Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.83 KB, 111 trang )













LUẬN VĂN:

Hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay


















Mở đầu

1.Tính cấp thiết của đề tài
Khiếu nại tố cáo là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội. Bởi lẽ, trong
xã hội nói chung, và trong quá trình quản lý nhà nước nói riêng không thể tránh khỏi tình
trạng những vi phạm pháp luật xâm phạm đến lợi ích Nhà nước hoặc quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân hay tổ chức, xã hội. Từ xưa tới nay, trong bất kì nhà nước nào, dù
phát triển theo xu hướng chính trị nào đi chăng nữa, thì các giai cấp thống trị, các nhà
cầm quyền đều muốn chế độ của mình được trường tồn. Do đó, các nhà cầm quyền ở
mức độ này hay mức độ khác, đều quan tâm và cho phép người dân được kêu oan đến cơ
quan nhà nước để được xem xét và giải quyết, nhằm làm dịu lòng dân và ổn định xã hội.
Mặt khác, thông qua việc người dân khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các hiện tượng tiêu cực và vi phạm pháp luật trong
xã hội được kịp thời phát hiện và xử lý, góp phần giữ vững trật tự, kỉ cương xã hội.
ở nước ta, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà
ra đời cho đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của
của công dân và coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành trong hoạt động quản lý
Nhà nước. Tuy nhiên, từ khi nước ta bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, nhiều cơ chế, chính
sách, pháp luật và các điều kiện kinh tế - xã hội được đổi mới, tình hình khiếu nại tố cáo cũng đang
có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, qui mô và mức độ, đặt ra những vấn đề hết sức bức xúc,
phức tạp. Thậm chí còn xuất hiện nhiều "điểm nóng" gây ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh, chính
trị, trật tự và ổn định xã hội ở một số địa phương trong cả nước . Đây là những vấn đề nhạy cảm,
đòi hỏi phải giải quyết một cách thận trọng, chặt chẽ và toàn diện. Mặc dù đã có luật khiếu nại, tố
cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành, song đến nay, luật khiếu nại, tố cáo mới thực hiện được
hơn hai năm, đã bộc lộ những bất cập giữa lý luận và thực tiễn. Luật chưa phản ánh được sự đa
dạng của khiếu nại, tố cáo. Như khiếu nại, tố cáo đông người; trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo
đông người; thời hạn giải quyết khiếu nại, tốcáo; chế tài trách nhiệm chưa rõ ràng, chưa cụ thể và

chưa có tính khả thi; công tác quản lý và xử lý khiếu nại tố cáo của công dân còn nhiều lúng túng,


thủ tục phiền hà cho dân. Tình trạng đùn đẩy, né tránh, ngại va chạm, thiếu trách nhiệm chưa được
khắc phục triệt để. Việc tổ chức tiếp dân ở nhiều cơ quan, đơn vị, cơ sở còn hình thức. Quyền khiếu
nại, tố cáo của công dân trong một số trường hợp còn bị vi phạm, có lúc, có nơi khá nghiêm trọng
Tất cả những điều đó đang xói mòn đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, ảnh
hưởng không nhỏ đến sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Kinh nghiệm
quản lý đất nước từ thời xa xưa cho thấy: Nhân dân là cội nguồn, nhân dân quyết định sự hưng
vong của xã tắc, bởi thế, không bao giờ được xem nhẹ ý nguyện của nhân dân.
Từ cơ sở đó, vấn đề
"Hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay"
là vấn đề rất cấp thiết cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Chọn vấn đề này làm luận văn thạc sĩ, tôi hy vọng sẽ được đóng góp một
phần nhỏ bé của mình vào việc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, nhằm củng cố lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, để hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh.
2- Tình hình nghiên cứu:
Cho đến nay, đã có một số bài viết, hay một vài công trình khoa học nghiên cứu dưới góc
độ khác nhau và ở mức độ này hay mức độ khác cũng có liên quan đến vấn đề này. Chẳng hạn, vấn
đề: " Giải quyết khiếu tố của nhân dân - thực trạng và những bài học kinh nghiệm" - đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ của Khoa Nhà nước - Pháp luật, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (
Năm 1998-1999 ); "Một số vấn đề đặt ra khi triển khai luật khiếu nại, tố cáo" của Vũ Văn trong tạp
chí thanh tra số 3/1999; "Những yêu cầu đặt ra trong việc thực hiện các qui định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo" của Phạm Văn Khanh; và "Những kinh nghiệm rút ra qua công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo thời gian qua" của Ngô Đăng Huynh trong tạp chí thanh tra số 9/1999; "Một số ý
kiến về đổi mới việc giải quyết khiếu nại tố cáo của chính quyền địa phương" của Thạc sĩ Nguyễn
Hạnh trên tạp chí Dân chủ - Pháp luật số 5/2000 Tất cả các công trình trên đều có đề cập đến vấn
đề này, song nhìn chung chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp và hệ thống vấn đề

"Hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay". Đây là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên luận văn có thể tiếp thu một cách


có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của các công trình khoa học pháp lý có liên quan, để phát triển
và hoàn chỉnh vấn đề nghiên cứu của mình.
3- Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn : làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp
luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp sát
thực để hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, nhằm góp phần bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện
nay.
- Nhiệm vụ của luận văn: để đạt được mục tiêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
+ Làm rõ quan niệm về khiếu nại, tố cáo và quyền khiếu nại, tố cáo của công dân ở nước
ta hiện nay.
+ Phân tích, làm rõ vai trò của pháp luật đối với quyền khiếu nại, tố cáo của công dân .
+ Làm rõ đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền với yêu cầu hoàn thiện pháp luật về
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân .
+ Phân tích quá trình hình thành và phát triền quyền khiếu nại, tố cáo của công dân qua
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam
+ Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân ở
Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó tìm ra những phương hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp
luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay
4- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Pháp luật về khiếu nại, tố cáo có nội dung rất phong phú và đa dạng trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội (Hành chính, thuế, đất đai, nhà ở, xử lý vi phạm hành chính ) và với nhiều loại
chủ thể khiếu nại, tố cáo (có thể là công dân, tổ chức hay người nước ngoài sống trên lãnh thổ Việt
Nam ). Do vậy, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các qui
định pháp luật về quyền khiếu nại của công dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính



và quyền tố cáo của công dân trong pháp luật hiện hành mà chủ yếu là Luật khiếu nại, tố cáo năm
1998 và Nghị định 67/1999/NĐ-CP ngày 7/8/1999 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành luật khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu có tham khảo quyền khiếu nại,
tố cáo của một số triều đại phong kiến và quá trình hình thành quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
trong pháp luật Việt Nam đồng thời có mở rộng nghiên cứu một số vấn đề có liên quan để làm sáng
tỏ vấn đề nghiên cứu của luận văn.
5- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng các phương pháp triết học Mác- Lê nin: phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử, đồng thời có sử dụng tổng hợp các phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh, khảo sát thực tiễn trong quá trình giải quyết các vấn đề
đặt ra của đề tài.
6- Những điểm mới của luận văn:
Luận văn là công trình bước đầu nghiên cứu vấn đề một cách có hệ thống việc hoàn thiện
pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong Luật khiếu nại, tố cáo, do vậy luận văn có
thể có những đóng góp mới sau đây:
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân .
- Phân tích đánh giá có hệ thống thực trạng về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
trong pháp luật khiếu nại, tố cáo Việt Nam .
- Đề xuất được một số phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện pháp
luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay.
7- Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm phần mục lục, mở đầu, 3 chương, 7 tiết, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.




















Chương 1

Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và vai trò pháp luật trong việc thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân
1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo và quyền khiếu nại, tố cáo của công dân .
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo:

Nhà nước ra đời trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, thông qua việc sử
dụng Nhà nước, giai cấp thống trị đã điều hoà được những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội, bảo vệ
được quyền lợi của giai cấp mình. Tuy nhiên bất kì Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều
phải an dân và ổn định xã hội. Bởi, nếu không có dân thì cũng không có Nhà nước. Do vậy, trong
hoạt động của mình, mọi Nhà nước đều có những qui định trong luật việc bảo vệ công dân của
mình. Về phía người dân, dù người có hiểu biết cao đến hiểu biết thấp đều nhận thức rằng: dưới sự
bảo hộ của Nhà nước thì mọi quyền lợi của mình mới được bảo đảm, được bảo vệ. Song, do bản

chất của mỗi kiểu Nhà nước khác nhau nên mức độ bảo hộ cũng có khác nhau. Mặt khác, bản thân
Nhà nước cũng luôn mong muốn bộ máy do mình lập ra, trong đó có đội ngũ quan chức Nhà nước
phải tuân thủ sự điều khiển, quản lý của Nhà nước, không muốn bất kì ai, tổ chức nào trong bộ máy
nhà nước lại phá vỡ những qui định (pháp luật) mà Nhà nước đã đặt ra. Thế nhưng, trong thực tiễn,
từ nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn, từ sự chi phối của lợi ích, của tình cảm hay từ sự yếu kém
trong quản lý mà một bộ phận nào đó đã vô tình hoặc cố ý làm sai, thậm chí vi phạm nghiêm trọng
những quy định của Nhà nước, của pháp luật làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước , quyền lợi hợp
pháp của công dân, tổ chức, xã hội. Những sai lầm, vi phạm đó cũng khó giữ kín, và như vậy tố cáo
xuất hiện. ở góc độ khác, mỗi công dân trong hoạt động thực tiễn của mình, dù ít, dù nhiều đều có
quan hệ với bộ máy chính quyền nhà nước , với tổ chức xã hội và các công dân khác. Trong các
quan hệ đó, có lúc, có nơi với nhiều lý do khác nhau, những người trong bộ máy công quyền cũng
đã vi phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, và như vậy xuất hiện khiếu nại.
Trong đời sống xã hội, khi quyền, lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm từ phía các
cơ quan nhà nước, người dân có quyền khiếu nại các cơ quan nhà nước đề đòi lại sự công bằng cho
bản thân, đó là lẽ đương nhiên mà bất kỳ người nào, thời đại nào cũng hiểu. Trong xã hội cũ, những


hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội có một số người cho qua, bởi họ không tin vào sự
phân xử công minh, công bằng của Nhà nước. Nhưng cũng có không ít người với trách nhiệm công
dân đã dũng cảm ra khiếu nại, tố cáo hành vi sai trái đó để bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của bản thân, tập thể và xã hội. Chính vì lẽ đó mà khiếu nại, tố cáo xuất hiện trong xã
hội có giai cấp, có Nhà nước là một tất yếu khách quan.
Về mặt tâm lý
, khiếu nại, tố cáo xuất hiện trong ý chí chủ quan của người đi khiếu nại, tố
cáo. Trước hết những hành vi, hiện tượng vi phạm đó tác động vào nhận thức của người ta và chỉ
khi người ta thấy ức chế, cần giải toả bằng cách bày tỏ với cơ quan nào đó để hy vọng được giải
quyết thì họ mới yên lòng. Yếu tố tâm lý này cũng lớn dần theo thời gian nếu như những kiến nghị,
tố cáo đó không được xem xét giải quyết kịp thời. Tuy nhiên trong nhận thức của mỗi người, do
trình độ bản thân, nhã quan, tư duy lô-gích về vấn đề mà có người cho là vi phạm trầm trọng, có
người cho là không vi phạm. Mặt khác, nhiều trường hợp do không ở trong hoàn cảnh cụ thể nên có

người không hiểu được bản chất vấn đề, mới thấy hiện tượng đã suy luận ra bản chất theo tư duy cá
nhân của mình. Trong xã hội có người nhút nhát, ngại va chạm, thậm chí đúng là lợi ích của mình
bị vi phạm nhưng cũng không dám lên tiếng phản đối. Ngược lại, cũng có những người luôn tưởng
rằng, cho rằng mọi người đều sai, lợi ích của mình đã bị xâm phạm. Chính vì vậy mà khiếu nại, tố
cáo còn là yếu tố tâm lý của con người.
Dưới góc độ pháp lý,
luật khiếu nại, tố cáo được Quốc hội nước ta thông qua ngày
2/12/1998 , tại Điều 2 Luật đã giải thích các khái niệm:
" 1-
Khiếu nại
là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục
do luật này qui định đề nghị tổ chức có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi
hành chính hoặc quyết định kỉ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành
vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của mình.
2
- Tố cáo
là việc công dân theo thủ tục do luật này qui định báo cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức" (Khoản 2 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo).


10-
Quyết định hành chính
là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với
một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.
11- Hành vi hành chính
là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ theo qui định của pháp

luật "
Từ khái niệm trên chúng ta có thể thấy rằng, giữa khiếu nại và tố cáo có điểm chung là đều
phát sinh khi có vi phạm pháp luật (hoặc bị người khiếu nại, tố cáo cho là vi phạm pháp luật) của
cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân và họ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết,
xử lý việc làm đó để khôi phục hoặc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể; quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân. Tuy nhiên, giữa khiếu nại và tố cáo có những điểm khác nhau cơ bản sau đây :
- Về chủ thể:
Chủ thể của khiếu nại bao gồm công dân, cơ quan, tổ chức,trong khi chủ thể của tố cáo
chỉ là công dân. Xuất phát từ tính chất của tố cáo là yêu cầu xử lý người bị tố cáo, nên Nhà nước
khuyến khích người tố cáo đúng, đồng thời qui định nếu người nào lợi dụng quyền tố cáo, tố cáo sai
sự thật, gây thiệt hại cho người khác thì phải bị xử lý để tránh tình trạng có người nhân danh cơ
quan, tổ chức nào đó, thực hiện việc tố cáo với mục đích cá nhân. Để cá thể hoá trách nhiệm của
người tố cáo, tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thể xử lý người cố tình tố cáo sai sự thật, Luật
quy định chủ thể tố cáo phải là công dân (cá nhân) chứ không bao gồm cơ quan, tổ chức như chủ
thể khiếu nại.
Điểm khác nữa, chủ thể bị khiếu nại có thể đồng thời là chủ thể giải quyết khiếu nại
còn chủ thể bị tố cáo không đươc phép làm như vậy.
- Về đối tượng:
Đối tượng khiếu nại bao gồm: quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ
quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức trong khi đối tượng của tố cáo
rộng hơn nhiều, bao gồm: hành vi vi phạp pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây


thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
cơ quan, tổ chức .
- Về nguyên nhân phát sinh:
Đối với khiếu nại là khi quyền, lợi ích của bản thân người khiếu nại bị xâm phạm, còn
đối với tố cáo là khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại
đến lợi ích không chỉ của cá nhân người tố cáo mà còn cả lợi ích của cơ quan, tổ chức và công dân
khác. Cũng có trường hợp quyền và lợi ích của người tố cáo không nhất thiết phải gắn liền với vấn

đề tố cáo .
- Về mục đích:
Mục đích của người khiếu nại là nhằm khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của chính
người khiếu nại đã bị xâm phạm hoặc bị thiệt hại, trong khi mục đích của người tố cáo là phát giác
nhằm ngăn chặn kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nói chung mà không nhất thiết là của chính người tố cáo.
- Về tính chất:
Khiếu nại thường mang tính nội bộ, lấy mục tiêu sửa nhanh là chính. Vì vậy, phương
pháp giải quyết thường mềm dẻo, linh hoạt nhằm giúp cho đối tượng nhân rõ sai sót để khắc phục,
sửa chữa kịp thời, nhanh chóng. Những sai sót trong khiếu nại thường nhỏ, đơn giản hơn trong tố
cáo, dễ khắc phục hơn so với trong tố cáo. Tính chất tố cáo thường nguy hiểm, phức tạp hơn, mức
độ sai phạm nặng hơn, ảnh hưởng đến danh dự và phẩm chất của người bị tố cáo, do đó, người bị tố
cáo bao giờ cũng hay lẫn tránh tránh nhiệm, có nhiều thủ đoạn để đối phó nhằm che giấu khuyết
điểm và hành vi vi phạm pháp luật .
Do có những điểm khác nhau cơ bản nêu trên nên luật quy định việc khiếu nại, tố cáo
và xử lý khiếu nại, tố cáo cũng khác nhau: từ quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, người
giải quyết, đến trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo đều có những khác nhau căn bản. Trên
thực tế, nhiều khi nếu chỉ căn cứ vào hình thức đơn thư nhận được thì khó có thể xác định thuộc
khiếu nại hay tố cáo. Bởi lẽ, trong đơn thư của mình, đương sự có khi đề cập cả khiếu nại và tố cáo,
nêu lên cả hai mặt cùng một lúc. Nhiều trường hợp do tố cáo mà phát sinh khiếu nại, lấy khiếu nại


để yêu cầu giải quyết việc tố cáo hoặc ngược lại. Nhưng với những tiêu chí phân tích ở trên, thì cơ
quan, tổ chức, người có trách nhiệm có thể xác định được đó là khiếu nại hay tố cáo, từ đó có biện
pháp xử lý kịp thời, đạt hiệu quả cao nhất nhằm đảm bảo cho quyền khiếu nại tố cáo của công dân
được thực hiện tốt nhất. Nhận thức được sự khác nhau trên giúp chúng ta có những luận cứ khoa
học và giải pháp hữu hiệu trong việc bổ sung, hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Khái niệm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân :


Hành vi khiếu nại, tố cáo là hiện tượng khách quan trong xã hội , và nó chỉ trở thành
quyền một khi được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật . Vì thế, quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân bao giờ cũng mang bản chất giai cấp. ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, mỗi nhà nước khác
nhau thì quy định nội dung pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo cũng khác nhau.
Trong lịch sử các Nhà nước bóc lột, pháp luật khiếu nại, tố cáo được đặt ra, suy cho
cùng để phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột. Vì vậy, người dân dưới chế độ Nhà nước
kiểu phong kiến, tư sản họ không hiểu mình có những quyền gì để mà khiếu nại, tố cáo. Việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan có thẩm quyền hoặc thiên vị bên này, hoặc bên kia không
theo sự công bằng, lẽ phải, mà thực tế cho thấy, lẽ phải thuộc về kẻ mạnh, kẻ giàu có trong xã hội.
Chính vì vậy, khiếu nại, tố cáo trong các chế độ xã hội của nhà nước đó chỉ là hình thức, quyền
pháp lý thì có nhưng không được thực thi. Thậm chí người dân nô lệ trong chế độ xã hội nô lệ, xã
hội phong kiến còn không có một chút quyền nào. ở chế độ Tư bản chủ nghĩa, về pháp lý, Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước Tư sản công nhận các quyền tự do, bình đẳng, tố cáo.v.v cho mọi
công dân. Song, trên thực tế chỉ những kẻ giàu có thuộc giai cấp bóc lột mới có điều kiện để hưởng
quyền này, còn người lao động nghèo khổ bị áp bức bóc lột thì không thực hiện được quyền đó.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vị trí của nhân dân lao động và mối quan hệ của từng
công dân đối với Nhà nước có những thay đổi căn bản về chất. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà
nước của nhân dân , do nhân dân và vì nhân dân, sức mạnh của Nhà nước bắt nguồn từ nhân dân,
nhân dân lao động là người chủ Nhà nước; lợi ích của Nhà nước gắn liền với lợi ích của nhân dân ,
Nhà nước là công cụ phục vụ lợi ích của nhân dân. Do đó, Nhà nước luôn quan tâm đến việc bảo vệ
và thực hiện các quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân. Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền


khiếu nại, tố cáo của công dân được ghi nhận ở Hiến pháp và pháp luật, và được đảm bảo thực hiện
trong thực tế. Điều này thực chất là nhằm tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, là sự thừa nhận tính tối cao của quyền con người, quyền công dân trong xã hội . Lê nin từng
nói: "Chỉ có khi nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo, sinh động của nhân dân
mới là người chiến thắng, mới giữ được chính quyền"{17, tr. 68-69]. Như vậy chỉ trong Nhà nước
xã hội chủ nghĩa, các quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân nói riêng mới được đảm bảo thực hiện trên thực tế, đặc biệt là đảm bảo về mặt pháp lý.

Tuy nhiên nếu nghiên cứu dưới góc độ "thuật cai trị" như đã nói ở trên, thì bất kỳ một nhà
nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải tìm "kế an dân" và ổn định xã hội. Do vậy, bằng cách
này hay cách khác, dù ít, dù nhiều các nhà nước trong lịch sử cũng như hiện tại đều có những quy
định pháp luật về việc bảo vệ công dân của mình trước những hành vi vi phạm pháp luật với mục
đích là "yên dân" để duy trì sự thống trị và phục vụ lợi ích của giai cấp mình.
1.1.2.1.

Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong các triều đại phong kiến Việt Nam:
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam cho thấy trong những thời kỳ hưng thịnh của nhà nước
phong kiến, các triều đại phong kiến Việt Nam luôn biết "dựa vào dân" và thực hiện nhiều kế sách
để "an dân". Nguyễn Trãi đã từng viết: "Việc nhân nghĩa cốt để yên dân" [1, tr.90]. Bởi Ông đã
nhận thấy: "Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân". Với thuật cai trị lấy dân làm gốc, ông cha
chúng ta đã tính kế, tạo điều kiện cho mọi người dân đều có thể trình bày các nguyện vọng nỗi oan
ức của mình đến nhà vua thông qua việc thỉnh cầu và cáo giác các hành vi bạo ngược của quan lại,
cường hào.
Sử cũ còn ghi, vua Lý Công Uẩn ( Lý Thái Tổ) lên ngôi (1909 - 1028) đã ra lệnh xây cung
Long Đức làm nơi xử kiện. Vua xuống chiếu: "Từ nay ai có việc tranh kiện, cho đến triều tâu bày,
vua thân xét quyết" [18, tr.179]. Vua Lý Thái Tông (1029 - 1054) thường tổ chức các chuyến kinh
lý về các vùng thôn dã để xem xét việc dân, việc quan. Hay để biết việc dân "đời vua Lý Anh Tông
(1138 -1175) vào năm Mậu Dần (1158) vua cho đặt một cái bàn gỗ ở giữa sân rồng để nhận đơn
khiếu kiện của dân"[5, tr.344]. Dưới triều vua Trần Nhân Tông (1271 - 1293) cho phép dân thường
được tâu bày những điều oan ức trực tiếp với nhà vua khi nhà vua xa giá kinh lý Sau này, năm
1747, chúa Trịnh Doanh cũng cho "đặt chuông mõ ở cửa phủ đường để người tài tiến cử và người


bị ức hiếp đến khiếu nại "[3, tr.23], và năm 1751, Trịnh Doanh còn cho dân được viết thư dán kín,
ghi rõ họ tên, địa chỉ và nỗi oan khuất của mình gửi thẳng lên phủ Chúa. Đời chúa Nguyễn ánh
cũng áp dụng biện pháp này vào năm 1788. Năm 1803, vua Gia Long cho đặt một số trạm ở các
trấn lị để các quan đại thần đi kinh lý đến nhận đơn kêu oan của dân. Từ thời vua Minh Mệnh (1820
-1840) trở đi, Nhà Nguyễn đặt ra Ty Tam Pháp gồm Bộ hình, Đại lý tự và viện Đô Sát để xét những

vụ án quan trọng, thụ lý hồ sơ các vụ kiện về oan ức của dân. Tại cửa Ty Tam Pháp có đặt một
chiếc trống đăng văn để vào các ngày 6, 16, 26 (âm lịch) ai có điều gì oan ức cần đệ đơn, được đến
đánh trống để nhân viên ra nhận đơn và chuyển cho quan nghị xét. Ngoài ra, những khi địa phương
nào có nhiều đơn kêu oan của dân, triều đình liền cử các phái đoàn thanh tra đặc biệt (gọi là kinh
lược đại sử ) gồm các đại thần có uy tín đến giải quyết [24, tr.12-13].
ở triều đại nhà Lê Sơ (1428 -1527) việc giải quyết khiếu tố của dân có quy định chặt chẽ
hơn. Vua ban hành "Quốc triều khám tụng điều lệ", quy định về trình tự khiếu kiện; trong đó đã có
quy định cấm việc khiếu nại vượt cấp: "Các việc kiện tụng chưa kinh qua lần khám nào đã dẫn dắt
khiếu nại vượt cấp thì các nha môn đều không được nhận khám", tuy nhiên "mọi trường hợp bị
người quyền quý ức hiếp thiệt hại nặng, cùng các trường hợp oan ức, không biết khám lệ ở nha
môn nào, không còn đường nào có thể kêu cầu, cùng các trường hợp đã qua công luận, phúc đình
nhưng chưa giải tỏ được lý, mới cho khua chông gióng mõ mà kêu lên" [26, tr.113]. Sở dĩ có quy
định như vậy, là vì trong Quốc triều hình luật có quy định từng loại việc kiện được giải quyết ở
từng cấp hành chính, ai làm trái thì xử bằng đánh trượng và biếm chức. Điều 672 Quốc triều Hình
luật, chương Đoán ngục nêu: "Dân trong lộ, trong huyện có việc tranh kiện nhau, việc rất nhỏ kiện
đến xã quan; việc nhỏ đến kiện ở lộ quan; việc trung bình đến kiện ở quan phủ; các quan kể trên
phải xét xử cho công bằng, đúng pháp luật; còn việc lớn thì phải đến kinh. Nếu trái luật này thì xử
tội trượng hoặc tội biếm. Tố cáo những việc mưu phản nghịch thì không theo luật này".
Thời Lê - Trịnh, năm 1683 chúa Trịnh Căn cũng ban lệnh việc khiếu tố phải theo đúng cấp
quy định.
Về thời hiệu khiếu tố, từ thời Lý đã có quy định từng loại việc có thời hiệu khác nhau.
Chẳng hạn, đối với việc tranh chấp ruộng đất bỏ hoang bị người khác cày cấy, trồng trọt trong vòng
một năm thì còn được quyền để nhận lại, quá hạn ấy thì không được kêu kiện nữa. Nhưng có những


việc thì pháp luật nhà Lý không giới hạn thời gian khiếu kiện, như việc tố cáo bộ máy quan lại tham
nhũng, thu sai thuế, ăn chặn thuế [18, tr.173].
Về thời hạn giải quyết khiếu tố, thời Nhà Lê sơ có quy định: " phân việc kiện tụngvề
ruộng đật, trộm cướp đều hạn 3 tháng; kiện tụng về mưu giết 4 tháng; kiện tụng về hộ khấu, hôn thú
là 2 tháng, đều lấy ngày bắt được bị cáo làm ngày đầu tiên "[25, tr.13].

Về tổ chức cơ quan làm nhiệm vụ giải quyết khiếu tố của dân, trên cơ sở phân loại việc
khiếu tố, pháp luật quy định trách nhiệm cho từng cấp giải quyết. Như đã nêu ở phần trên, hầu như
các xã quan, lộ quan, huyện quan đều trực tiếp xét xử khiếu kiện của dân; còn ở các kinh (hay trấn)
do quan thừa ty, trấn ty, trấn thủ giải quyết. "Nếu còn chưa phục tình thì mới phúc thẩm ở Ngự sử
đài, nếu có tình lý thiệt hại, chưa được giải bày rõ ràng mới cho làm đầy đủ tờ khai, cung kết phúc
kêu ở chánh đường " [25, tr.270-274]
Nhìn chung, để thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, một số triều đại phong
kiến Việt Nam đã ban hành nhiều loại văn bản luật qui định việc gửi đơn thư và trách nhiệm của
quan lại trong việc xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đáng kể nhất là Bộ Hình thư
đời Lý (1042), Bộ Quốc triều Hình thư và Quốc triều Hình luật (1341) đời Trần; Bộ luật Hồng Đức
(1483) và Khám tụng điều lệ (1777) thời Lê; Bộ luật Gia Long thời Nguyễn (1815) trong đó có
nhiều điều khoản qui định về các quyền và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Ngoài ra các vua còn ban các văn bản đơn lẻ như Lệnh, Lệ, Dụ, Chỉ để qui định cụ thể, chi tiết
việc giải quyết khiếu kiện của người dân.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, triều đại nào mà người cầm quyền biết thông cảm với
nỗi khổ của dân, biết lắng nghe và hỏi ý kiến của dân, biết tôn trọng và giải quyết những nguyện
vọng, khiếu nại của dân thì thời đó đất nước thanh bình và thịnh vượng, "vua tôi đồng lòng, cả
nước hợp sức " tạo nên một sức mạnh vô địch vượt mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù.
1.1.2.2.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng
ta.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội,


một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Châu á; theo đó, một hệ thống chính quyền
nhân dân được thành lập từ Trung ương đến địa phương cơ sở, bản, làng Việt Nam. Trong quá trình
xây dựng và quản lý đất nước, với sự nhạy bén về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ
sự cần thiết của công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy chính quyền, kế thừa truyền
thống quý báu của ông cha ta về lĩnh vực này, kết hợp với lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực

tiễn của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng ngay tới biện pháp tăng cường hiệu lực quản lý
nhà nước bằng việc thành lập "ban thanh tra đặc biệt " có chức năng giúp chính phủ và nhận những
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, trong đó các nhiệm vụ, quyền hạn đầu tiên là; "nhận các đơn khiếu nại
của nhân dân, điều tra hội chứng, xem xét các giấy tờ, tài liệu của Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ
quan của Chính phủ cần thiết cho việc giám sát"[22, tr.13 - 16].
Qua nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ rằng: ở Người, vấn đề
khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc nội hàm của quyền con người, quyền công dân và điều đó
được thể hiện qua những vấn đề nổi bật sau đây:
Một là
: quan niệm của Hồ Chí Minh về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân luôn nhấn
mạnh một khía cạnh trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân .
Người viết: "Chúng ta phải hiểu rằng cơ quan của Chính phủ từ Trung ương đến các làng đều là
công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải đè đầu như trong thời
kỳ thống trị của Pháp, Nhật "[11, tr.56]. Không những như vậy, Người còn nêu ra các nguyên nhân
của những khuyết điểm của các cấp chính quyền, của cán bộ, dẫn đến các khiếu nại, tố cáo của
nhân dân: một phần do kinh nghiệm của chúng ta còn ít, tài năng của chúng ta còn kém mà công
việc thì nhiều; song một nguyên nhân rất quan trọng là do thiếu kiểm tra giám sát kịp thời. "Có thể
nói rằng, chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta vì thiếu sự kiểm tra" [11, tr.
56]. Từ đó, Người nhắc nhở các cấp chính quyền, nhất là với cơ quan làm công tác thanh tra: "Về
công tác xét các việc khiếu nại, tố giác, nhiệm vụ các ban thanh tra là phải làm cho nghiêm chỉnh,
cho kịp thời, làm sớm chừng nào hay chừng ấy. Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại.
Ta giải quyết tốt các việc khiếu nại , đồng bào thấy Đảng và Chính phủ quan tâm, lo lắng đến họ,
do đó mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn" [12,
tr.726-727].


Từ lời dạy của Bác, chúng ta chỉ thấy đó là sự biểu hiện đức tính hết lòng vì nhân dân mà
còn thể hiện sự nhìn nhận vô cùng sâu sắc, sát thực tế, cảm thông với đời sống của nhân dân. Theo
Bác, dân có oan mới phải khiếu nại với chính quyền, hay có khi người ta chưa hiểu rõ chính sách
của Đảng, pháp luật nhà nước mà có thắc mắc. Cho nên Bác yêu cầu với công tác này "phải làm

cho nghiêm chỉnh, cho kịp thời"; không chỉ như vậy, Người còn nhấn mạnh: "Làm sớm chừng nào,
hay chừng ấy". Theo Người, đây không chỉ là trách nhiệm của chính quyền với nhân dân, mà qua
đó còn kịp thời phát hiện những sai sót, hạn chế để sửa chữa, uốn nắn những chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Cũng qua khiếu nại, tố cáo của công
dân, Đảng và Nhà nước biết được năng lực, trình độ phẩm chất của cán bộ của nhân viên Nhà nước
nói riêng, của đội ngũ cán bộ công chức nói chung để từ đó có những biện pháp khắc phục, sửa
chữa thì hiệu lực quản lý nhà nước sẽ không ngừng được nâng lên.
Hai là:
quan niệm của Hồ Chí Minh về việc nâng cao hiệu lực giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của công dân. Người
luôn luôn đòi hỏi mọi tổ chức Đảng, chính quyền không một ai đứng trên hay đứng ngoài pháp
luật , Người nói: "Dù sao Chính phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm gương không xong thì sẽ
dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ - đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết" [13, tr.158] . Đối
với nhân dân Người nhắc nhở: "Nhà nước bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng
nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, của nhân
dân" [14, tr.593].
Tư tưởng công dân, ý thức công dân hài hoà trong nhân cách công dân của Hồ Chủ Tịch
và luôn là mẫu mực trong đời sống. Điều này được biểu hiện trong suốt cuộc đời hoạt động của
Người. Đặc biệt là từ những ngày đầu cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, mặc dù bận trăm công nghìn việc, nhưng mỗi khi nhân được đơn thư khiếu tố
của nhân dân, Hồ Chủ Tịch xem xét rất kỹ rồi chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải
quyết và báo cáo kết quả cho người biết. Thể hiên sự sát xao, tránh nhiệm với công việc đến cùng;
dù là công việc nhỏ nhưng liên quan đến lợi ích của dân, Bác cũng đều rất thận trọng và chu đáo.
Bác rất chú ý đến giữ gìn kỷ cương phép nước, tăng cường hiệu lực trong quản lý nhà nước , Bác
thường nhắc nhở chúng ta: "không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng
dân không yên". Quan điểm của Bác xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, dân là chủ, cán bộ là


đầy tớ của dân. Với Bác, dân bao giờ cũng là trung tâm, là xuất phát điểm của mọi suy nghĩ và hoạt
động. Quyền khiếu nại, tố cáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là biểu hiện cụ thể của quyền con

người, quyền công dân trong điều kiện Việt Nam. Đó là truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam
được kết tinh trong tư tưởng của Người, cùng với Chủ nghĩa Mác - Lê nin - nguồn sáng trí tuệ của
nhân loại đã thấm sâu trong tâm trí Hồ Chủ Tịch để trở thành kim chỉ nam cho hành động cách
mạng của Đảng ta.
Ngày nay, tư tưởng đó lại càng quan trọng trong hoạt động thực tiễn và xây dựng các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm phát huy năng lực sáng tạo của đông đảo nhân dân
vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đảng và Nhà nước ta
trong qua trình hoạt động của mình đã không ngừng mở rộng dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để
tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Nghị quyết
hội nghị Trung ương lần thứ 8 (Khoá VIII) nhấn mạnh: "Đẩy mạnh việc giải quyết các khiếu kiện
của công dân. Soát xét bổ sung và thể chế hoá các chính sách, trước hết đối với chính sách lĩnh vực
mà dân khiếu kiện nhiều như những tranh chấp về nhà đất " [ 9, tr.30]. Đặc biệt Nghị quyết Đại
hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa khẳng định: "Cùng với việc đảm bảo thực hiện các quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân cần nghiên cứu hướng dẫn để mọi công dân có điều kiện phát hiện,
đề xuất, kiến nghị giúp cho hoạt động giám sát có hiệu quả " [ 8, tr.130 - 131]. Cụ thể hoá quan
điểm này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 ( Khoá VIII ) chỉ rõ: cần "xác định rõ trách nhiệm của
thủ trưởng cơ quan trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân , xử lý nghiêm minh các
hành vi trì hoãn làm chậm trễ, sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Cần có qui chế tạo thuận lợi để người dân trình bày ý nguyện, thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình" [ 10, tr.45 ]. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Nhà nước ta đã thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về khiếu nại, tố cáo
của công dân thành Hiến pháp và pháp luật, đồng thời ban hành nhiều nghị quyết, nghị định, chỉ
thị nhằm thực hiện trong thực tế quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, nâng cao hiệu quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Đặc biệt là sự ra đời của Luật khiếu nại, tố cáo (Quốc hội khoá X thông qua
ngày 2/12/1998) đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân, coi đây là một trong những công tác góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân


trong việc xây dựng và quản lý đất nước, là cơ sở pháp lý quan trọng, để công dân bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và của tập thể. Đồng thời là phương tiện để công dân thực
hiện quyền làm chủ và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ
máy nhà nước, loại trừ những biểu hiện tiêu cực của cán bộ ,công chức nhà nước như quan liêu,
hách dịch, sách nhiễu, cửa quyền, những hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, thoái hoá, biến
chất.v.v
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành, người công dân nào cũng có quyền sử dụng vì lợi ích
chung, lợi ích của chính mình. Đây là cơ sở pháp lý để củng cố thực hiện một bước địa vị pháp lý
của công dân trong xã hội. Về phía Nhà nước, mọi cơ quan, cán bộ công chức nào cũng cần quán
triệt, tôn trọng, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo đúng pháp luật; mặt khác nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo; đe doạ trả thù người khiếu nại, tố cáo; cố tình không giải quyết hoặc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trái pháp luật. Đồng thời cũng nghiêm trị những ai cố tình khiếu nại, tố cáo sai sự thật, lợi dụng
quyền khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, vu cáo làm hại người khác, không tôn trọng pháp
luật và làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước .
Xét về bản chất pháp lý
, quyền khiếu nại, tố cáo tự nó không có nội dung và xuất xứ cụ
thể, thường phát sinh do vi phạm các quyền khác, và do đó, nó mang trong lòng những nội dung
của các quyền khác. Khiếu nại để đòi khôi phục quyền lợi bị người khác xâm phạm; còn tố cáo là
để tố giác những hành vi trái pháp luật khi lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của công dân bị
xâm phạm hay đe doạ xâm phạm, trong khi chính quyền này đã được Hiến pháp, pháp luật ghi
nhận, Như vậy, từ những việc làm trái pháp luật, vi phạm quyền và lợi ích của công dân, cơ quan,
tổ chức, đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ sẽ làm nảy sinh quyền khiếu nại, tố cáo nói chung,
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng.
Xét về mặt ý nghĩa,
quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp ghi nhận, phản ánh bản chất của Nhà nước và của chế độ Xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân đối với Nhà nước và xã hội. Những quyền đó là cơ sở pháp lý cần
thiết để công dân thực hiện việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước , góp phần làm trong



sạch bộ máy nhà nước; loại trừ những biểu hiện quan liêu, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu nhân
dân của cán bộ, công chức nhà nước; thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo không những bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước mà còn góp phần sửa chữa các sai phạm,
khuyết điểm trong hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, kiện toàn chủ trương, chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước; phát hiện và xử lý kip thời các vi phạm pháp luật từ phía cơ
quan, nhân viên nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu lực và hiệu quả,
thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.1.3. Nội dung pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân:
Quyền khiếu nại, tố cáo thuộc nội hàm quyền công dân, quyền con người, không tách
rời bản chất của chế độ chính trị của sự phát triển nền kinh tế và truyền thống văn hoá và được ghi
nhận trong Hiến pháp và pháp luật của mỗi nước. Vì vậy, nó có vị trí, vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ, phát triển quyền công dân, quyền con người ở mỗi nước cũng như trong thế giới hiện đại.
Nội dung và những diễn biến của pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân gắn liền với sự
phát triển nền chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Những thay đổi về chế độ kinh tế, chế độ
chính trị, về tổ chức bộ máy nhà nước đều tác động sâu sắc đến pháp luật về quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân; đem lại cho nó những nội dung mới. Những nội dung đó được thể hiện tập trung
nhất trong mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước và công dân, nó phản ánh quyền dân chủ trực
tiếp của công dân đối với hoạt động của Nhà nước, nó được qui định trong Hiến pháp và pháp luật
hiện hành.

Theo nghĩa rộng,
pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân gồm: hệ thống
những quy định mang tính pháp lý về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội (khi các quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại), cùng với những thiết
chế tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và các qui định về trình tự, thủ tục tiến hành khiếu nại,
tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Theo nghĩa hẹp,
pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân bao gồm: hệ thống các qui định về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, thẩm

quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, trình tự, thủ tục tiến hành khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân trong pháp luật khiếu nại, tố cáo và các ngành luật khác trong hệ thống
pháp luật hiện hành. Đây là vấn đề rất rộng. Do đó, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về


quyền khiếu nại, tố cáo của công dân theo nghĩa hẹp trong phạm vi Luật khiếu nại, tố cáo và Nghị
định số 67/1999/NĐ-CP ngày 7/8/1999 của Chính phủ về qui định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật
khiếu nại, tố cáo. Có nghĩa là luận văn chỉ xem xét và hoàn thiện các qui định pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, trình tự, thủ tục
tiến hành khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, về xử lý vi phạm pháp luật về quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân trong Luật khiếu nại, tố cáo và Nghị định 67/1999/NĐ-CP. Do vậy,
hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân chính là đi rà soát, đánh giá thực trạng
các qui định pháp luật đó, tìm ra những điểm bất cập, không hợp lý để đưa ra những phương hướng
và giải pháp hoàn thiện nhằm tạo ra một hệ thống các qui định pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân phù hợp và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, đồng thời mang tính dự báo nhất
định, đảm bảo thực thi và có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Sau đây là một số nội dung cơ bản của pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
trong Luật khiếu nại, tố cáo và Nghị định 67/1999/ NĐ-CP của Chính phủ:
-
Về khiếu nại,
Luật khiếu nại, tố cáo qui định người khiếu nại gồm hai đối tượng:
công dân và cơ quan hay tổ chức , cán bộ hoặc công chức đều có quyền khiếu nại. Công dân là chủ
thể chính của quyền khiếu nại ,công dân theo Hiến pháp 1992 là người có quốc tịch Việt Nam (kể
cả người phạm tội hình sự bị hạn chế quyền công dân như quyền tự do đi lại, quyền bầu cử họ
vẫn là những công dân Việt Nam và vẫn có quyền khiếu nại). Khi thực hiện quyền khiếu nại, Luật
qui định công dân phải có các điều kiện đảm bảo, có năng lực hành vi. Trường hợp công dân có
nhu cầu khiếu nại mà không có năng lực hành vi thì Luật qui định được khiếu nại thông qua người
đại diện hợp pháp.
Pháp luật qui định chỉ có ba cơ quan gồm : Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân
dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (gồm Uỷ ban mặt trận và các tổ chức thành viên ), cơ quan báo chí

khi nhận được khiếu nại có trách nhiệm nghiên cứu và kịp thời chuyển khiếu nại đến cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết, và đôn đốc, theo dõi việc giải quyết, đồng thời báo cho người khiếu
nại biết việc chuyển đơn đó. Trong trường hợp người khiếu nại gửi khiếu nại của mình đến nhiều
cơ quan thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết tiến hành thụ lý giải quyết. Nhà nước không giao các
cơ quan khác phải chuyển đơn thư khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình mà chỉ


cần "thông báo và chỉ dẫn cho người khiếu nại bằng văn bản". Thông báo "chỉ thực hiện một lần
đối với một vụ việc khiếu nại" (Điều 5 Nghị định 67/1999/NĐ-CP ngày 7/8/1999 của Chính phủ).
Việc không khuyến khích chuyển đơn thư khiếu nại trong nội bộ trong cơ quan nhà nước (trừ 3 cơ
quan vừa nói trên) nhằm làm cho việc quản lý đánh giá đúng đắn tình hình hơn tránh tình trạng
nhận xét căng thẳng giả, dẫn đến tình trạng luân chuyển đơn thư lòng vòng, tiết kiệm chi phí cho cơ
quan nhà nước. Trường hợp dân trực tiếp đến cơ quan nhà nước khiếu nại thì cơ quan nhà nước có
trách nhiệm hướng dẫn người khiếu nại đến đúng cơ quan nhà nước có thẩm quyền để trình bầy
khiếu nại của mình (Điều 54, Nghị định 67/1999/NĐ-CP).
Đối với người khiếu nại, Điều 17 Luật khiếu nại, tố cáo qui định người khiếu nại có
quyền nhận văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại; được nhận quyết định giải quyết
khiếu nại; được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo
qui định của pháp luật; được quyền rút lại khiếu nại trong bất kì giai đoạn nào của quá trình giải
quyết. Ngoài ra, luật còn qui định người khiếu nại có quyền khởi kiện ra toà án hành chính hay kiện
lên cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp của cấp đó sau khi khiếu nại lần đầu của mình
được giải quyết không thoả đáng hoặc sau khi khiếu nại 30 ngày nhưng không được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết; Người khiếu nại được quyền đưa ra các bằng chứng hoặc phản ánh
về tình hình có liên quan đến nội dung khiếu nại.
Đi đôi với quyền của người khiếu nại, Luật khiếu nại, tố cáo cũng qui định người khiếu
nại có các nghĩa vụ: khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết, trình bày trung thực sự
việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại, chịu trách nhiệm trước pháp luật về
nội dung trình bày và việc cung cấp các thông tin, tài liệu đó; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định
giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật .
-

Về tố cáo
, Luật khiếu nại, tố cáo qui định: chủ thể của tố cáo chỉ là công dân, còn cơ
quan, tổ chức không có quyền này. Phạm vi tố cáo cũng rất rộng: mọi hành vi vi phạm pháp luật
gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
ở đây vấn đề tố cáo không nhất thiết phải gắn liền với lợi ích của người tố cáo.
Đối với người tố cáo, Điều 57 Luật khiếu nại, tố cáo qui định người tố cáo có các quyền
sau đây: quyền được gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ; có


quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước giữ bí mật về tên, địa chỉ, bút tích của mình và có quyền yêu
cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo; có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước đảm bảo an
toàn cho họ, tránh sự trù dập, đe doạ, trả thù. Đi đôi với quyền tố cáo, Luật qui định người tố cáo có
nghĩa vụ: phải trình bày trung thực về nội dung tố cáo; nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình; chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
-
Về thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo
, pháp luật qui định như sau :
+
Đối với khiếu nại
thì quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan nào bị
khiếu nại thì thủ trưởng cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết lần đầu. Nếu giải quyết lần đầu không
thoả đáng, vẫn bị khiếu nại thì cơ quan cấp trên trực tiếp là cơ quan có thẩm quyền giải quyết (hoặc
kiện ra Toà án hành chính thì theo thủ tục giải quyết các vụ án hành chính), cứ như vậy cho đến khi
có quyết định giải quyết cuối cùng thì chấm dứt khiếu nại. Những khiếu nại có nội dung liên quan
đến hai cơ quan quản lý thì cơ quan nào được giao nhiệm vụ quản lý chính có thẩm quyền giải
quyết.
+
Đối với tố cáo
, thẩm quyền giải quyết tố cáo được giao cho thủ trưởng cơ quan có nội
dung bị tố cáo trực tiếp giải quyết nếu việc tố cáo không liên quan đến thủ trưởng cơ quan đó.

Trường hợp thủ trưởng cơ quan có liên quan đến nội dung tố cáo thì thủ trưởng cơ quan cấp trên
trực tiếp có thẩm quyền giải quyết .
Tổ chức thanh tra nhà nước là cơ quan giúp thủ trưởng cùng cấp quản lý nhà nước về
khiếu nại, tố cáo. Các tổ chức thanh tra nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo khi
được thủ trưởng cùng cấp uỷ quyền, và đương nhiên có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
phát sinh trong nội bộ ngành cũng như các cơ quan khác theo trình tự nêu trên. Riêng tổng thanh tra
nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (trừ Bộ
trưởng) đã giải quyết nhưng còn khiếu nại. Thanh tra nhà nước các cấp trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình thanh tra việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Về cơ bản, việc xác định cấp giải quyết cuối cùng được dựa trên nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của nền hành chính nhà nước ta , đó là nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo
lãnh thổ. Vì thế, luật qui định cơ quan có thẩm quyền giải quyết ra quyết định giải quyết khiếu nại


cuối cùng đó là :Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Bộ trưởng;thủ
trưởng cơ quan ngang bộ; Tổng thanh tra nhà nước; Thủ tướng chính phủ.
- Về thủ tục thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân :

Thủ tục thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là một loại thủ tục hành chính, vì
nó phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước , có đầy đủ các đặc điểm của thủ tục hành
chính.
Thủ tục thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo bao gồm thủ tục khiếu nại, tố cáo và thủ tục
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các thủ tục này được quy định cụ thể trong Luật khiếu nại, tố cáo , và
chúng có thể được chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất:
Tiếp nhận và thụ lý khiếu nại, tố cáo .
Luật khiếu nại, tố cáo quy định thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ khi nhận được quyết
định hành chính hoặc biết được hành vi hành chính, công dân có quyền khiếu nại với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền . Trong trường hợp ốm đau, thiên tại địch hoạ hoặc vì những trở ngại khách
quan khác thì thời gian trở ngại không tính vào thời hiệu khiếu nại ( Điều 31 ).

Đối với tố cáo thì không có thời hiệu. Nếu phát hiện việc làm có vi phạm pháp luật đã,
đang và sẽ xảy ra thì công dân có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền .
Hình thức khiếu nại, tố cáo được viết bằng đơn hoặc trình bày trực tiếp với cơ quan nhà
nước. Nếu khiếu nại, tố cáo gửi bằng đơn thì trong đơn phải thể hiện những nội dung: họ tên, địa
chỉ người khiếu nại, tố cáo ; nội dung vụ việc khiếu nại, tố cáo : Họ tên, địa chỉ, chức vụ người
khiếu nại, tố cáo ; yêu cầu của người khiếu nại, tố cáo . Kèm theo đơn, người khiếu nại, tố cáo phải
gửi kèm theo hồ sơ , tài liệu và cung cấp các chứng cứ về vụ việc bị khiếu nại, tố cáo .
Nhận được tài liệu, chứng cứ này, cơ quan nhà nước phải ghi biên nhận cho người khiếu
nại, tố cáo. Nếu khiếu nại, tố cáo trực tiếp bằng lời nói với cơ quan có thẩm quyền thì cán bộ tiếp
nhận phải ghi lại nội dung như đối với khiếu nại, tố cáo bằng đơn. Kể cả khiếu nại, tố cáo bằng đơn
hay bằng lời trực tiếp đều phải có chữ ký của người khiếu nại , tố cáo vào đơn hoặc văn bản ghi lại
nội dung khiếu nại, tố cáo. Đối với tố cáo, cán bộ tiếp nhận tố cáo phải có trách nhiệm giữ bí mật
họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo ( Điều 57 Luật khiếu nại, tố cáo ).


Trong 10 ngày, kể từ ngày tiếp nhận khiếu nại, tố cáo , nếu vụ việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình, thì người giải quyết khiếu nại, tố cáo phải ra quyết định thụ lý giải quyết. Nếu vụ
việc không thuộc thẩm quyền của cơ quan ( không thụ lý) thì phải nêu rõ lý do. Cả hai trường hợp
thụ lý hoặc không thụ lý, cơ quan tiếp nhận khiếu nại, tố cáo đều phải thông báo bằng băn bản cho
người khiếu nại biết (nếu là khiếu nại ), hoặc cơ quan đó phải có trách nhiệm chuyển cho cơ quan ,
tổ chức có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo biết nếu họ yêu cầu (đối với tố cáo
).
Giai đoạn thứ hai:
Giải quyết khiếu nại, tố cáo
Sau khi thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thụ lý giải
quyết thì giao cho cán bộ thanh tra thẩm tra, xác minh vụ việc và kiến nghị giải quyết .
Đối với khiếu nại
: thời gian giải quyết lần đầu là không quá 30 ngày, đối với vụ việc phức
tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày. Nếu vùng sâu, vùng xa thì thời hạn giải quyết
lần đầu không quá 45 ngày, nếu vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày.

Kể từ ngày thụ lý để giải quyết (Điều 36 Luật khiếu nại, tố cáo ).
Sau khi có kết quả thẩm tra, xác minh vụ việc và kiến nghị giải quyết của cán bộ thanh
tra.Thủ trưởng cơ quan ra quyết định giải quyết khiếu nại , đồng thời phải gửi quyết định khiếu nại
cho ngươì khiếu nại.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà không được
giải quyết, hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại
không đồng ý với quyết định đó, thì có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại toà án theo thủ tục tố tụng. Đối với vùng sâu,
vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn nói trên có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày ( Điều39
Luật khiếu nại, tố cáo).
Thời hạn thụ lý
mỗi lần tiếp theo
cũng trong vòng 10 ngày; các thủ tục như giải quyết
khiếu nại lần đầu.Nhưng thời hạn giải quyết khiếu nại
mỗi lần tiếp theo
là:45 ngày, đối với vụ việc
phức tạp thì có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày. Kể từ ngày thụ lý để giải quyết. ở vùng
sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết mỗi lần tiếp theo không quá 60 ngày, đối với vụ


việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn , nhưng không quá 70 ngày. Kể từ ngày thụ lý để giải quyết
(Điều 43 Luật khiếu nại, tố cáo ).
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết ( quy định tại Điều 43 Luật
khiếu nại, tố cáo) mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại lần 2 mà người khiếu nại không đồng ý, thì có quyền tiếp tục khiếu nại ( Lần 3) đến
cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Trừ trường hợp quyết định đó là quyết định
giải quyết khiếu nại cuối cùng. Đối với vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn trên có thể
kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày ( Điếu 46 Luật khiếu nại, tố cáo ).
Đối với tố cáo
:

Thời hạn giải quyết tố cáo không quá 60 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết , đối với
những vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không quá 90 ngày. Trong quá trình tiếp nhận
tố cáo nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận, giải quyết tố cáo phải
chuyển tin báo, chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát để giải quyết theo qui định của
pháp luật tố tụng hình sự (Điều 71 Luật khiếu nại, tố cáo ).
Kết thúc giai đoạn này là việc công bố quyết định giải quyết khiếu nại , tố cáo và gửi cho
đương sự, những người liên quan, đồng thời đề ra các biện pháp thực hiện.
Giai đoạn

ba:
Tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo
Giai đoạn này bắt đầu từ khi giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu lực thi hành. Trong giai
đoạn này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề ra các biện pháp theo dõi, tổ chức thực hiện quyết
định , xử lý những cá nhân, tổ chức nào sai trái, đề nghị khắc phục tổn thất do việc làm trái pháp
luật gây ra. Giai đoạn này kết thúc khi các hành vi sai trái bị xử lý. Khi quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân được khôi phục thoả đáng.

1.2. Vai trò của pháp luật trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân:
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền con người, quyền công dân và đã được
ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Do vậy, nếu quan niệm một cách biện chứng và
trong trạng thái động với đầy đủ những thuộc tính và nội dung của nó, thì việc thực hiện quyền con
người , quyền công dân nói chung, quyền khiếu nại, tố cáo nói riêng là một quá trình ,và phụ thuộc

×