Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ý nghĩa của nó với việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.84 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LƯỢNG VÀ CHẤT, SỰ THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG DẪN ĐẾN THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI..............2
1.1. Lý luận về lượng và chất....................................................................2
1.1.1. Lý luận về chất............................................................................2
1.1.2. Lý luận về lượng.........................................................................3
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất......................................4
1.2.1. Mối quan hệ giữa lượng và chất..................................................4
1.2.2. Độ, điểm nút và bước nhảy.........................................................5
1.2.3. Quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và
ngược lại................................................................................................7
1.2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa về sự thay
đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.......................7
CHƯƠNG II: LIÊN HỆ VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT NHỮNG SỰ
THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG ĐẪN ĐẾN THAY ĐỔI VỀ CHẤT NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN
NAY..............................................................................................................8
2.1. Thực tế mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình
học tập và những khó khăn trong q trình nâng cao chất lượng học tập.8
2.1.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong q trình tích
lũy kiến thức của sinh viên hiện nay.....................................................8
2.1.2. Những hạn chế trong công tác nâng cao chất lượng học tập sinh
viên......................................................................................................10


2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập của bản thân.....10
2.2.1. Có định hướng cụ thể................................................................10
2.2.2. Có động cơ rõ ràng....................................................................11
2.2.3. Có phương pháp học tập, làm việc hiệu quả.............................11


PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................14


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ cùng với sự bùng nổ thông tin, lượng tri thức của nhân loại phát
minh ngày càng nhiều, kiến thức của các lĩnh vực có liên quan mật thiết với
nhau. Đồng thời do yêu cầu của xã hội, do nhu cầu thực tế đang đòi hỏi con
người phải giải quyết rất nhiều tình huống trong cuộc sống. Do đó, để đáp
ứng được nhu cầu của xã hội mỗi cá thể cần phải ngày ngày lĩnh hội những
kiến thức mới của nhân loại vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt nhiều lĩnh
vực nhằm tăng tính cạnh tranh của bản thân.
Quy luật “Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược
lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương
thức của sự vận động, phát triển. Là sinh viên trường học viên Ngân Hàng, tác
giả nhận thức rất rõ tầm quan trọng của việc tích lũy kinh nhiệm, kiến thức
hiểu biết của bản thân nhằm tăng giá trị của bản thân mình. Vì trong mọi lĩnh
vực của tự nhiên, xã hội hay tư duy tất yếu phải có sự thay đổi về lượng mới
có thể dẫn đến sự thay đổi về chất. Cũng giống chú chim sẻ tích cực kiếm sợi
rơm xây tổ, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Quy luật chuyển hoá từ những sự
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ý nghĩa của nó với việc
nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay.” làm đề tài nghiên cứu
để có cái nhìn sâu và rộng đồng thời tích lũy được nhiều kiến thức hơn. Với
thay đổi về lượng kiến thức được lĩnh hội thông qua đề tài này, tất yếu góp
phần làm thay đổi về chất trong mỗi sinh viên.

1



PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LƯỢNG VÀ CHẤT, SỰ THAY ĐỔI
VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI

1.1. Lý luận về lượng và chất
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai
mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng
duy vật ra đời đem lại quan điểm đúng đắn về khái niệm chất, lượng và quan
hệ qua lại giữa chúng, từ đó khái quát thành quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
1.1.1. Lý luận về chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó
chứ khơng phải là cái khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên
chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác, nhờ đó
mà con người mới có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện
tượng khác. Con người khác với động vật chính là nhờ những tính quy định
vốn có của con người: có khả năng chế tạo và sử dụng cơng cụ lao động, có
khả năng tư duy.
Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự
vậttrong mối quan hệ qua lại với sự vật khác, là những tính chất, những trạng
thái, những yếu tố cấu thành nên sự vật,... Đó là những cái vốn có của sự vật
từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát
triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ
được bộc lộ ra qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.

2



VD : Khi cho muối vào nước ta thấy muối có tính tan, khi nếm muối có
vị ngọt. Vậy tính tan, vị ngọt ... là thuộc tính của đường, chúng ta chỉ nhận
biết được điều đó nếu chúng ta nếm hay khi vị giác của chúng ta tiếp xúc, tác
động qua lại với chúng. Tất cả những thuộc thính của muối là những cái vốn
có, nhưng chúng chỉ bộc lộ ra trong quan hệ của muối với nước hay trong
quan hệ của muối với vị giác của con người.
Đặc trưng khách quan nói trên quy định phương thức nhận thức của
con người đối với vật chất của sự vật. Để nhận thức được những thuộc tính,
chúng ta cần nhận thức nó trong mối quan hệ giữa các sự vật. Trong mối quan
hệ cụ thể thường bộc lộ ra một thuộc tính (một khía cạnh về chất) của sự vật.
Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách là sự tổng hợp của tất cả các
thuộc tính vốn có của sự vật đó, chúng ta phải nhận thức sự vật trong tổng hồ
các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối
quan hệ, các thuộc tính của sự vật cũng có vị trí khác nhau tạo thành những
thuộc tính cơ bản và những thuộc tính khơng cơ bản. Nhưng thuộc tính của sự
vật chỉ bộc lộ qua các mối quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự
phân chia thành thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản cũng chỉ mang tính chất
tương đối. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự
vật. Ở mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là tổng hợp những thuộc tính đặc
trưng cho sự vật trong tồn bộ q trình tồn tại của sự vật, đó là loại chất mà
sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự
vật.
VD : Gang và thép đều cấu tạo chủ yếu bởi sắt, gang có tính giịn, dễ
vỡ cịn thép thì dẻo hơn và có tính chịu lực cao. Có thành phần chủ yếu là sắt
giống nhau nhưng gang và thép có ứng dụng khác nhau hoàn toàn. Sự khác
nhau đấy là do thành phần Cacbon trong 2 hợp kim trên.

3



1.1.2. Lý luận về lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng
như các thuộc tính của sự vật. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật,
quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật khơng phụ thuộc vào ý chí, ý thức
của con người.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy
mơ lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,… Trong
thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ
thể như vận tốc của âm thanh là 343.2 m/s (1236 km/h), một phân tử muối
bao gồm một nguyên tử Natri liên kết với một nguyên tử Clo,… bên cạnh đó
có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như
trình độ nhận thức tri của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một
cơng dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được
lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái qt hố.
Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên
tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã
hội) có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài,
chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ
thuộc vào từng mối quan hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong
mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị
lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn số sinh viên học giỏi nhất định của
một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là
dù số lượng cụ thể quy định thuần tuý về lượng, song số lượng ấy cũng có
tính quy định về chất của sự vật.

4



1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
1.2.1. Mối quan hệ giữa lượng và chất
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao giờ tồn tại nếu khơng có tính quy định về chất và ngược lại. Sự
thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát
triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ
không tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng sự thay
đổi về chất của sự vật và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng
với thay đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng có thể làm thay đổi ngay
lập tức về chất của sự vật.
Mặt khác, có thể trong một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi,
nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn khi ta nung một thỏi
thép đặc biệt ở trong lị, nhiệt độ của lị nung có thể lên tới hàng trăm độ,
thậm chí có thể lên tới hàng ngàn độ, song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ
chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt
quá giới hạn nhất định gọi là độ, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới sẽ thay thế
chất cũ. Chất mới ấy tương ứng với lượng mới tích luỹ được.
1.2.2. Độ, điểm nút và bước nhảy
*Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự
thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật ở đó thể hiện sự thống nhất
giữa lượng và chất của sự vật, trong đó sự vật vẫn cịn là nó chứ chưa biến
thành cái khác. Dưới áp suất bình thường của khơng khí, sự tăng hoặc sự
giảm của nhiệt độ trong khoảng từ 0 C đến 1000 C, nước nguyên chất vẫn ở
trạng thái lỏng. Nếu nhiệt độ của nước giảm xuống dưới 00 nước ở thể lỏng
chuyển thành thể rắn và nếu tăng nhiệt độ từ 1000 C trở lên, nước nguyên
chất thể lỏng chuyển dần sang trạng thái hơi . Nước nguyên chất cũng thay
5



đổi về chất .Tại điểm giới hạn như 00 C và 1000 C ở thí dụ trên gọi là điểm
nút. Tại điểm đó sự thay đổi về lượng cũng đã đủ làm thay đổi về chất của sự
vật.
*Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.Sự vật tích luỹ đủ về lượng
tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự
vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật ấy .Q
trình đó liên tiếp diễn ra trong sự vật và vì thế sự vật ln phát triển chừng
nào nó cịn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước
nhảy. Vậy bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất
của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
*Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là
điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới.Nói là sự gián đoạn trong q
trình vận động và phát triển liên tục của sự vật.Có thể nói, trong quá trình
phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là
sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích
luỹ về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về
chất. Song điểm nút của q trình ấy khơng cố định mà có thể có những thay
đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định. Chẳng
hạn thời gian để hoàn thành sự nghiệp cơng nghiệp hố ở mỗi nước là khác
nhau.Có những nước mất 150 năm, có những nước mất 60 năm nhưng cũng
có những nước chỉ mất 15 năm.
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng của
nó đạt tới điểm nút. Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng đã
thay đổi của sự vật. Chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy mơ, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.

6


Vd: Khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thiTHPT, tức là thực hiện
bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng tốt nghiệp. Trình độ văn hố của sinh
viên đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện để thay đổi kết cấu, quy mơ, trình độ
tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn. Cũng giống như vậy khi nước ở
trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử nước tăng hơn,
thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng thái lỏng
với cùng một khối lượng tính chất hồ tan một số chất tan của nó cũng sẽ
khác đi,..v..v..
1.2.3. Quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại
Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra nội dung của quy luật chuyển
hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại như sau: Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
cũng như sự phát triển nhận thức trong tư duy con người đều đi từ sự thay đổi
dần về lượng khi vượt qua giới hạn về độ tới điểm nút thì gây ra sự thay đổi
cơ bản về chất, làm cho sự vật, hiện tượng phát triển cao hơn hoặc thay thế
bằng sự vật , hiện tượng khác. Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt
thống nhất hữu cơ nhưng cũng mang trong mình tính mâu thuẫn vốn có trong
sự vật. Lượng thì thường xun biến đổi cịn chất có xu thế ổn định. Do đó,
lượng phát triển tới một mức nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, yêu cầu tất
yếu là phải thay đổi chất cũ, mở ra một độ mới cho sự phát triển của lượng.
Sự chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về
chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. 
Quy luật này còn diễn ra theo chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi
về lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời, do sự biến đổi
về lượng trước đó gây nên thì nó lại quay trở lại, tác động đến sự biến đổi của
lượng mới. Ảnh hưởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ,
nhịp điệu phát triển mới. Nội dung của quy luật được phát biểu như sau: Mọi

sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng
7


trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chât của sự vật
thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới. Q trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát
triển, biến đổi. 
1.2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa về sự thay đổi của
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại
Bởi bất kì sự vật hiện tượng nào cũng có hai phương diện chất và lượng
tồn tại trong tính quy định, tác động biện chứng và chuyển hóa lẫn nhau. Do
đó trong nhận thức và thực tiễn chúng ta cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu
trên, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng. Do những sự thay
đổi về lượng của sự vật hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành
những thay đổi về chất và ngược lại, cho nên trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn, tùy theo mục đích hồn cảnh cụ thể, cần từng bước tích lũy về
lượng để có thể làm thay đổi về chất. Bên cạnh đó có thể phát huy tác động
của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng. Vì sự
thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật hiện
tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, vì lẽ đó
trong cơng tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nơn nóng, đồng thời
phải khắc phục tư tưởng bảo thủ trong cơng tác thực tiễn. Vì bước nhảy của
sự vật hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức và
thực tiên cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho
phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt hơn,
trong đời sống xã hội, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể
để thúc đẩy q trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả
nhất.


8


CHƯƠNG II: LIÊN HỆ VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT NHỮNG SỰ
THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG ĐẪN ĐẾN THAY ĐỔI VỀ CHẤT
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
HIỆN NAY
2.1. Thực tế mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong q trình
học tập và những khó khăn trong quá trình nâng cao chất lượng học tập
2.1.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy
kiến thức của sinh viên hiện nay
Ngồi trên ghế nhà trường, việc học luôn là nhiệm vụ được đặt lên hàng
đầu. Quá trình học tập của mỗi sinh viên là một q trình dài, khó khăn và cần
sự cố gắng không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân. Quy luật
chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở
chỗ: mỗi sinh viên tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các
thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham khảo,… thành
quả của q trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm tra, những
bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết,
sinh viên sẽ được chuyển sang một trình độ học vấn mới cao hơn. Như vậy,
quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm
nút và việc sinh viên đạt được một trình độ học vấn cao hơn là bước nhảy.
Trong quãng thời gian đại học, sinh viên phải thực hiện nhiều bước
nhảy khác nhau. Với bước nhảy từ trình độ sinh viên năm nhất sang năm hai,
thì việc hồn thành tồn bộ tín chỉ năm nhất là là điểm nút, đồng thời nó cũng
là điểm khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện
những bước nhảy tiếp theo. Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới
trong mỗi người được hình thành và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể
hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh viên, đó là sự
chín chắn, trưởng thành hơn. Và tại đây, một q trình tích lũy về lượng (tích

lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, q trình này khác hẳn so với q trình tích lũy
9


lượng ở bậc chất trước. Quãng thời gian đại học không chỉ đơn thuần là việc
lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên
cứu, tìm tịi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là
những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động
trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh
viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc
đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng đại học và tìm
được một cơng việc. Cứ như vậy, q trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên
tục diễn ra, tạo nên sự vận động khơng ngừng trong q trình tồn tại và phát
triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt đến trình độ cao hơn,
tạo động lực cho xã hội phát triển.
2.1.2. Những hạn chế trong công tác nâng cao chất lượng học tập sinh viên
Quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên đóng vai trị vô
cùng quan trọng trong sự phát triển của xã hội, của đất nước. Bởi chính q
trình này tạo ra những con người có đủ năng lực để tiếp quản đất nước, đưa
đất nước phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu. Vì vậy, mỗi học
sinh, sinh viên cần phải có nhận thức rõ ràng, đúng đắn về vấn để này, phải
tích đủ lượng tới giới hạn điểm nút thì mới được thực hiện bước nhảy, khơng
được nơn nóng, đốt cháy giai đoạn. Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện
cho những sinh viên cảm thấy mình đủ năng lực có thể đăng kí học vượt để ra
trường sớm. Tuy nhiên cũng có khơng ít sinh viên đăng kí học vượt nhưng
khơng đủ khả năng để theo, dẫn đến hậu quả là phải thi lại chính những mơn
đã đăng kí học vượt. Điều này cũng có nghĩa là các sinh viên đó chưa tích lũy
đủ về lượng đến giới hạn điểm nút mà đã thực hiện bước nhảy, đi ngược lại
với quy luật lượng – chất, và hậu quả tất yếu là sự thất bại. Bên cạnh đó, thực
trạng nền giáo dục của nước ta hiện nay vẫn cịn tồn tại căn bệnh thành tích,

đặc biệt là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Tức là học sinh chưa tích lũy đủ
lượng cần thiết đã được tạo điều kiện để thực hiện thành công bước nhảy,
điều này đã khiến cho nền giáo dục của chúng ta có những người khơng có cả
10


“chất” và “lượng”, dẫn đến những vụ việc rất vô lí như học sinh đi học khơng
viết nổi tên mình mà vẫn được lên lớp, chỉ vì nếu cho ở lại sẽ làm ảnh hưởng
đến thành tích phổ cập giáo dục của trường. 
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập của bản thân
2.2.1. Có định hướng cụ thể
Trước những yêu cầu to lớn đang đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện
nay, mỗi sinh viên cần có những suy nghĩ đầy đủ về chính trị và trách nhiệm
của mình. Mỗi sinh viên cần phải có đóng góp vào sự nghiệp cách mạng
những gì có thể làm được ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Ở đây cần
phải hiểu rằng quá trình thực hiện các nhiệm vụ phương hướng cụ thể . Đối
với học tập nghiên cứu cũng vậy , mỗi sinh viên phải tự đặt ra cho mình
những câu hỏi : “ học để làm gì?” , “ học để phục vụ ai?”. Xác định được mục
đích học tập nghiên cứu là hiểu được mình phải phấn đấu để trở thành con
người như thế nào? Muốn thế người sinh viên phải thường xuyên nâng cao
trình độ nhận thức về tình hình, nhiệm vụ, nắm vững yêu cầu của ngành giáo
giục nhất là đối với bậc giáo dục Đại học cùng các vấn đề khác có liên quan.
2.2.2. Có động cơ rõ ràng
Xác định được động cơ học tập nghiên cứu là ý thức được nhiệm vụ
của mình. Ở các trường Cao đẳng, Đại học nếu sinh viên muốn học tốt thì
phải có động cơ mạnh mẽ . Khi xây dựng động cơ học tập nghiên cứu chúng
ta cần chú ý đến đặc điểm tâm lí cá nhân của bản thân và đặc điểm nghề
nghiệp đang theo học.
Động cơ là cái thuộc về lĩnh vực tình cảm thầm kín.Nó được hình thành
và phát triển trog q trình hoạt động nghề nghiệp.Bởi vậy, nếu lịng u nghề

càng cao thì động cơ học tập nghiên cứu càng trở nên sâu sắc.Có điều là sự
biểu hiện của động cơ thường rất tế nhị, nó khơng phơi bày một cách lộ liễu,
cho nên muốn nắm bắt được nó thì phải đi sâu vào lĩnh vựa tâm tư tình cảm
con người.
11


Có thể khẳng định giá trị của việc xác định động cơ là ở chỗ nó có tính
chất quyết định nội dung, phương hướng và cả phương pháp học tập đúng
đắn. Hiểu mình , hiểu việc kết hợp với lịng tự tin là hoàn thành được một
phần cơ bản của cơng việc định làm cịn chắc chắn rằng thiếu tự tin là nguyên
nhân dẫn đến thất bại.
2.2.3. Có phương pháp học tập, làm việc hiệu quả
Với lượng kiến thức vô cùng lớn ở đại học thì ta phải học từ từ từng bài
một. Học từ dễ đến khó để có thể hiểu thấu được bài học. Giống như việc bạn
ăn một con voi vậy. Vì nó q to nên ta cần phải ăn từ từ, ăn từng miếng một
mới xong được, và đương nhiên là cần thời gian để làm điều đó. Nếu ta cố ăn
một lúc thì chắc hẳn sẽ bội thực mà chết. Việc học ở đây cũng vậy. Với lượng
kiến thức đồ sộ, ta cần có thời gian để hấp thu. Do kiến thức khó nên ta sẽ lâu
thấy sự tiến bộ. Đơn giản vì ta chưa cung cấp đủ lượng kiến thức cần thiết để
có thể thấu hiểu được tri thức ấy. Có nghĩa là ta đang trong khoảng giới hạn
( độ ) của tri thức ấy. Vậy nên ta cần kiên trì học hỏi, khơng được chán nản để
có thể cung cấp đủ lượng làm chuyển hóa chất.
Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức được rằng, sự thay đổi về
chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật,
hiện tượng. Do đó, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy
luật các yếu tố tạo thành sự vật đó. Cụ thể, sự thành cơng của một sinh viên
thì cịn phụ thuộc vào các kĩ năng mềm trong cuộc sống mà nhà trường không
dạy chẳng hạn như nghệ thuật giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng ứng phó

với trộm,....hay quan trọng cả là kĩ năng làm việc nhóm, mang hành trang tích
cực vào đời , biến tri thức lĩnh hội thành sản phẩm trí tuệ đích thực. Như thế
mới giúp ta phát triển toàn diện được. Giúp ta tích tụ lượng kiến thức mới để
biến thành người mới.

12


Giải trí và sinh hoạt hằng ngày cũng góp phần quan trọng khơng kém
so với học chính. Vui chơi đúng lúc sẽ giúp tâm lý ta thoải mái, nâng cao tình
thần, đầu óc tỉnh táo từ đó tiếp thu tốt hơn. Các hoạt động do đoàn thanh niên
tổ chức, nhà trường phạt động, sinh viên cần hưởng ứng tích cực. Tham gia
các hoạt động thể thao, tham gia các câu lạc bộ, các hội thảo để thêm phần
chủ động trong quá trình tiếp nhận tri thức.

13


PHẦN III: KẾT LUẬN
Qua quãng thời gian nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi
về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại, tác giả đã rút ra một vài
kết luận trong quá trình học tập của sinh viên như sau:
Quá trình vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng
cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước
nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên chúng ta cũng không thể
nằm ngồi điều đó. Để có một tấm băng Đại học chúng ta phải tích lũy đủ số
lượng các học phần và để học phần có kết quả tốt chúng ta cần phải tích lỹ đủ
kiến thức của các mơn học. Như vậy có thể coi thời gian học là độ, các kỳ thi
là các điểm nút và kết quả kỳ thi đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi kết quả kỳ thi
tốt dẫn đến bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn tích luỹ tri thức trong q

trình học tập rèn luyện của chúng ta.
Ông cha ta thường có câu “Có cơng mài sắt, có ngày lên kim”, "tích
tiểu thành đại", "năng nhặt, chặt bị". Đúng là vậy, những việc làm vĩ đại của
con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của
con người đó. Quy luật này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong
học tập và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày, đồng thời giúp chúng ta ý
thức được công việc nhiệm vụ, mục tiêu mà bản thân mình hướng đến. Để từ
đó giúp bản thân phát triển một cách toàn diện, hiệu quả về cả chất và lượng.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 42, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội 2005, tr. 364.
2. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội 2005, tr. 239.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, tr.
57.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, tr.
59.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021,
tr.104.

15




×