Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.69 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Họ và tên SV - Mã số SV - Mã nhóm HP

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Ths...

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021


MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN................................................2
1.1.

Lý luận về Nhà nước xã hội chủ nghĩa.......................................2

1.1.1 Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa.....................................2
1.1.2. Tính tất yếu khách quan và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa......................................................................................................2
1.1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa..................................4


1.2.

Lý luận về nhà nước pháp quyền................................................7

1.2.1.

Khái niệm.................................................................................7

1.2.2.

Những lí luận của một số nhà triết học trước Mác về nhà nước

pháp quyền............................................................................................8
1.2.3.

Những lí luận của chủ nghĩa Mac-Lenin về vấn đề nhà nước

pháp quyền............................................................................................9
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC- LÊNIN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN....13
2.1. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam.........................................................................................................13
2.2. Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
.................................................................................................................14
2.3. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
.................................................................................................................14
i


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẶC THÙ KINH
TẾ VIỆT NAM..........................................................................................16
3.1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam..............16
3.1.1. Thành tựu..................................................................................16
3.1.2. Hạn chế......................................................................................17
3.2. Biện pháp xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay..................18
KẾT LUẬN....................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................22

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, trước những đổi thay lớn lao của đời sống
quốc tế và sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu, địi
hỏi chúng ta phải có sự nhận thức lại đúng đắn các quan điểm của học thuyết
Mác - Lênin, trong đó có việc nhận thức lại một số vấn đề lý luận về Nhà
nước và pháp luật. Trong thời đại ngày nay, khi mà những tiến bộ, những
thành tựu của khoa học kỹ thuật đã làm cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá
nhân trở thành một tất yếu như Mác đã từng tiên đoán thì xu hướng chung của
các Nhà nước trên thế giới là xác định lại vai trị của mình trong xã hội, từ đó
Nhà nước hướng các hoạt động vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự
phát triển tồn diện của con người. Do đó, vấn đề chức năng xã hội của Nhà
nước đang trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học (chính
trị, pháp lý...), trở thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong các
chế độ Nhà nước khác nhau.
Từ thực trạng đó, đặt ra yêu cầu là vấn đề về Nhà nước Xã hội chủ
nghĩa cần được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống, góp phần bổ sung
lý luận khoa học cho cơng cuộc củng cố và hồn thiện Nhà nước ta trong giai
đoạn cách mạng hiện nay. Vì vậy, việc tác giả chọn đề tài " Quan điểm của

chủ nghĩa Mác- Lê nin về nhà nước xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa của nó
đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay" có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1.

Lý luận về Nhà nước xã hội chủ nghĩa

1.1.1 Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thơng qua đó, đảng của giai
cấp cơng nhân thực hiện vai trị lãnh đạo của mình đối với tồn xã hội; là một
tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết
quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chun chính vơ sản
được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là một trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thể hiện và thực
hiện ý chí, quyền lực của nhân dân. Đó là một cơng cụ quản lý do chính đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra nhằm thực hiện quyền
lực và lợi ích của nhân dân, đồng thời cũng thơng qua nó, giai cấp cơng nhân
và chính đảng của mình thực hiện sự lãnh đạo đối với tồn xã hội trong q
trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ
nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức
quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, được thể hiện tập trung qua hai

chức năng chủ yếu của nó, đó là chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã
hội.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha
hóa của con người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với
nhân dân lao động "phá hủy nhà nước tư sản" chiếm lấy chính quyền thiết lập
2


chun chính vơ sản. Bởi vì, "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời
kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nên chun chính cách mạng của giai
cấp vơ sản .
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp cơng nhân phải nắm vững cơng
cụ chun chính, phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở
thành một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo
vệ thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vơ sản, xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cịn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động
chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo
lực khi cần thiết. V.I.Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của
chuyên chính là trấn áp bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính
cách là một giai cấp. Đồng thời, trong thời kỳ quá độ cũng cịn có các giai
cấp, tầng lớn trung gian khác và do địa vị kinh tế - xã hội vốn có, các giai cấp
này thường dao động, khơng thể tự mình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước thực
tế đỏ, giai cấp công nhân phải tuyên truyền, thuyết phục, lơi cuốn họ đi theo

mình trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa
đóng vai trị là thiết chế cần thiết bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân
đối với tồn xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ,
vi phạm những giá trị dân chủ chuyên chính của nhân dân, địi hịi phải có
một thiết chế nhà nước phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhà nước phải được củng cố, xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và
3


phát triển thành quả của dân chủ. Dân chủ cần phải có chun chính để giữ
lấy dân chủ, để những hành vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân
được xử lý kịp thời... Các quyền đó phải được thể chế hóa trong hiến pháp,
pháp luật và được thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Do đó, q trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu
gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình này
cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ
định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề
tồn tại và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa
đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ
chủ yếu của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy,
để bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì việc xây
dựng và khơng ngừng hồn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa - một trong
những công cụ chủ yếu của quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
1.1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Chúng ta đều biết, chức năng của nhà nước vừa bị quy định, vừa là sự thể
hiện bản chất của nhà nước. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà chức năng
của nhà nước được đề cập, xem xét dưới nhiều góc độ. Trong bài viết này,
chúng tôi chỉ giới hạn ở phạm vi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của
quyền lực chính trị mà theo đó, bất kỳ nhà nước nào cũng đều có chức năng
thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng xã hội.
Theo quan niệm chung, chức năng giai cấp là cái chỉ ra rằng, mọi nhà
nước bao giờ cũng là cơng cụ chun chính của một giai cấp nhất định. Mọi
nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ công cụ, biện pháp nào có thể có để
4


bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Cịn chức năng xã hội của nhà nước là
cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt
động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số công việc
chung của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải hoạt động
để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý
của nó. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước
trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà
quản lý những công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề
chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vịng trật tự theo
quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, việc thực hiện chức
năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương
thức, là điều kiện để nhà nước đó thực hiện vai trị thống trị giai cấp của nó.
Nói về mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này, Ph.Ăngghen viết: “Ở
khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị
chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó cịn thực hiện chức năng xã hội của
nó”(1).
Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú
trọng đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin

vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó.
Nói về vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, chun chính vơ sản khơng phải chỉ là
bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực, mà mặt cơ
bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với việc tổ
chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Ơng viết: “Lần đầu tiên chun chính vơ sản, tức là thời kỳ quá độ
tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho
số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”(2).
Như vậy, có thể nói, bản thân chun chính vơ sản, theo quan điểm mácxít, tự
nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội.
5


Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực chất, là chính quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân chủ phải là nền
dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và thực chất nhất - đó là nền dân chủ bao
quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được
nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và không ngừng mở
rộng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự
phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn...”(3) đã
được V.I.Lênin coi là một trong những nhiệm vụ cấu thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội khơng cịn các giai cấp đối kháng,
nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế
và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như
mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa
muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt
chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân

dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối
các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ
sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững
địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp
sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có
nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội ln có mối quan hệ biện
chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều kiện
giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của
mình, thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; cịn chức
năng xã hội (mà trong đó, việc tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là
nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực tiếp sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc
6


xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa việc thực hiện chức
năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa là ở
chỗ, nhà nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư
cách là mục đích, mà là phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính
trị và kinh tế của thiểu số trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai
cấp công nhân và những người lao động khác. Theo đó, việc thực hiện chức
năng xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa luôn bị giới hạn trong một phạm
vi chật hẹp và bị chi phối bởi quan điểm của giai cấp tư sản, xuất phát từ
những lợi ích kinh tế và chính trị ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã hội.
Ngược lại, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa
được xác định là mục đích chứ khơng phải là phương tiện để nhà nước ấy
đảm bảo sự thống trị chính trị của nó. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội
chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho đại đa số những người lao
động, xây dựng những thiết chế, cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện
một cách thực sự trong thực tế.
1.2.


Lý luận về nhà nước pháp quyền

1.2.1. Khái niệm
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp
được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu
nhà nước pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế
- xã hội bằng pháp luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục
tùng pháp luật trước hết là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước.
Tại hội nghị quốc tế họp tại Benin (9/1991) với sự tham gia của 40
quốc gia đã đưa ra một quan niệm chung về nhà nước pháp quyền như sau:
“Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và cá nhân
phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được
7


bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống toà án độc lập. Nhà nước pháp quyền
có nghĩa vụ tơn trọng giá trị nhất của con người và đảm bảo cho cơng dân có
khả năng, điều kiện, chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập
ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt
động của bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải đảm bảo cho công dân
khơng bị địi hỏi bởi những cái ngồi Hiến pháp, và pháp luật đã quy định.
Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây
dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự do và quyền cơng dân”
1.2.2. Những lí luận của một số nhà triết học trước Mác về nhà nước pháp
quyền.
Trong thời kì cổ đại đã tồn tại quan niệm ấu trĩ,ngụy biện cho rằng sức
mạnh đẻ ra pháp luật, lẽ phải bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh. Những người

nắm giữ cơng quền thả sức hồnh hàn.Với vua chúa thì quyền lực của họ
dường như không bị hạn chế. Khắp nơi thịnh hành học thuyết “đặc miễn quốc
gia”, theo đó Nhà nước làm ra pháp luật thì phải đứng trên pháp luật.
Tư tưởng về nhà nước pháp quền ra đời nhằm chống lại sự chun
quyền, độc đốn,vơ chính phủ, vơ pháp luật đó, tức là gắn liền với việc xác
lập và phát triển nền dân chủ.
Salon, nhà thông thái Hy Lạp (thế kỷ XI TCN) đã nêu ra tư tưởng tổ
chức Nhà nước theo các nguyên tắc dân chủ. Ông ta cho rằng cần kết hợp sức
mạnh với pháp luật trong viềc tổ chức Nhà nước Ai Cập cổ đại.
Nhà triết học ở Hy Lạp Platon (427-347 TCN ) đã viết: Tơi nhìn thấy
sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào mà pháp luật khơng có hiệu
lực và nằm dưới quyền cuả một ai đó.Cịn ở nơi nào mà pháp luật đứng trên
các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là các nô lệ của pháp luật thì ở
đó tơi thấy có sự cứu thốt của Nhà nước.
Ariston (384-322 TCN ) khẳng định: Pháp luật cần thống trị trên tất cả.
8


Xixeron (104-44 TCN ) thể hiện tư tưởng về sự thống trị của pháp luật trong
đời sống Nhà nước bằng cách đặt câu hỏi :Nhà nước là gì nếu khơng phải là
trật tự chung.Theo ông, pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ Nhà nước. Ông
cho rằng :Nhà nước là Nhà nước pháp quyền không phải do Nhà nước tuân
thủ pháp luật của mình mà là vì cội nguồn,về bản chất, Nhà nước chính là
pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân dân.
Các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ chú trọng tới tính tối cao của pháp
luật, mà còn chú ý đến sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực Nhà nước, tổ
chức các cơ quan Nhà nước phân định rõ ràng thẩm quyền của từng cơ quan
đó.
Những nhà tưởng vĩ đại đó tiếp tục được các nhà tư tưởng chính trịpháp lý tư sản sau này phát triển như một thế giới mới. Đó là thế giới quan
chống lại một cách kịch liệt sự chuyên quền phong kiến và tình trạng vơ pháp

luật, chống lại các chế độ chuyên chế độc tài và cảnh sát, khẳng định mạnh
mẽ những tư tưởng nhân đạo,các nguyên tắc tự do và bình đẳng cá nhân, thừa
nhận những quyền của con người khơng thể bị tước đoạt, tìm tịi những cơ
cấu,hình thức và cơng cụ chống lại một cách khơng khoan nhượng tình trạng
vơ trách nhiệm của quyền lực đó đối với cá nhân và xã hội.Và chính đây là
nội dung cốt lõi của một học thuyết mới -học thuyết Nhà nước pháp quyền tư
sản. Học thuyết này ra đời phát triển ngày càng hoàn thiện qua các nhà tư
tưởng vĩ đại thời kì này như Loccơ, Monterquieu, Cantơ, Heghen, Mohn,
Kali…Cần phải thấy rằng, trong sự phát triển về mặt lịch sử và lý luận của
học thuyết Nhà nước pháp quyền chịu ảnh hưởng của hai dòng tư tưởng: Một
là, sự ngày càng khẳng định những quan niệm mới về tự do của con người
thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật-pháp luật tự nhiên. Hai là,
vấn đề xác lập mối tương quan quyền lực chính trị mới giữa giai cấp tư sản
đang lên về chế độ phong kiến đã lỗi thời. Hơn nữa, cần phải loại trừ tình

9


trạng độc quyền, bán quyền lực trong một người hay một cơ quan. Học thuyết
Nhà nước pháp quyền, vì lẽ đó, gắn liền với chủ nghĩa lập hiến tư sản.
1.2.3. Những lí luận của chủ nghĩa Mac-Lenin về vấn đề nhà nước pháp
quyền
Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước.
a. Nguồn gốc của nhà nước
Xét sự phát triển của xã hội cộng sản nguyên thuỷ: ta thấy rằng ở xã hội
cộng sản ngun thuỷ thì các cơng cụ sản xt đang cịn thơ sơ ,năng suất lao
động đang cịn thấp kém, vì thế người lao động chỉ đủ ăn chư chưa có sản
phẩm dư thừa, quan hệ sản xuất của con người là làm chung và của cải làm ra
đươc phân phát đều cho mọi người. Nhưng khi mà cơng cụ sản xuẩt đã được
cải tiên thì làm xuất hiện sản phẩm dư thừa, khi đó một số người nắm giữ vai

trò lãnh đạo sẽ chiếm làm của riêng và nó dẫn đến chỗ là quan hệ sản xuất cũ
lạc sẽ bị phá bỏ và thay vào đó là một quan hế sản xuât mới và cũng dẫn đến
việc ra đời của nhà nước chiếm hữu nô lệ.
Nguyên nhân sau xa sự ra đời của nhà nước là do sự ra đời của quan hệ sản
xuẩt chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuẩt. Còn nguyên nhân trực tiếp của sự
ra đời của nhà nươc là sự đấu tranh giai cấp.
Khi hai giai cấp đấu tranh quyết liệt thì sẽ xảy ra hai trường hợp là: Hai
giai cấp đấu tranh trong thời gian dài sẽ dẫn đến xã hội không thể phát triển
được hoặc Hai giai cấp đấu tranh quyết liệt sẽ dẫn đến sự tiêu vong làm cho
xã hội rối loạn khơng thể phát triển.
Vì thế cần có một tổ chức đứng ra làm trung gian hồ giải,tổ chức đó
chính là nhà nước.Nhưng chỉ có giai cấp nắm quyền bá chủ về kinh tế mới đủ
sức thành lập nên nhà nước,vì thế nhà nước lại là công cụ của giai cấp nắm
quyền về kinh tế để áp đặt lên các giai cấp khác, điều này càng làm cho mâu
thuẫn thêm gay gẳt.Vì thế nhà nước vẫn ln tồn tại và phát triển,thây đổi từ
hình thức này sang hình thức.
10


b. Bản chất nhà nước
+ Nhà nước do giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra
+ Nhà nước là một kiểu tổ chức xã hội có giai cấp.
+ Nhà nước thực hiện sự chuyên chính về mặt giai cấp của giai
cấp thống trị với các giai cấp khác.
c. Đặc trưng của nhà nước.
+) Quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ.
+) Có bộ máy quyền lực chun chính mang tính cưỡng chế với mọi thành
viên.
+) Hình thành hệ thống thuế để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
d. Chức năng của nhà nước

+) Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội: Chức
năng thống trị là chức năng mà Nhà nước làm cơng cụ chun chính của một
giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó với toàn xã hội.
+) Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng Nhà nước thực hiện sự
quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu
càu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng này thì chức năng thống trị chính trị là chức năng
cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phải phục vụ cho chức năng
thống trị chính trị.
+) Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước đều xuất phát từ
lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một nền thống nhất. Tính
chất của chức năng đối nội quyết định đến tính chất của chức năng đối ngoại
11


của nhà nước; ngước lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại
có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
Nhà nước chun chính vơ sản
Nhà nước chun chính vơ sản là một nhà nước kiều mới. Nhà nước
chun chính vơ sản là một nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Chun chính vơ sản đóng vai trị là thiết chế cần thiết để đảm bảo sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân lao động đưa xã hội theo
con đường xã hội chủ nghĩa. Chun chính vơ sản là sự thống trị của giai cấp
công nhân do cách mạng XHCN sản sinh và có sứ mạnh xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Trong lịch sử chưa từng có giai cấp nào bị áp bức bốc lột nào đạt được địa
vị thống trị mà không phải trải qua chun chính. Chủ nghĩa Mac-Lênin chỉ ra
rằng nhà nước vơ sản là nhà nước đặc biệt ,nhà nước khơng cịn nguyên nghĩa
là nhà nước nửa nhà nước.

Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cột trụ trong hệ
thống chính trị, là cơng cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực
hiện yền làm chủ của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.
Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật, quản lý bằng kế hoạch,
chính sách, địn bảy kinh tế.
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước kiểu mới,
được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mac-LêNin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là một Nhà nước đồn kết tồn dân, dựa trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản. Đó là một Nhà nước khác về chất so với Nhà nước tư
sản, và các kiểu Nhà nước trước đây chứa đựng thuộc tính áp bức bất bình
đẳng và bất cơng
Nhà nước CHXHCN Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước
pháp quyền của dân,do dân, vì dân,liên minh giai cấp cơng nhân và nhân
12


dân,các từng lớp trí thức làm nền tảng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam.
Nhà nước được thành lập ra thơng qua tổng tuyển cử tồn dân,dưới sự
kiểm soát của nhân dân, Nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc lập pháp,hành
pháp,tư pháp.

13


CHƯƠNG II: Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC- LÊNIN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
2.1. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay
từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn
vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc
hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về
chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946,
năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và
thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động
của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, q trình xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay
từ Tun ngơn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã
trải qua hơn nửa thế kỷ với nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá
trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với nhiều địi hỏi
và nhu cầu cải cách mới.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây
dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có
tính mục tiêu như vậy, cơng cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ
nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy
còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế tồn cầu hóa. Nhu cầu hội
14


nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà
nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có

hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội,
thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời
sống quốc tế.
2.2. Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu các di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
về nhà nước, tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh và kế thừa những giá trị phổ biến của các lý luận triết học pháp quyền
trong lịch sử có thể khái quát như sau:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân,
do dân, vì dân; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng duy nhất là Đảng
Cộng sản Việt Nam; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để
nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập xã hội chủ nghĩa theo mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, góp phần
tích cực và cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ
trên thế giới.
2.3. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Một là, Nhà nước ta là Nhà nước cúa nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là nguyên tắc cơ bản,
được khẳng định trong chỉ đạo quá trình xây dựng Nhà nước, được ghi nhận
trong các Hiến pháp của Nhà nước ta và được thể hiện cụ thể trong các quy
định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ Trung ương
đến địa phương; của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, xác định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
15


quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục

thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.
Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp,
quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước và thực hiện quyền
giám sát tối cao.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ
thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại của đất nước.
Chính quyền địa phương ln ln được chăm lo củng cố theo quy
định của các Hiến pháp với việc hình thành Hội đồng nhân dân do nhân dân
địa phương trực tiếp bầu ra và Hội đồng nhân dân bầu các thành viên của Uỷ
ban nhân dân.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh
các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hệ thống pháp luật phải thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân,
phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật phải
được chính Nhà nước, cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước và mọi
người, mọi tổ chức trong xã hội tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Hiến
pháp năm 1992 đã xác định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”. Nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
16


Ngay Đảng Cộng sản Việt Nam, được toàn thể nhân dân Việt Nam thừa nhận
vị trí, vai trị lãnh đạo đất nước và Hiến pháp khẳng định Đảng “là lực lượng

lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, đồng thời, Hiến pháp cũng xác định: “Mọi tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân
chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế
mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Sáu là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; sự giám sát của nhân dân và sự
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
của Mặt trận.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẶC THÙ
KINH TẾ VIỆT NAM
3.1. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
3.1.1. Thành tựu
Một là, chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã được thay đổi phù hợp với cơ sở kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan hệ Nhà nước - công dân, Nhà nước - thị
trường, Nhà nước -doanh nghiệp được nhận thức lại và thay đổi từ mang nặng
quản lý sang theo hướng Nhà nước kiến tạo, phát triển.
Hai là, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của
tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong
hoạt động. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức
17




×