Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

hành vi chửi thề, nói tục hiện nay của nhóm thanh thiếu niên việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.97 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài............................................................................1
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài...................................................2
1.3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................2
1.4. Bố cục bài luận...............................................................................3
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................4
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ NÓI TỤC CHỬI THỀ VÀ THỰC
TRẠNG THANH THIẾU NIÊN SINH VIÊN HIỆN NAY.....................4
2.1.1. Giao tiếp và văn hóa giao tiếp.....................................................4
2.1.2. Khái niệm nói tục chửi thề.........................................................4
2.1.3. Biểu hiện của hiện tượng nói tục, chửi thề trong xã hội.............6
2.1.4. Đánh giá thanh thiếu niên Việt Nam...........................................6
2.2. THỰC TRẠNG HÀNH VI CHỬI THỀ, NÓI TỤC HIỆN NAY
CỦA THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM................................................8
2.2.1. Thực trạng hành vi nói tục chửi bậy của thanh niên sinh viên
Việt Nam...............................................................................................8
2.2.2. Nguyên nhân nói tục chửi thề của thanh thiếu niên hiện nay....11
2.2.3. Hệ quả của việc nói bậy............................................................13
2.3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ HIỆN TƯỢNG
NÓI TỤC HIỆN NAY CỦA THANH NIÊN NHẰM XÂY DỰNG XÃ
HỘI VĂN MINH LÀNH MẠNH HƠN...................................................15
2.3.1. Đối với sinh viên.......................................................................15
2.3.2. Đối với gia đình.........................................................................17
i


2.3.3. Đối với nhà trường....................................................................17
2.3.4. Đối với xã hội...........................................................................17
2.3.5. Đối với không gian mạng..........................................................18
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................20


TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................21
PHỤ LỤC.......................................................................................................22

ii


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, ơng bà ta đã có câu tục ngữ để răn dạy con cháu ngay từ
thuở còn thơ rằng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”, như vậy, chứng tỏ lời
ăn tiếng nói là một vấn đề hết sức quan trọng, cần phải học hỏi và trau dồi
liên tục. Lời nói là phương tiện giao tiếp chủ yếu nhất của con người, thơng
qua đó những tâm tư tình cảm được bộc lộ một cách rõ ràng và trực tiếp nhất
mà khơng một phương tiện giao tiếp nào khác có thể thay thế được. Lời ăn,
tiếng nói cũng thể hiện được những nét đẹp riêng biệt trong ngôn ngữ của mỗi
quốc gia dân tộc, việc phát ngôn bất kỳ một vấn đề nào cũng cần được kiểm
tra và có sự chuẩn bị, khơng phải cứ thích là nói, là bng lời một cách vơ tổ
chức, chẳng thế mới có cây: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Thế nhưng có
một thực trạng rất đáng buồn hiện nay rằng một bộ phận giới trẻ không nhận
thức được tầm quan trọng của lời nói và những phát ngơn của bản thân mình
khi đứng trong một cuộc giao tiếp với người khác. Họ dễ dàng bng ra
những lời nói thiếu văn hóa, những câu nói tục, chửi thề mà khơng biết
ngượng miệng, thậm chí cịn cho đó là trị vui, là cách thể hiện bản thân. Đây
là một vấn đề hết sức đáng quan tâm và cần chấn chỉnh để có một xã hội văn
minh, sạch đẹp hơn.
Vậy thì, là những sinh viên thời đại mới, những người trẻ tri thức,
ngoài những hành trang tri thức để hòa nhập vào thế giới, sao khơng tơ đẹp
cho mình, cho xã hội bằng những ngơn từ giao tiếp thật sự “đẹp” đúng nghĩa.
Và làm thế nào để trong q trình trao đổi thơng tin, giao tiếp với nhau hàng
ngày, chúng ta – những sinh viên đương đại có thể được thoải mái, thân thiện,

dễ hiểu mà vẫn văn minh, lịch sự và không bị “ô nhiễm”??.
Chính từ những suy nghĩ và những băn khoăn đó, tác giả đã đi tới
việc nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu về sự “Hành vi chửi thề, nói tục hiện nay
1


của nhóm thanh thiếu niên Việt Nam”. Với mục đích nhằm làm rõ thực
trạng chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay. Đồng thời đi tìm hiểu
mức độ quan tâm và thái độ của họ tới vấn đề này. Hơn nữa, qua việc nghiên
cứu này, tác giả một lần nữa nhìn lại chính tác phong, cách sử dụng ngơn ngữ
giao tiếp của chính bản thân mình sao cho xứng là những sinh viên Việt trẻ
thanh lịch.
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Tình trạng chửi thề trong giao tiếp của sinh viện hiện nay đang rất phổ
biến và càng ngày càng lan rộng ra. Đó là một hành vi không chỉ là lệch lạc
trong sử dụng ngôn ngữ giao tiếp mà còn làm mất đi nét đẹp của văn hóa giao
tiếp, làm mất đi sự trong sang của tiếng việt cũng như lệch lạc về thái độ,
hành vi đạo đức, nhận thức của sinh viên - tầng lớp tri thức.
Thiết nghĩ, đề tài mà nhóm chũng tơi nghiên cứu cũng có ý nghĩa
khơng nhỏ trong việc góp phần gìn giữ sự trong sang của tiếng Việt, nâng cao
văn hóa học đường, cải thiện tình trạng sử dụng ngơn ngữ lệch lạc, nâng cao
tình văn minh lịch sự trong giao tiếp… do đó việc nghiên cứu đề tài đặt ra
mục tiêu và nhiệm vụ như sau:
Đưa ra cái nhìn chung khái quát, cụ thể về hiện trạng lệch lạc ngôn ngữ
từ việc “chửi thề” trong giao tiếp của sinh viên hiện nay cũng như về mức độ
quan tâm, thái độ đánh giá của các bạn sinh viên về vấn đề này. Cũng như
mức độ quan tâm, thái độ đánh giá của họ.
Làm rõ được nguyên nhân dẫn tới thực trạng “chửi thề trong giao tiếp”
của sinh viên. Đưa ra được những ý kiến, những nhận định nhằm góp phần
gìn giữ nét đẹp truyền thống trong ngơn ngữ giao tiếp cũng như tính văn

minh, lịch sự trong q trình giao tiếp. Đóng góp những giải pháp nhằm cải
thiện thực trạng sinh viên “chửi thề” trong giao tiếp.

2


1.3. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, tiểu luận sử dụng những phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng
trong đề tài này bao gồm phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích tổng hợp và đối chiếu.
Số liệu nghiên cứu được tác giả thu thập thông qua Google form với 43
câu trả lời được thu thập trong ngày 25-26 tháng 11 năm 2022.
1.4. Bố cục bài luận
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, cũng như các phần phụ lục
khác, kết cấu đề tài gồm các nội dung như sau:

Do kiến thức và kinh nghiệm chưa nhiều, lại bị hạn chế về thời gian
nên tiểu luận không tránh khái những khiếm khuyết. Với tinh thần thực sự
muốn hiểu biết thêm về đề tài và muốn có nhiều kiến thức thực tế, em rất
mong nhận

3


PHẦN II: NỘI DUNG
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ NÓI TỤC CHỬI THỀ VÀ THỰC
TRẠNG THANH THIẾU NIÊN SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1.1. Giao tiếp và văn hóa giao tiếp
Giao tiếp là sự xác lập và vận hành các mối quan hệ giữa người và

người, hoặc giữa người và các yếu tố xã hội khác nhằm thỏa mãn những nhu
cầu nhất định.
Giao tiếp được biểu hiện tương đối đa dạng bao gồm trao đổi thông tin,
xây dựng chiến lược hoạt động phối hợp, tri giác và tìm hiểu người khác.
Tương ứng với các yếu tố đó, giao tiếp được nhìn nhận với 3 góc độ khác
nhau, đó là giao lưu, tác động qua lại và tri giác.
Văn hóa giao tiếp là một bộ phận trong tổng thể văn hóa dùng để chỉ ra
các quan hệ giao tiếp của con người với nhau trong cuộc sống, là tổ hợp của
các thành tố như cử chỉ, lời nói, hành vi, thái độ và cách ứng xử. Văn hóa giao
tiếp xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống như nơi làm việc,
nơi cơng cộng, gia đình… Văn hóa giao tiếp được hiểu là một bộ phận trong
tổng thể văn hóa, dùng để chỉ sự giao tiếp của con người với nhau.
2.1.2. Khái niệm nói tục chửi thề
Khi bản đến khái niệm hành vi nói tục, chửi tục. Theo Đại từ điển tiếng
Việt (Nguyễn Như Ý. 2013, tr. 1197) thì nói tục là nói những những lời tục
tĩu, mất lịch sự.
Nói tục: là hành động giao tiếp sử dụng ngôn từ tục, mang tính chủ
động, được thực hiện trong mơi trường thân thuộc, nhằm mục đích tìm kiếm
cảm giác thích thú từ việc “phá cẩm” những chuẩn mực xã hội trong việc sử
dụng ngôn từ tục, là cách giải tỏa những ẩn ức tỉnh dục khi bị xã hội cấm
kỵ. ..người ta sẽ dùng đến từ ngữ phi chính thống nếu trong tư duy của họ
4


xuất hiện sự khao khát muốn tìm lại lạc thủ tử việc vi phạm cấm kỵ” (Trần
Duy Khương, 2008). Môi trường nói tục là mơi trường quen thuộc như: bạn
bé hoặc những người có cùng sở thích nói tục, cịn trong mơi trưởng xã giao
cơng khai, người ta rất ít, hiểm khi dùng vi e dễ người khác sẽ đánh giá xấu
về mình hoặc nghi ngờ mục đích phát ngơn của mình. Việc kiểm sốt điều lại
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ học vấn, khả năng kiểm sốt suy

nghĩ, trạng thái cảm xúc, mơi trường sinh sống,.
Theo Tử điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (1977) thị “chửi là dùng
lời độc ác và thơ tục nói phạm đến người khác", còn theo tử điền Tiếng việt
do Hoảng Phê chủ biên (1992) thi chữi là “thốt ra những lời cay độc để làm
nhục cho hà giận”. Còn Từ điển American Heritage Dictionary of the English
Language, Fourth Edition coi chửi (vituperate) là động từ chỉ việc quở trách
hay chỉ trích gay gắt hoặc q mức, trách móc; hay là việc sử dụng ngôn ngữ
gay gắt, chửi rủa om sòm. Như vậy, chửi tục là hành động giao tiếp sử dụng
ngôn từ tục để bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình đối với một đối
tượng cụ thể, nhằm giải tỏa những ẩn ức tâm lý của người chữ
Từ các nghiên cứu có thể thấy trong xã hội ghi nhận sự tồn tại hai
luồng quan điểm giữa tính phi giá trị (cho rằng đó là hiện tượng phản chuẩn
cần bị xã hội lên án và nghiêm cấm sử dụng) và tính giá trị (cơng nhận những
giá trị về mặt nghệ thuật, giả trị về mặt biểu trưng cho văn hoả dân tộc, giả trị
về mặt tâm lý, xã hội....) của hiện tượng, đặc biệt trong văn hoá Việt Nam. Sự
tồn tại cả hai quan điểm trên là điều mà các định nghĩa trước đây chưa khái
quát được.
Như vậy, hành vi nói tục/chửi tục là hành động sử dụng ngôn từ tục,
dùng lời độc ác và thô tục nói phạm đến người khác mang tính chủ động,
được thực hiện trong mơi trường thân thuộc, nhằm mục đích tìm kiếm cảm
giác thích thủ từ việc phá những chuẩn mực xã hội, là cách giải tỏa những ẩn
ức của bản thân.
5


Nói tục hay chửi tục trong giao tiếp có nhiều điểm tương đồng về ngôn
ngữ và ý nghĩa, khi từ tục đã nói ra thì việc biến thành chửi chỉ khác nhau ở
cách thể hiện của người sử dụng. Do đó, trong bài viết chúng tơi sử dụng cụm
từ nói tục hay chửi tục đều là hành vi ngôn ngữ được bộc lộ ở nhóm sinh viên.
2.1.3. Biểu hiện của hiện tượng nói tục, chửi thề trong xã hội

Trên mạng xã hội, nơi giới trẻ vẫn “sinh hoạt” hàng ngày, có nhiều
cách biến tấu tiếng Việt, sử dụng những từ ngữ, cách nói chuyện lạ lẫm mà
tiêu biểu là cách dùng những chữ viết tắt mang nghĩa nói tục, chửi thề khi
tham gia bình luận trên mạng xã hội. Điều đặc biệt là những chữ viết tắt ấy
xuất hiện với tần suất dày đặc.
Ví dụ như: ccmn (chuẩn cơm mẹ nấu), CLGT (cần lời giải thích),VL
(vãi lúa), lol (Laugh out loud – cười to), ôi cái ĐM (ôi cái định mệnh)…
Khơng chỉ các nam thanh niên mới quen nói tục, chửi bậy trên mạng
mà các nữ tú cũng bình luận bằng những từ nói tục, chửi bậy rất nhiều.
2.1.4. Đánh giá thanh thiếu niên Việt Nam
Đánh giá chung
Trước hết, có thể khẳng định thanh niên sinh viên hiện nay rất năng
động, nhạy bén với cuộc sống và công việc, bên cạnh đó họ tiếp thu được
nhiều phẩm chất tốt đẹp: chăm chỉ, kiên chì và nỗ lực. Chúng ta rút ra được
những kết luận ấy khi chứng kiến lớp thanh niên đã đạt đạt được những thành
tựu cùng với sự đổi mới của đất nước. Nếu như trước đây chúng ta chỉ thấy
những sinh viên học hành cần cù luôn cắm đầu vào đọc sách, dù mài kinh sử
để sau khi tốt nghiệp lấy được bằng cử nhân được Nhà nước phân công đi
công tác mà một số người đã quên hết cả xung quanh. Nếu chúng ta cũng chỉ
thấy một lớp thanh niên ở nông thôn chưa đầy hai mươi đã lập gia đình suốt
ngày phơi lưng ra đồng, quần quật vất vả thì giờ đây chúng ta thấy một giới
sôi động đầy màu sắc của thanh niên, sinh viên, họ chỉ chăm chú học tập mà
6


còn biết vận dụng những kiến thức được học vào cuộc sống. Tham gia các
hoạt động xã hội, xông sáo và nhạy bén “họ có nhiều điều kiện để phát
chuyển khả năng sáng tạo, do có đầy đủ thơng tin, cuộc sống chắt lược tốt
hơn, và chủ động hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp tốt cả những cái đó
làm họ năng động hơn”.

Thanh niên Việt Nam du học ngày càng nhiều ở rất nhiều nước trên thế
giới đã mang về cho đất nước những tiến sĩ trẻ nắm vững kiến thức chuyên
ngành đảm nhiệm phát chuyển những ngành mũi nhọn nhằm đẩy mạnh sự
phát chuyển kinh tế, khoa học, kỹ thuật.
Thực trạng nhân cách sinh viên
Nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay, ngoài những
đặc điểm chung của nhân cách, thì cịn có những biểu hiện riêng về phẩm chất
đạo đức và năng lực, như sinh viên hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế
hơn. So với các thế hệ sinh viên trước đổi mới, sinh viên hiện nay có tính thực
tế cao. Chọn ngành học là biểu hiện đầu tiên của tính thực tế. Họ tập trung
nhất vào những ngành học mà ra trường có thể xin việc được ngay vì xã hội
đang cần, những nghề có thu nhập cao, chỉ số ít sinh viên chọn nghề theo mơ
ước.
Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức
tiếp nhận tri thức để hồn thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động
trong quá trình tham gia vào hoạt động xã hội: Làm thêm dưới nhiều hình
thức thời gian (nửa ngày, vài ngày trong một tuần, buổi tối), phong phú về
nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc nhà...). Một số sinh viên có tham vọng
trở thành những nhà kinh doanh giỏi đã mở cửa hàng kinh doanh thể hiện tính
chủ động, sáng tạo cao trong cơng việc của mình.
Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở việc rất nhiều sinh viên
tham gia nghiên cứu khoa học và đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, quốc
7


gia, giải thưởng Tài năng trẻ Việt Nam hàng năm do Bộ Giáo dục và Đào tạo
tổ chức...
Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác
động mạnh mẽ đến q trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt
Nam hiện nay. Sinh viên ln có ý thức cao việc khẳng định nhân cách bằng

cách trau dồi kiến thức chuyên môn, khẳng định vị trí của mình trước xã hội.
Đồng thời, họ thể hiện rõ vai trị cá nhân, lợi ích cá nhân trong hành động. Lợi
ích chung và sự quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh dường như bị
lấn át bởi việc thực hiện những lợi ích riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận
sinh viên.
Sinh viên xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình: Lý
tưởng cao cả của sinh viên Việt Nam hiện nay là giữ vững nền độc lập dân tộc
và xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, đạo đức cộng sản là yếu
tố cấu thành quan trọng nên lý tưởng của sinh viên. Khẳng định điều này vì
đạo đức là thành phần đặc biệt trong nhân cách của sinh viên, cái để phân biệt
sự khác nhau giữa nhân cách này với nhân cách khác xuất phát từ điểm gốc là
"đức" trong mỗi con người.
Trong thời đại hiện nay, mỗi sinh viên hiểu rằng, sống có lý tưởng
trước hết phải trân trọng và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành
quả được đổi bằng biết bao mồ hôi và xương máu của các thế hệ cha ông
trong dựng nước và giữ nước. Thứ hai, sinh viên phải dốc lịng học tập, rèn
luyện để góp sức mình thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước
tiến những bước vững chắc trong quá trình hội nhập, phát triển trong bối cảnh
tồn cầu hóa. Họ hiểu muốn củng cố và bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc
chỉ có một con đường duy nhất đúng là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội.

8


2.2. THỰC TRẠNG HÀNH VI CHỬI THỀ, NÓI TỤC HIỆN NAY
CỦA THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
2.2.1. Thực trạng hành vi nói tục chửi bậy của thanh niên sinh viên Việt Nam
Trong xã hội đang phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa với nền kinh
tế thị trường như thế này thì sự giao tiếp là một nhu cầu cần thiết đối với con

người nói chung và tầng lớp sinh viên nói riêng. Như chúng ta đã biết, giao
tiếp là để tạo sự gần gũi và hiểu nhau hơn, tăng mối quan hệ giữa người với
người trong xã hội. Nhưng bên cạnh đó một bộ phận khơng nhỏ - tâng lớp
sinh viên, tầng lớp tri thức đang ngày càng có xu hướng đi ngược lại với nét
đẹp truyền thống của ông cha ta trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt cũng như sự trong sáng của văn háo giao tiếp. Đó chính là hành vi lệch
lạc ngơn ngữ, đặc biệt là việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay,
và thực trạng đang ngày càng có xu hướng tăng lên.
Theo điều tra của tác giả cho thấy, trong tổng số 43 mẫu trả lời (10
nam/ 32 nữ/ 1 khác) trong đó phần lớn thuộc độ tuổi từ 18-22( 32 mẫu), ngoài
8/43 bạn (17.8%) cho biết chưa bao giờ chửi thề trong giao tiếp thì có tới
83.2% các bạn học sinh sinh viên thừa nhận là đã từng chửi thề trong giao
tiếp. Trong đó 12 bạn (chiếm 26.7%) thường xuyên chửi thề, và đặc biệt có 2
bạn rất thường xuyên chửi thề trong giao tiếp, và 22 bạn (chiếm 48,9%) thỉnh
thoảng chửi thề. Điều này cho thấy tình trạng sinh viên hiện nay chửi thề
trong giao tiếp là rất nhiều và đang ở mức độ cao.

9


Hình 1: Khảo sát mức độ nói tục chửi thề

Mặc dù đa phần mẫu khảo sát đều được thực hiện bởi các bạn nữ được mệnh danh là phái yếu, phái đẹp, dịu dàng trong ăn nói và cử chỉ, nhưng
qua 83,2% số sinh viên chửi thề trong quá trình giao tiếp cho thấy không
những các bạn nam chửi thề mà các bạn nữ vậy mà cũng có những hành vi
lệch lạc - chửi thề trong giao tiếp.

Hình 2: Khảo sát đối tượng nói tục chửi thề nhiều nhất

Học sinh, sinh viên vừa là tầng lớp tri thức lại là những người chủ

tương lai của đất nước thì trách nhiệm đó lại càng nặng nề hơn. Tuy vậy, con
số 88.9% mẫu khảo sát lại cho rằng độ tuổi từ 12-22 lại là đối tượng chửi thề
và văng tục nhiều nhất, một con số q lớn đã nói lên điều đó.
Tình trạng mà học sinh, sinh viên sử dụng ngôn ngữ lệch chuẩn như
chửi thề trong giao tiếp đang ngày càng nhiều, ở vào mức báo động. Vậy
nhưng có đến hơn nửa kết quả khảo sát cho rằng hành vi nói tục, chửi thề là
bình thường. Đó thực sự là một nỗi lo của xã hội.
10


Hình 3: Khảo sát “Nói tục chửi thề là xấu?”

Theo như nhìn nhận của đa số sinh viên được khảo sát thì việc chửi thề
trong giao tiếp ngày càng có nhiều người sử dụng, và sử dụng mọi lúc mọi nơi
ảnh hưởng đến môi trường sống và học tập của chính họ. Nhưng những nhận
xét đó cho thấy, các bạn đã có sự quan tâm tới hiện tượng này và cũng là cách
nhìn nhận của chính các bạn về “lời ăn tiếng nói” hàng ngày đang diễn ra
trong chính mơi trường mà các bạn đang sống và học tập. Đây là một hồi
chuông đang báo động. Nếu như hiện tượng này kéo dài thì sẽ làm mất đi sự
trong sáng của văn hóa giao tiếp.
Nói tục, chửi thề nhiều trong giao tiếp là một trong những xu hướng
không tốt của một bộ phận sinh viên hiện nay. Các bạn sinh viên cũng đã nhìn
nhận chính sự thật đang diễn ra hàng ngày trong và xung quanh môi trường
sống, sinh hoạt của mình. Nói, đệm, văng những từ như vậy có khi đã trở
thành một căn bệnh truyền nhiễm, và dường như việc nói tục của một số bạn
sinh viên khơng chỉ đơn thuần là thói quen, làm cho câu chuyện vui vẻ, mà
thật đáng buồn cười là các bạn xem đó là phong cách để thể hiện mình. Hiện
nay khơng chỉ có các bạn tuổi teen nói chuyện với nhau dùng những từ ngữ
thô tục, mà ngay cả các bạn sinh viên ở các trường đại học cũng vậy.
2.2.2. Nguyên nhân nói tục chửi thề của thanh thiếu niên hiện nay

Có nhiều ngun nhân dẫn đén tình trạng nói tục, chửi bậy của học sinh
và sinh viên hiện nay, nguyên nhân hàng đầu là do họ được tiếp xúc trực tiếp
11


với những từ ngữ không chuẩn mực hàng ngày kể cả ở những địa điểm công
cộng. Khảo sát cho thấy 97.8% đồng ý rằng họ bắt gặp tình trạng nói tục tại
địa điểm cơng cộng, trong đó 46,7% cho rằng chuyện này xảy ra thường
xuyên.

Hình 4: Khảo sát mức độ bắt gặp tình trạng nói tục chửi thề ở nơi cơng cộng

Trong đó các địa điểm cơng cộng thường xảy ra tình trạng ngơn ngữ
thiếu chuẩn mực nhất được khảo sát là mạng xã hội(với 66,7%), trường
học( 62,2%), phương tiện công cộng(57,8%) và chợ, siêu thị, khu dân cư với
hơn 50% đồng ý.

Hình 5: Địa điểm thường xảy ra hiện thượng nói tục chửi bậy

Nói tục, chửi thề khơng tự nó phát sinh và lây lan mà do những nguyên
nhân nhất định. Đầu tiện, phải kể đến việc hình thành các mạng xã hội đã tạo
điều kiện cho các bạn trẻ tự xây dựng một thế giới riêng mình. Họ được thỏa
sức làm điều họ muốn trong một thế giới ảo. Trong thế giới đó, nhiều chuẩn
12


mực, lễ nghi trong giao tiếp ngồi đời đã khơng cịn nữa. Vì thế, những cách
dùng những chữ viết tắt mang nghĩa nói tục, chửi thề khi tham gia bình luận
trên mạng xã hội trở nên phổ biến.
Các hành vi vơ văn hóa được cổ động ảo gây nên sự lây lan khơng thể

kiểm sốt được, đã biến cái xấu thành cái được ủng hộ, tung hô, gây ra sự ngộ
nhận. Thêm vào đó, tính tị mị, hành vi thiếu trách nhiệm của giới trẻ đã góp
sức đẩy mạnh sự lây lan của cái xấu, cái thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội.
Suy nghĩ, ý thức và hành động của giới trẻ đối với tiếng mẹ đẻ chưa
thực sự đúng đắn. Họ thiếu hẳn lịng tơn trọng đối với tiếng nói của dân tộc.
Họ cho rằng phải chêm vào những từ viết tắt mang nghĩa nói tục, chửi thề như
thế thì mới chứng tỏ mình sành điệu, hiểu biết, khơng “lạc hậu”, hoặc như thế
cho vui, cho câu chuyện thu hút… Từ suy nghĩ đến hành động tạo ra một độ
lệch lớn, hình thành thói quen ngon ngữ xấu xí, lạc lõng, vơ văn hóa.
Hiện tượng nói tục, chửi thề, sử dụng ngôn ngữ chát phổ biến đến nổi
những học sinh nghiêm túc nhất cũng bị ảnh hưởng từ bạn bè nói, sau đó
thành quen, rồi cũng nói theo. Trong tư tưởng của họ, phát ngôn những từ như
vậy không phải là xấu, là hư hỏng, mà đó là ngơn ngữ giao tiếp bình thường,
là lẽ thường.
Cũng phải nhìn nhận một thực tế là các nhà trường hiện nay vẫn
nghiêng nhiều hơn về dạy kiến thức mà chưa chú trọng nhiều đến việc điều
chỉnh hành vi, lối sống của học sinh. Việc giáo dục ngôn ngữ và đạo đức cho
học sinh của nhà trường phần lớn còn nằm trên khẩu hiệu chứ chưa thực sự
được tiến hành ráo riết. Nhà trường thiếu những sân chơi giáo dụ học sinh văn
hóa sử dụng ngôn ngữ lành mạnh, văn minh và tiến bộ, chưa thực sự khẳng
định vai trị của ngơn ngữ và văn hóa sử dụng ngơn ngữ đối với con người.
Gia đình, xã hội bỏ mặc, thờ ơ trước hiện tượng lệch lạc trong ngơn
ngữ của con em mình. Thậm chí, họ cho rằng đó là một lối giao tiếp mới, có
13


hả năng hòa hợp cá nhân và cộng đồng khi những loại ngôn ngữ ấy quá phổ
biến.
Các nhà ngôn ngữ, các cấp chức năng chưa có những hành động thiết
thực chấn chỉnh, điều hướng và hình thành thói quen sử dụng ngôn ngữ tốt

đẹp cho xã hội. Họ thả nổi những loại ngơn ngữ xấu xí, bị lợi dụng, để cho
ngơn ngữ dân tộc bị biến dạng mà chưa có bất cứ một hành động nào.
2.2.3. Hệ quả của việc nói bậy
Nói tục chửi thề đã để lại hậu quả vô vô cùng nghiêm trọng đối với thế
hệ trẻ và đối với xã hội. Thường xuyên nói tục chửi thề làm ảnh hưởng tiêu
cực đến nhân cách, phẩm chất đạo đức của người học bị suy đồi. Biến con
người mình thành kẻ thiếu học thức, bị mọi người xung quanh đánh giá là vơ
văn hóa, thậm chí cịn bị mọi người xa lánh, ghét bỏ. Việc nói tục, chửi thề
tùy tiện trong khi giao tiếp trở nên xấu xí trong mắt người khác, bị mọi người
khinh thường. Đồng thời việc nói tục, chửi thề làm cho kỹ năng giao tiếp của
học sinh, sinh viên trở nên yếu kém vì những phát ngơn lệch chuẩn. Vậy
nhưng có đến 58.1% số người được khảo sát cho rằng việc nói tục chửi thề là
bình thường và 68.9% đồng ý rằng việc nói tục chỉ là để vui miệng và khiến
câu chuyện trở lên hấp dẫn hơn.

Hình 6: Cảm nhận đối với những người nói tục chửi thề

14


Hình 7: Ngun nhân của hiện tượng nói tục chửi thề

Nhiều người trong khi giao tiếp thường hay sử dụng những ngôn ngữ
thô lỗ, tục tĩu là tự đánh mất vẻ đẹp văn minh của xã hội, làm giảm đi giá trị
của một con người, khiến cho bản thân họ không nhận được sự tôn trọng đánh
giá cao từ những người xung quanh. Chẳng hạn như trong môi trường học
đường chúng ta cũng hay bắt gặp những bạn học sinh nói chuyện với nhau
thường hay dùng những từ tục tĩu, hoặc khi chửi nhau cũng vậy. Những lời lẽ
đó nó khơng tơn lên cái đẹp của bản thân bạn đó trước mặt những người khác
mà cịn làm xấu đi hình ảnh của những bạn học sinh đang còn trong sáng như

trang giấy trắng trong mắt các thầy cô, các bậc phụ huynh. Những bạn nam
thì sẽ mất điểm trước những bạn nữ vì ăn nói vơ dun, xấu xí khơng kiểm
sốt như vậy.
Khơng chỉ như vậy nói tục, chửi thề còn ảnh hưởng rất lớn đến người
khác. Nhất là trong trường hợp nói tục chửi thề với mục đích lăng mạ, sỉ nhục
người đối diện. Hành động đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự,
nhân phẩm, lòng tự trọng của người bị lăng mạ. Nếu việc này cứ lặp đi lặp lại
nhiều lần, có thể gây tâm lý bức bối, ức chế, khơng kiểm sốt được bản thân
dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Thực sự đã có nhiều vụ bạo lực học
đường xảy ra cũng chỉ vì một câu nói tục, hay từ một cái nhìn đểu. Đây cũng
chính là nguyên nhân làm tăng sự mâu thuẫn và tranh chấp giữa người với
15


người trong xã hội có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng như đánh nhau
hoặc có thể ảnh hưởng đến tính mạng.
2.3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ HIỆN TƯỢNG
NÓI TỤC HIỆN NAY CỦA THANH NIÊN NHẰM XÂY DỰNG
XÃ HỘI VĂN MINH LÀNH MẠNH HƠN
Trước tình trạng sinh viên - tầng lớp trẻ tri thức của đất nước “chửi
thề” trong giao tiếp ngày càng nhiều như hiện nay, mà xã hội, gia đình và nhà
trường chưa có một hướng giải quyết nào đi giải quyết triệt để vấn đề này.
Chính vì lẽ đó, trong q trình tìm hiểu nghiên cứu về đề tài, đúc rút được
một số điều cần thiết có ích cho việc tìm ra những hướng giải quyết tối ưu để
giảm bớt thực trạng trên, nên nhóm tác giả cũng xin đưa ra một số giải pháp
đối với từng nhóm đối tượng có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới
hiện trạng trên như sau:
2.3.1. Đối với sinh viên
Xét từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh thì chúng tơi thấy rằng bằng cách
này hay cách khác muốn giảm bớt tình trạng sinh viên chửi thề trong giao tiếp

trước tiên phải lấy giáo dục nhận thức, đánh động tới ý thức của sinh viên là
việc làm hàng đầu. Bởi những suy nghĩ, cách nhìn nhận của sinh viên là điều
quan trọng, nếu như sinh viên suy nghĩ chệch hướng, nhận thức sai lệch sẽ
dẫn đến hành vi ứng xử cũng lệch lạc theo. Do đó, theo nhóm nghiên cứu cho
rằng chính các bạn sinh viên cần phải tự ý thức được những hành vi đó là lệch
lạc hay khơng để từ đó kiểm sốt hành vi của mình.
Các bạn sinh viên cần thường xuyên tìm hiểu về những giá trị văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, của cha ơng và từ đó mà học hỏi và lưu giữ những nét đẹp
truyền thống đó, nhất là nét đẹp, sự trong sáng trong văn hóa giao tiếp.

16


Các bạn nên thường xuyên trao đổi với nhau những lời hay ý đẹp,
những cách thức ứng xử với nhau và với mọi người trong xã hội sao cho
đúng, cho hợp.
Là tầng lớp tri thức, học nhiều, biết nhiều, các bạn nên là những người
đi đầu trong việc giữ gìn tính văn minh lịch sự trong giao tiếp. Ăn nói phải có
suy nghĩ, phải giữ ý tứ. Đồng thời đó cũng là tạo cho mình một thói quen tốt.
Đặc biệt, khi thấy bạn mình hay thậm chí là những người khác nói
chuyện bất lịch sự hay chửi thề thì phải có thái độ phản ứng, và lên tiếng phê
phán để cho người ta thấy ngại mà khơng nói nữa. Theo như BS Minh Tuấn
thì: “khi nghe bạn chửi thề, có lẽ phải chịu khó dành nhiều thời gian “delete”
(xóa) chúng ra khỏi đầu cậu bạn, đồng thời chú ý cắt “đầu vào” để tránh quen
miệng, khó sửa về sau”.
Ln rèn luyện ngôn ngữ giao tiếp. Luôn vận dụng đúng đắn các
phương tiện giao tiếp để bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt. Đặc biệt là đối
với lứa tuổi học sinh. Khi nhân cách chưa định hình thì cần phải rèn luyện bản
thân theo những chuẩn mực tốt đẹp hơn nữa. Tránh lệch lạc nhân cách dẫn
đến các hành vi sai trái.

Góp ý, điều chỉnh những hành vi lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của
bạn bè. Rèn luyện ý thức trân trọng và bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt.
2.3.2. Đối với gia đình
Vì khi trở thành sinh viên thì đa phần các bạn sống xa nhà, song yếu tố
gia đình khơng thể thiếu trong việc giáo dục cho các bạn trong cách ăn nói
ứng xử. Chính vì thế những bậc làm cha làm mẹ trước hết cũng phải làm
gương cho con cái mình, nên ăn nói lịch sự, có văn hóa để con cái noi theo.
Đồng thời cũng thường xuyên nhắc nhở, bày dạy những cái đúng để con học
và chỉ ra những cái sai để cho con cái biết mà sửa.
17


2.3.3. Đối với nhà trường
Nhà trường nên cần kết hợp với gia đình để quản lý và giáo dục sinh
viên tốt hơn. Đồng thời nên thường xuyên có những buổi học ngoại khóa về
kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, ứng xử cũng như việc sử dụng ngôn ngữ sao
cho lịch sự, văn minh, đạt hiệu quả trong giao tiếp.
Nhà trường, hội sinh viên, đoàn thanh niên… nên mở những cuộc thi
tìm hiểu về nét đẹp văn hóa giao tiếp, tạo dựng sân chơi thực hành về văn hóa
ứng xử lành mạnh cho các bạn sinh viên.
2.3.4. Đối với xã hội
Dư luận xã hội là một yếu tố vô cùng quan trọng, chính vì thế cần phải
phát huy vai trị của dư luận xã hội bằng cách lên tiếng phê phán, lên án
những hành vi lêch lạc xã hội như chửi thề trong quá trình giao tiếp để tạo
những áp lực cho các bạn trẻ, nhất là sinh viên để họ hiểu được và sửa dần
hành vi cũng như thay đổi cách suy nghĩ, nhận thức sai trái của mình.
Nâng cao cơng tác tun truyền qua báo chí, internet, các phương tiện
truyền thơng đại chúng khác từ đó hình thành định hướng giá trị chuẩn mực
mang tính chất truyền thống nhất là những định hướng trong giao tiếp.
2.3.5. Đối với khơng gian mạng

Thói quen xấu ban đầu chỉ như vị khách qua đường, dần dần trở thành
người bạn thân sống chung và cuối cùng trở thành ơng chủ nhà khó tính. Vì
vậy đê khắc phục hiện tượng dùng những chữ viết tắt mang nghĩa nói tục,
chửi thề khi tham gia bình luận trên mạng xã hội trong giới trẻ hiện nay, cần:

Với các bạn trẻ, để khơng bị những thói quen tật xấu ấy ngự trị thì phải
có bản lĩnh vững vàng, trách nhiệm, không dễ dàng bị cái xấu chế ngự, cẩn
trọng trước khi nói hay bình luận. Bên cạnh đó, cần tích cực tham gia trau dồi
18



×