưng gợi
cho người ta làm thì nhiều. Gợi cho người ta làm đó là thuật của người làm vua…
Thuật tức là phảituỳ tài mà giao chức, theo danh vị mà đòi trách lấy việc thực,
nắm quyền sinh sát, xét tài năng của cả quần thần, đó là cái mà bậc đứng đứng
đầu người ta phải nắm vậy… cai trị thì khơng được vượt q quan chức, tuy biết
mà khơng nói.
Khi đưa ra ngun tắc xét công mà ban tước, tuỳ tài mà giao chức, Thân Bất
Hại đã phủ định đặc quyền thế tập tước vị và chức vụ Nhà nước của giai cấp q
tộc. Vì vậy ơng vấp phải sự chống đối quyết liệt của các quý tộc cũ và chủ trương
cai trị coả ông đã thất bại. Chủ trương dùng pháp luật và thuật cai trị của Thân Bất
Hại là hoàn toàn đúng nhưng chưa đủ, vì nó tiếu một điều kiện để đảm bảo cho
pháp luật có thể thực thi, đó là quyền lực.
Thận Đáo (370-290 TCN), người nước Triệu. Cũng như Thân Bất Hại, ơng
cực lực đả kích chủ trương nhân trị của giai cấp quý tộc cũ và cho rằng phải xây
dựng một nền chính trị dựa trên cơ sở pháp luật, pháp luật là nguyên tắc cao nhất
của chính trị. Ơng nói: “pháp luật khơng hồn hảo cũng cịn hơn khơng có pháp
luật, vì nó có thể thống nhất được lịng người”. Song ơng lại cho rằng tuy pháp luật
là nguyên tắc cao nhất của chính trị nhưng nếu khơng có quyền thế để thi hành thì
pháp luật cũng vơ hiệu. Vì vậy, Thận Đáo hết sức đề cao quyền thế, xem quyền thế
là yếu tố cơ bản nhất của chính trị; quyền thế đặt ra pháp luật và bảo đảm cho pháp
luật được thi hành. Quyền thế được ông hết sức ca ngợi:
Con rồng bay cưỡi mây, con rắn lượn trong sươn mù. Mây tan mù tạnh, thì
con rồng con rắn cũng chẳng khác gì con kiến vì đã mất chỗ dựa vào. Người hiền
mà phải khuất phục trước kẻ hư hỏng, đó là vì quyền mình nhẹ, địa vị mình thấp.
Người hư hỏng mà có khuất phục được người hiền, đó là vì quyền cao, địa vị mình
8



cao. Nghiêu làm kẻ thất phu thì khơng cai quản được ba nhà, cịn Kiệt làm thiên tử
thì có thể làm loạn cả thiên hạ. Ta căn cứ vào đó thì biết cái thế và địa vị đủ để
nhờ cậy, cịn sự khơn ngoan sáng suốt khơng đủ làm cho ta hâm mộ.
Để đảm bảo quyền thế của người cai trị, Tận Đáo chủ trương thiết lập một
Nhà nước tập quyền thống nhất, trong đó quyền lực đều thuộc về nhà vua. Được
phong làm thượng đại phu dưới đời vua Tề Tuyên vương, Thận Đáo mong muốn
thực hiện chủ trương chính trị của mình nhưng do xung đột gay gắt với các quý tộc
cũ trong triều nên ông phải bỏ trốn. Phát hệin và đề cao quyền lực của Thận Đáo là
bước tiến bộ hơn Thân Bất Hại, song ông lại thật lùi hơn Thân Bất Hại ở chỗ chưa
nhìn thấy vai trò của Thuật là cơ sở bảođảm cho quyền lực được bền vững. Do đó,
chủ trương của ơng đưa ra thực hiện bị thất bại là điều không tránh khỏi.
Thương Ưởng (?-338 TCN), tướng quốc nước Tần dưới đờivua Tần Hểu
Cơng lại đề cao pháp luật. Ơng là người khởi xướng tư tưởng về pháp và biến pháp,
đề cao hình pháp nhưng hình pháp cũng phải thay đổi theo thời thế. Trên lập
trường của tầng lớp địa chủ mới, ông cho rằng pháp luật là cái gốc để thiếp lập và
phát triển chế độ mới. Theo ông: “Cai trị một nước có ba điều, một là pháp luật,
hai là lòng tinc ủa dân, ba là quyền lực”. “Điều làm lưọi cho dân trong thiên hạ
khơng gì lớn bằng sự n trị; mà n trị khơng gì tốt bằng lập ra vua. Đạo lập ra
vua khơng gì rộng bằng làm cho pháp luật mạnh”. Để pháp luật được thi hành,
người những yếu tố trên theo ơng cịn phải củng cố bộ máy quan lại thực thi pháp
luật “phải đặt ra pháp quan lo về pháp luật, đặt người chủ trì pháp luật, làm
gương cho thiên hạ”. Trong 10 năm làm tướng quốc cho Tần, Thương Ưởng đã thi
hành chủ trương pháp trị của mình qua 2 cuộc cải cách nhằm thúc đẩy sản xuất,
chống lại những quý tộc phong kiến cũ dựa vào huyết thống lười nhác mà vẫn được
hưởng thụ, tăng cường trung ương tập quyền. Thương Ưởng đã đánh những địn
mạnh nhất vào giai cấp q tộc. Cải cách của ông làm cho các nước Tần giàu mạnh
lên nhưng cuối cùng ông lại trở thành nạn nhân của chủ trương cai trị đó. Chủ
trương của Thương Ưởng về pháp luật có nhiều tiến bộ, song cũng như Thận Đáo,
chỉ dựng lại ở thế và pháp mà chưa chú trọng đến yếu tố thuật trong cai trị. Trong

9


thiên Định pháp, Hàn Phi đã chỉ ra hạn chế cơ bản của Thương Ưởng và các pháp
gia: theo ông, cả pháp và thuật đều là cong cụ của đế vương, khơng thể thiếu một
trong hai cái đó, cũng như ăn với mặc đều cần thiế như nhau đối với cuộc sống con
người.
Chủ trương của các nhóm Thuật – Thế – Pháp là sự phát triển và làm sâu sắc
hơn tư tưởng pháp trị so với Quản Trọng và Tử Sản, qua đó đã nâng tư tưởng pháp
trị lên một trình độ mới cao hơn. Song những tư tưởng của họ mới chỉ là những
quan điểm thuật pháp riêng rẽ về hành xử chính trị – hành chính, vẫn có một hạn
chế căn bản là tính phiến diện, chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Do chưa tạo ra
được cơ sở luận chứng vững chắc, những tư tưởng này chưa vươn đến tầm của một
học thuyết tư tưởng và chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đặt ra.
Hàn Phi (Khoảng 280 – 233 TCN) xuất thân trong một gia đình khá giả ở
nước Hàn. ơng là người có cơng trong thời Xn thu – Chiến Quốc; đó là tư tưởng
về pháp trị hết sức tiêu biểu.
Học thuyết của Hàn Phi chủ yếu bàn về vấn đề chính trị – xã hội mà ít nhiều
bàn đến vấn đề bản thể luận. Tuy nhiên các thiên “Giải Lão”, “Dụ Lão” (tức là giải
thích tư tưởng của Lão Tử trong sách “Lão Tử”), tà cũng phần nào biết được tư
tưởng triết học của ông. Hàn Phi đã kế thừa và phát triển những yếu tố có tính duy
vật về tự nhiên của Lão Tử và Tuân Tử. Ông cho rằng, “đạo” là quy luật phổ biến
của giới tự nhiên về sự hình thành của giới tự nhiên, và nó tồn tại vĩnh hằng không
thay đổi, là cái siêu tự nhiên, là cái “Một” thần bí khó hiểu, “Đức” là cái cơng của
Đạo, là cái bản thân mình hiểu được, sở dĩ hiểu được là vì Đức là cái sâu sắc phổ
biến; cái lý sâu sắc phổ biến là cái “Một” – (đạo) đã phân chia, sự vật đã có hình
dáng cụ thể và biến hố bất thường.
Ơng nói rằng, “Hễ vật có hình thì dễ phân chia. Tại sao nói như vậy? Có
hình thì có ngắn có dài, có dài ngắn thì có lớn nhỏ, có lớn nhỏ thì có trịn vng,
có trịn vng thì có cứng mềm, nặng nhẹ, trắng đen gọi là lý, lý đã định mà vật dễ

chia”. Theo ông, là phải nắm lấy cái “Lý” của vạn vật ln biến hố bất thường
(tức quy luật khách quan) để hành động cho phù hợp.
10


Ông nói rằng, tiết chế là một cái thuật xuất phát từ “đạo” mà phục tùng “Lý”
của mọi sự vật và luôn luôn biến đổi, bất thường, cho nên “không có thử pháp luật
mà nào ln ln đúng”.
Do vậy phải “chứng nghiệm” mà thường xuyên thay đổi cho phù hợp; đồng
thời, ơng xuất phát từ tính ác của Tn Tử, ông cho rằng bản chất con người là tự
tư tự lợi, do vậy phải nắm cái tâm lý “tránh hại hám lợi” của con người mà định ra
pháp luật, hướng thưởng phạt để duy trì trật tự xã hội.
Về vấn đề đạo đức; Hàn Phi còn cho rằng, mọi thứ luân lý đạo đức trong
quan hệ xã hội giữa người với người như là: Trung, tín, Hiếu, nhân.v.v… đều được
xây dựng trên cơ sở tính tốn lợi ích cá nhân. Chẳng hạn, ông cho rằng người cố
nông cày cấy thật tốt trên mảnh ruộng của địa chủ, chủ đối đãi tốt, trả tiền công
hậu, không phải họ xuất phát từ lòng thương yêu lẫn nhau, mà thực chất cả hai bên
đều có tính tốn, quan tâm đến quyền của mình. Ông cũng cho rằng, có người giàu,
người nghèo là do có người chịu lao động và khép tiết kiệm, có người lười biếng và
xa xỉ, do vậy mà hiện tượng người bóc lột người là hiện tượng rất bình thường
trong xã hội.
Nhìn chung, về tư tưởng chính trị – xã hội của Hàn Phi khái quát lại thì Pháp
gia bàn đến 3 vấn đề lớn trong chính sách cai trị xã hội, đó là: trọng pháp, trọng thế,
trọng thuật.
- Tư tưởng trọng Pháp:
Pháp có nghĩa rộng là chế độ chính trị, thể chế quốc gia. Nghĩa hẹp là các
qui định pháp luật của nhà vua. Nội dung chủ yếu của nó là thưởng, phạt (nhị bính)
đấy chính là hai địn bẩy trong tay vua để giữ chính quyền.
Chủ trương “Pháp trị” của Pháp gia xuất phát từ chỗ cho rằng, bản tính con
người vốn tư lợi, chạy theo giàu sang phú q, mưu mơ tính tốn để kiếm lợi cho

mình.
Hàn Phi viết: Cái lợi ở đâu người ta theo đấy để làm, ví như người đóng
quan tài mong cho nhiều người chết để kiếm lợi, người đóng xe mong có nhiều
người giàu sang, bầy tôi đối với vua giống như hươu nai kiếm cỏ, ở đâu có nhiều
11


cỏ thì hươu nai đến đấy. Cho nên khi xét một hành động của ai thì đừng sử dụng
điều nhân nghĩa. vấn đề này thì Pháp gia đối lập hồn tồn với Nho gia. Chính vì
thế mà Hàn Phi cho rằng:
Phải sử dụng pháp luật để trị nước, ngăn chặn việc chạy theo lợi riêng mà
không thiết đến lợi chung, để biến lợi riêng thành lợi chung. Kẻ nào mưu lợi riêng
mà bỏ lợi chung thì phải thẳng tay trừng trị.
Hàn Phi đề cao pháp luật trong việc trị nước, ông cho rằng, nếu bỏ pháp luật
mà dùng tâm để trị nước, thì vua hiền cũng khơng chỉnh đốn được một nước. Ơng
nói: Người thợ mộc giỏi bỏ cái qui, cái cũ thì khơng làm nổ một bánh xe. Người
giỏi tính tốn, nếu bỏ thước tất mà đốn dài ngắn thì biết đâu là điểm giữa. Cho
nên, làm vua phải giữ pháp luật như người thợ giữ cái qui cái cũ, như người giỏi
tính tốn giữ cái tấc, cái thước thì vạn điều khơng sai.
Pháp luật là qui tắc, là chuẩn mực để mọi người tuân theo, như cái cân, cái
thước của người thợ. Cho nên pháp luật phải chính xác rõ ràng, tường tận để người
dân nghe, hiểu và tuân theo, không lợi dụng kẽ hở để tuỳ tiện làm sai.
Thưởng phạt cơng minh để khơng ai suy bì, ai ai cũng nể sợ, không chừa ai,
quan lại sai cũng xử như thứ dân. Hàn Phi viết: Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại
thần, thưởng cái đúng không bỏ xót kẻ thất phu.
Thưởng phạt là phải căn cứ vào 3 việc: lời nói, việc làm, kết quả cơng việc.
Nghĩa là, phải căn cứ vào mục đích, động cơ và kết quả của công việc như
thế nào để mà thưởng phạt.
Phát gia còn cho rằng, xác lập pháp luật cịn phải tn theo thời thế, khơng
nệ cổ, dựa hồn toàn vào những điều của người xưa để lại.

Pháp gia cịn cho rằng, lấy chiến tranh để thơn tính láng giềng, thống nhất
thiên hạ. Song, Hàn Phi cho rằng, làm như thế là lấy chiến tranh để bỏ chiến tranh,
lấy chết chóc để bỏ chết chóc.
Tóm lại, Pháp gia đề cao pháp luật, lấy pháp luật để cai trị đất nước, đồng
thời, bên cạnh đó họ cịn chủ trương phản trị của Nho giáo. Mặc dù, trong quan

12


điểm pháp trị có điểm hợp lý, song chúng ta cho rằng, để cai trị đất nước vừa phải
dùng đạo đức để giáo dục dân chúng, nhưng mặt khác phải coi trọng pháp luật.
- Tư tưởng trọng thế:
Thế là địa vị quyền lực của nhà vua (thế quyền). Thế là chỗ dựa của kẻ cầm
quyền, là quyền sinh, quyền sát, thưởng phạt, người cầm quyền sử dụng chúng để
cai trị xã hội. Ngồi ra thế cịn có nghĩa là sức mạnh của dân, của nước, xu thế thời
đại (thời thế, thời vận).
Pháp gia cho rằng, muốn trị nước phải có thế. Cai trị phải dựa vào pháp luật,
quyền thế. Hàn Phi cho rằng, vua Nghiêu, Vua Thuấn không trị được nước vì ơng
là dân thường, khơng biết dùng thế để cai trị. Vua Kiệt trị được thiên hạ vì ơng ta
phải thâm tóm quyền lực: độc thị, độc thính, độ đốn.
Pháp gia cịn phê phán Nho giáo là theo pháp cổ, họ cho rằng nếu theo pháp
cổ thì lạc hậu, nhưng nếu theo thời nay thì bị ràng buộc, cho nên họ chủ trương
biến pháp: thế sự biến, hành đạo dị – thời thế thay đổi, hành động phải khác, đừng
để cho thế bị ràng buộc. Hàn Phi nêu chủ trương biến pháp trên quan điểm tiến hoá
trong sự phát triển xã hội mà ông đã kế thừa tư tưởng của Thương Ửơng.
Hàn Phi cho rằng, thời thượng cổ canh ư đạo dứ – người thượng cổ lấy cành
cây làm tổ, ăn hoa quả, mặc do cầm thú, đua tranh xem ai làm việc thiên nhiều hơn,
đạo đức, phẩm hạnh được đề cao. Trung thế ư thế mưu – thời trung đại thì chạy
theo trí tuệ, Cổn Vũ trị thuỷ, sự khơn ngoan trí tuệ chiếm ưu thế. Đương kim tranh
ư khí lực – thời hiện đại trong quan hệ giữa người với người trở nên gay gắt, người

ta tranh giành nhau bằng con đường sức mạnh. Cho nên phép trị nước phải hợp
thời thế. Thời Hạ mà dùng dùi lấy lửa thì khơng được… thời nay mà làm theo lễ
nhà Chu thì khơng được. Vì vậy dối với thời nay, phải dùng pháp luật để xử thế.
- Tư tưởng trọng thuật:
Thuật là cách thức, là phương pháp, mưu lược, thủ đoạn của kẻ cầm quyền
trong việc tuyển người, dùng người và xét đoán sự việc.

13


Pháp gia cịn cho rằng, nếu có thời cơ, có pháp luật, mà khơng có thuật trị
nước (phương pháp) thì chưa đủ. Đa mưu túc trí mới điều khiển được quân thần,
mới thâu tóm được thiên hạ.
Hàn Phi đã phát triển quan điểm vô vi của Lão Tử thành thuật trị nước và
đầy mưu mẹo. Hàn Phi ra sức đề cao tính năng động chủ quant hơng qua pháp, thế,
thuật,chủ trương khai thác tính ham lợi tránh hại bằng thưởng - phạt; dùng thuật để
che đậy mưu mô thủ đoạn nhưng lại được biểu lộ ra bằng vẻ tự nhên không xúc
cảm.
Thực chất vô vi của Hàn Phi lại là cực hữu vi, tức là đề cao sự can thiệp
bằng hoạt động của con người trong đời sống xã hội.
Hàn Phi chủ trương coi trọng cả 3 yếu tố Pháp, thế, thuật, coi đó là sự thống
nhất khơng thể tách rời vì chúng phải dựa vào nhau vừa tồn tại vừa phát huy sức
thuyết phục của pháp luật.
Hàn Phi xem pháp là nội dung chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ,
thế là cơng cụ, phương tiện; cịn thuật là phương pháp, cách thức để thực hiện nội
dung của chính sách cai trị. Tựu trung lại cả ba yếu tố chính là cơng cụ của đế
vương.
Chính vì vậy mà, đối với bậc vua chúa thì khơng thể lường được như trời,
dùng người thì kín đáo như quỹ. Trời thì khơng thể chê bai, quỷ thì khơng thể nguy
khốn. Cái thế được thi hành, việc giáo dục nghiêm thì dù nghĩ khác cũng không

làm trái lại, việc khen chê thống nhất mà người ta khơng bàn tán.
Nhìn chung, tư tưởng chính trị, đạo đức của Hàn Phi về cơ bản là tư tưởng
tiến bộ so với yêu cầu của lịch sử lúc bấy giờ. Sau khi ông mất, học thuyết chính trị
của Hàn Phi được nhà Tần hết sức đề cao, trở thành thứ vũ khí lý luận quan trọng
đưa nhà Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán, thống nhất đất
nước.
Tư tưởng của Hàn Phi có mặt tích cực là được các thời đại phong kiến sử
dụng. Với chúng ta, tư tưởng Pháp gia cịn có ý nghĩa trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
14


Chương II
KẾ THỪA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA TRƯỜNG PHÁI
PHÁP GIA TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Lý luận chung về Nhà nước pháp quyền.
1.1. Quan điểm của mác, Ăngghen, Lênin về Nhà nước pháp quyền.
Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử các ông đã
khẳng định nguồn gốc sâu sa của Nhà nước từ nguyên nhân kinh tế. Từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất, sự xuất hiện của chế độ tư hữu và phân hố giai cấp ở
giai đoạn cuối thời cơng xã nguyên thuỷ đã làm cho Nhà nước xuất hiện. Chính vấn
đề này mà đã làm suy sụp đổ quan điểm về Nhà nước của Heghen cho rằng: Nhà
nước quân chủ phổ là thể hiện bản chất chung của Nhà nước và sự phát triển cao
nhất của xã hội. Nhà nước là thực thể tối cao và xã hội công dân là sự tha hoá của
Nhà nước. Riêng đối với các nhà lý luận mácxít, Nhà nước khơng phải là do sự
phát triển chung của tinh thần nhân loại, mà đó chính là bắt nguồn từ những điều
kiện vật chất.
Nhà nước tư sản dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất dù cho đó là Nhà
nước pháp quyền tư sản, dù dưới hình thức nào, Nhà nước của giai cấp tư sản vẫn

là bộ máy trấn áp của số ít người đi thống trị đối với số đơng người bị bóc lột, thì
trong chế độ cộng hồ dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ.
Do đó, muốn thay đổi đi Nhà nước pháp quyền tư sản thành Nhà nước pháp
quyền của nhân dân lao động thì suy cho cùng cũng cần phải từ cái nguyên nhân
kinh tế của nó. Trước hết là cần phải thay đổi chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất thành chế độ công hữu.
Theo quan điểm mácxít, pháp luật lý ý chí của giai cấp thống trị, pháp luật
chính là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị qui định. Pháp
luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật là sự hồn thiện về lợi ích và nhu cầu

15


chung của xã hội, do một phương thức sản xuất vật chất nhất định sản sinh ra mà
không phải do ý muốn tuỳ tiện của mỗi cá nhân.
Đối với Ăngghen thì cần phải đặt Nhà nước dưới pháp luật thì mới có thể
ngăn ngừa được sự chuyển hố của Nhà nước – (từ chỗ công bộc của xã hội thành
ông chủ đứng trên xã hội) mà cần thiết phải biến Nhà nước thành một cơ quan phụ
thuộc vào xã hội.
Trong quá trình quản lý xã hội thì mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
phải dựa trên sự điều hành của pháp luật. Để phát triển quan điểm này Lênin cực
kỳ chú ý và phát triển lý thuyết về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, chấp
hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong toàn xã hội kể cả bộ máy Nhà nước và nhân
viên Nhà nước không trừ một ai.
Nội dung của học thuyết này là tập trung vào việc xây dựng hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, dựa trên ý chí, nguyện vọng, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân
trên cơ sở vận dụng đúng quy luật khách quan và tình hình thực tế của xã hội.
Nhìn chung, toàn bộ những nội dung về vấn đề Nhà nước của chủ nghĩa
Mác – Lênin đã kế thừa và phát triển những giá trị của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Mặc dù chưa phải là lý luận hoàn chỉnh, song về mặt khách quan nó

có một giá trị vô cùng to lớn và khoa học, là cơ sở nhằm giải quyết những vấn đề
thực tiễn của xã hội.
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền:
+ Nhà nước pháp quyền phải xuất phát từ yêu cầu là dân chủ triệt để, Nhà
nước phải do nhân dân lập ra, hoạt động chỉ vì lợi ích nhân dân và nhân dân có
quyền bãi miễn, đặc biệt là Nhà nước cần phải dựa vào dân.
+ Nhà nước là Nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
+ Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cịn quan tâm đến các vấn đề như là, hệ thống
pháp luật dân chủ, nhân văn; nền tư pháp vì cơng lý, tư pháp xét xử độc lập chỉ
tuân theo pháp luật; một chế độ đề cao công vụ và đề cao pháp luật, trách nhiệm
công chức, ý thức pháp luật…

16


Nhìn chung, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
thứ nhất là kế thừa những giá trị Nhà nước pháp quyền của nhân loại; đồng thời
còn kế thừa những tư tưởng trong lịch sử Việt Nam, quan trọng là tư tưởng Nhà
nước pháp quyền của Hồ Chí Minh.
1.3. Quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
+ Khẳng định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân,
giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành vi xâm phạm lợi ích của
tổ quốc và lợi ích của nhân dân.
+ Bộ máy của Nhà nước được tổ chức trên nguyên tắc: quyền lực Nhà nước
là thống nhất có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền:
 Lập pháp
 Hành pháp

 Tư pháp
+ Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; quản lý xã hội bằng pháp luật,
đồng thời coi trọng pháp luật, giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt
pháp chế xã hội chủ nghĩa sẽ làm cơ sở đảm bảo cho sự hoạt động của bộ máy Nhà
nước, tạo ra sự thống nhất đồng bộ, phát huy được hiệu lực quản lý của Nhà nước,
đảm bảo công bằng trong toàn xã hội.
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân.
Đảng lãnh đạo nhưng khơng làm thay nước. Năng lực lãnh đạo của Đảng thể
hiện ở việc xây dựng, kiện toàn, sử dụng và phát huy vai trò chủ động của nhân dân
vào quản lý Nhà nước là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá sự lãnh đạo của
Đảng với Nhà nước.
17


Nhìn chung, quan điểm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng ta
vừa thể hiện bản chất giai cấp cơng nhân, vừa đảm bảo tính pháp quyền trong mọi
tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
1.4. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Quyền lực Nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân lao động, bao nhiêu
lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều vì dân.
+ Bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc: quyền lực Nhà nước là
thống nhất nhưng có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp.
+ Tính tối cao của pháp luật, pháp luật vừa là phương tiện, công cụ để quản
lý xã hội vừa là cơ sở pháp lý để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát tổ
chức và hoạt động của Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo toàn diện.

Từ đó, có thể nêu lên định nghĩa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam như sau: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
mà trong đó quyền lực Nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân lao động có sự
phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước nhằm thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp theo qui định của pháp luật, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn chung, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn là phương pháp tiếp
cận khoa học đối với các vấn đề xã hội. Quá trình nghiên cứu lý luận đã chỉ ra
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thấy
được việc áp dụng mơ hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thấy
được việc áp dụng mơ hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời, góp phần xây dựng cơ sở để củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Những giá trị góp phần hoàn thiện việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Những giá trị tích cực của học thuyết pháp trị.
18


- Một đường lối chính trị thực tế, cơng khai.
Để giải quyết bài toán xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc, các học thuyết đều
đề xuất những phương pháp cai trị riêng. Phương pháp trị nước của Nho gia. Mặc
gia đều lấy đạo đức, tình thương của thánhnhân xưa làm mực thước, viện dẫn uy
quyền của thánh nhân xưa để biện minh cho giáo lý của mình, là khơng phù hợp
với yêu cầu khách quan của lịch sử và đặc điểm của thời đại. Cũng như các nhà tư
tưởng khác, Hàn Phi phê phán gay gắt xã hội đương thời và ông đưa ra được cáhc
giải quyết từng bước hơn cả. Ông cho rằng phương pháp trị******** phù hợp và
công hiệu nhất lúc này là phương pháp pháp trị, vì chỉ có pháp trị thì quyền lực mới
được tập trung, quốc gia mới hưng thịnh. Các nhà pháp trị chải quant âm đến
những vấn đề sản xuất nông nghiệp và chiến tranh, sao cho binh cường nước mạnh.

Pháp trị đã giải quyết vấn đề kinh tế – xã hội như là vấn đề mang tính then chốt, để
từ đó giải quyết mọi vấn đề khác và đặt pháp luật trên nền tảng thực tiễn kinh tế –
xã hội.
Hàn Phi rất thực tế khi khuyên các vua chúa nhớ rằng trị dân là trị số đông,
chứ không phải trị số ít siêu nhân nên đừng cầu dân phải có nhân nghĩa, miễn họ
tôn trọng pháp luật, không làm bậy là được rồi. Một ông vua giỏi phải biết cách tận
dụng trí lực của tồn dân, tận dụng sức lực của cả nước. Song để thực hiện điều đó,
nhà vua cần phải có Thế. Pháp trị chủ trương quyến thế vạn năng, họ yêu cầu kẻ
thống trị phải nắm lấy quyền giết hại, khen thưởng; chỉ có như vậy Thuật mới được
thực thi, Phápmới được tơn trọng. Vì thực tế nên pháp trị đề cao sự hữu dụng hơn
là sự hùng biện, đề cao việc làm hơn là lời nói, hành động hơn là lý thuyết, ca tụng
sự làm việc cần kiệm và bài xích sự lười biếng xa xỉ. Trong khi những học thuyết
khác chỉ mải mê lý luận, thậm chí lý luận duy lý cao siêu, xa rời những vấn đề cấp
thiết, thì chỉ có một mình pháp trị không những vươn tới vấn đề kinh tế, của cải vật
chất – vấn đề của mọi vấn đề, mà còn trực tiếp đứng ở bên trong vấn đề đó và giải
quyết nó một cách hiệu quả. Điềuđó cho phép khẳng định sự đúng đắn, có giá trị,
mà cịn có tính khả hợp, khả dụng, khả thi của học thuyết pháp trị đối với thực hiện
lịch sử đương thời.
19


Trong tất cả các học thuyết tư tưởng Trung Quốc cổ đại, pháp trị là học
thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những mặt, những yếu tố của những học
thuyết khác nhiều nhất. Lễ nghĩa, danh phận được cụ thể hố tỏng pháp luật. Vơ vi
được chuyển hố thành quan hệ biện chứng vô vi, hữu vi. Kiêm ái là nội dung yếm
thế nhất của học thuyết Pháp trị, ít được đề cập nhất, thậm chí gần như bài học
hồn tồn, nhưng Hàn Phi Tử vẫn khơng thể khơng xem đây là mục đích cuối cùng
của pháp luật. Nhờ sự tiếp nhận và phát triển quan điểm của những học thuyết
khác, pháp trị đã tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn lao trong việc khẳng định tư tưởng
và tìm ra một cách giải quyết vững chắc và tồn vẹn nhất trong vấn đề trị quốc.

Địa vị tư tưởng chủ yếu của pháp trị trước hết là ở những giá trị thực tế,
chính vì vậy mà nó có thể đưa ra sức mạnh chính trị để kết thúc cục diện trăm nhà
đau tiếng thực hiệnời tiên Tần, trở thành kẻ thắng lợi cuối cùng nhà Tần sụp đổ và
từ đó về sau, trong suốt 2000 năm, ngay cả trong tầng lớp thống trị, tư tưởng pháp
trị hầu như không cịn được tán thưởng và thừa nhận một cách cơng khai nữa bởi vì
nó phơi bày một cách trần trụi bản chất của giai cấp bóc lột – cái mà học muốn che
đậy. Nhưng mặt khác, do phù hựop lợi ích của mình nên giai cấp phong kiến Trung
Quốc vẫn sử dụng có một cách kín đáo mà người ta hay gọi là ngồi đức trong
pháp. “Tần một pầhn vì triệt để dùng chính sách pháp trị nên mất lịng dân và mất
ngôi. Từ đời Hán trở đi, các triều nói là châm chước cho Nho và Pháp, nhưng vẫn
là thiên Pháp, mặc dầu từ vua chúa đến văn nhân đều đề cao vương đạo”.
- Trị nước bằng pháp luật.
Đường lối pháp trị là xác lập mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và người bị
trị trên cơ sở pháp luật. Trong lịch sử tư tưởng chính trị – pháp lý, các nhà pháp trị
đã có cơng phát hiện ra vai trị của pháp luật: là cơng cụ của quyền lực chính trị.
Phát hiện này pháp trị đã cho chính trị thoát ly khỏi sự ràng buộc của đạo đức và
khơng bị rơi vào tình trạng khơng tưởng như các dòng chảy độc lập trong sự phát
triển của tư tưởng nhân loại nói chung.

20



×