Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Vận dụng phương pháp luận của học thuyết giá trị thặng dư trong quá trình điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam, hướng đến “xã hội dân chủ, công bằng, văn minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.7 KB, 19 trang )

Mục Lục

PHẦN I MỞ ĐẦU....................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài...............................................................................................1
2.Tổng quan đề tài...............................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................2
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu..............................................2
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................3
6. Đóng góp của đề tài.........................................................................................3
7. Bố cục tiểu luận................................................................................................3
PHẦN II NỘI DUNG..............................................................................................3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN..............................................................3
1.1

Học thuyết giá trị thặng dư..................................................................3

2.1 Hai phương pháp nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư..............................4
3.3 Quy luật giá trị thặng dư..........................................................................6
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN.....................................................................8
2.1.Lợi ích kinh tế............................................................................................9
2.2 Các kiểu quan hệ lợi ích theo cấp độ.....................................................10
2.3 Các kiểu quan hệ lợi ích theo phạm vi...................................................12
2.4 Phương thức điều tiết quan hệ lợi ích kinh tế.......................................13
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HỌC THUYẾT ĐỂ ĐIỀU HÒA
CÁC QUAN HỆ KINH TẾ...............................................................................14
3.1. Mục tiêu...................................................................................................14
3.2.Một số khuyến nghị.................................................................................16
KẾT LUẬN............................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................18



i


PHẦN I MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Học thuyết đã vạch trần thực chất bóc lột tư bản
chủ nghĩa và cội nguồn đối lập kinh tế giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Ngày nay, từ quan điểm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết cịn có ý nghĩa
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc vận dụng học thuyết
giá trị thặng dư đã và đang được nghiên cứu để đảm bảo tính khoa học, phù hợp
với thực tiễn ở Việt Nam.
Đất nước ta phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, việc vận
dụng học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác trước hết phải nhận thức đúng khái
niệm bóc lột và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết Mác. Từ đó, có cơ sở khoa
học để luận giải những hiện tượng kinh tế của xã hội hiện nay. “Bóc lột” là một bộ
phận người trong xã hội hoặc tập đồn xã hội nào đó, chiếm đoạt khơng có bồi
thường thành quả lao động của một người khác hoặc của tập đoàn xã hội khác.
Theo C. Mác, việc bóc lột lao động đều có trong tất cả các hình thái xã hội từ trước
tới nay vận động trong những mâu thuẫn giai cấp. Nhưng chỉ khi nào kẻ sở hữu tư
liệu sản xuất tìm ra được người cơng nhân tự do, với tư cách là đối tượng bóc lột,
và bóc lột người cơng nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hoá để thu được
giá trị tăng thêm, thì khi đó mới là bóc lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất mới
mang tính chất đặc biệt là tư bản. Ngày nay, học thuyết giá trị thặng dư vẫn có ý
nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận dụng học thuyết này ở nước ta trở thành
một việc làm cần thiết
Hiện nay, nguồn nhân lực trên thị trường lao động của Việt Nam được đánh

giá có chất lượng khơng cao. Nhận thức được vấn đề này, trong Văn kiện Đại hội
XII đã ghi: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” và “Phát triển giáo dục và
đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
với tiến bộ khoa học công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường
lao động”.

1


Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói
chung và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích
nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản cổ điển và xu
hướng thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh
mục đích như trước, chúng ta cịn có mục đích nghiên cứu, khai thác học thuyết giá
trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị
trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong
thời kỳ đổi mới. Vì vậy chúng em chọn đề tài “Vận dụng phương pháp luận của
học thuyết giá trị thặng dư trong quá trình điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích
kinh tế ở Việt Nam, hướng đến “xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” ”
2.Tổng quan đề tài.
Học thuyết giá trị thặng dư là một trong ba đóng góp to lớn của C.Mác đối
với lịch sử xã hội loài người. Trong xu thế kinh tế thế giới dịch chuyển theo hướng
từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, học thuyết giá trị thặng dư vẫn
giữ nguyên giá trị. Bài tiểu luận tóm tắt những luận điểm cơ bản của C.Mác về học
thuyết giá trị thặng dư và làm rõ những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế tri thức,
trên cơ sở đó góp phần khẳng định giá trị của học thuyết giá trị thặng dư đối với sự
phát triển của nhân loại nói chung và trong nền kinh tế tri thức nói riêng. Từ đó
vận dụng điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam, hướng đến “xã

hội dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
3. Mục đích nghiên cứu.
Phân tích một số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư, khẳng định
rằng học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử
của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa
tư bản hiện đại. Vận dụng cơ sở lý luận cho sự vận dụng quá trình phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là học thuyết giá trị thăng dư của chủ nghĩa MácLênin, những giá trị cốt lõi, những luận điểm và các mối quan hệ kinh tế ở Việt
Nam

2


5. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, tiểu luận sử dụng những phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài
này bao gồm phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích
tổng hợp và đối chiếu.
6. Đóng góp của đề tài.
7. Bố cục tiểu luận.
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, cũng như các phần phụ lục khác, kết
cấu đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát lý luận học thuyết học thuyết của chủ nghĩa MácLênin.
Chương 2: QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Chương 3: VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HỌC THUYẾT ĐỂ ĐIỀU HÒA
CÁC QUAN HỆ KINH TẾ


PHẦN II NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN.
1.1Học thuyết giá trị thặng dư
Bản chất và nguồn gốc
Học thuyết giá trị thặng dư được hình thành trên cơ sở học thuyết giá trị lao động mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa. Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý
nghĩa to lớn về mặt lý luận, đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở
khoa học thực sự.
Khi nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác chỉ rõ giá trị thặng dư là
lao động không công của công nhân cho nhà tư bản chỉ được tạo ra trong quá trình
sản xuất nhờ tính chất đặc biệt của loại hàng hố sức lao động. Đồng thời C.Mác
khẳng định rằng: Sản xuất ra giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản. Quy luật giá trị thặng dư đòi hỏi sản xuất giá trị thặng dư ngày càng
nhiều cho các nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê trên cơ
sở mở rộng sản xuất và phát triển kỹ thuật. C. Mác chỉ ra có hai phương pháp sản
3


xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối, đồng thời chỉ ra sản xuất giá trị thặng
dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, vì: Quy luật này khơng những vạch rõ mục đích của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa là sản xuất giá trị và giá trị thặng dư mà còn vạch rõ phương thức mà các
nhà tư bản sử dụng để kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động và tăng năng
suất lao động để tăng cường bóc lột cơng nhân làm th
Quy luật giá trị thặng dư ra đời cùng với sự ra đời của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, tồn tại và phát huy tác dụng cùng với sự tồn tại và vận động của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Quy luật giá trị thặng dư chi phối các quy luật kinh tế khác, như: Quy luật

lợi nhuận, quy luật lợi nhuận bình quân, quy luật lợi nhuận siêu ngạch,…
Quy luật này quyết định tồn bộ q trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa
tư bản, đồng thời đây cũng là nguyên nhân làm cho mâu thuẫn cơ bản và nói chung
toàn bộ mâu thuẫn của xã hội tư bản ngày càng sâu sắc, tất yếu dẫn đến sự sụp đổ
của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, thoạt nhìn, việc mua bán sức lao động cũng giống như mua bán
các hàng hóa thông thường khác, nhưng ẩn sau quan hệ “thuận mua vừa bán” đó là
sự bóc lột tinh vi của nhà tư bản đối với người cơng nhân. Do đó, “sản xuất giá trị
thặng dư” chỉ là sự bóc lột lao động không công của công nhân một cách tinh vi
của nhà tư bản.
2.1 Hai phương pháp nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy,
các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng
dư. Khái qt có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ
thuật cịn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư
là kéo dài ngày lao động của công nhân.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng
dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong
4


điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra
bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có
những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần
của người lao động quyết định. Vì cơng nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi,
giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản

kháng của giai cấp cơng nhân. Cịn giới hạn dưới của ngày lao động không thể
bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không.
Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu,
nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng
không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do
cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực
lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân địi ngày lao động tiêu
chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao
động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt
khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại cơng nghiệp cơ
khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các
nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng
dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một
cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã
hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất
ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động.
Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc
phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách
tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc
phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản
xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng
suất lao động xã hội.
5



Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản
xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực
lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua
ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại cơng nghiệp cơ khí, đó
cũng là q trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử
dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột cơng nhân làm thuê trong quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy
móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo
điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho
cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần
kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
3.3 Quy luật giá trị thặng dư.
Khi nghiên cứu về học thuyết giá trị thặng dư của Marx, V.I Lênin đã đánh
giá rất cao quy luật này. Ông coi quy luật giá trị thặng dư là hịn đá tảng trong tồn
bộ học thuyết kinh tế của Marx, là một trong hai phát kiến vĩ đại của Marx bên
cạnh Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Vậy học thuyết giá trị thặng dư sau bao nhiêu năm,
trải qua bao thăng trầm của lịch sử, có cịn vẹn ngun tính thời đại, và quan trọng
hơn, có thể áp dụng quy luật này vào nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hay không? Để trả lời được những vấn đề cốt
lõi trên, trước tiên chúng ta tìm hiểu về hai khái niệm “Bóc lột” và “Bóc lột giá trị
thặng dư”.
Bàn về quy luật giá trị thặng dư, phải nhận thức được sự khác biệt giữa “Bóc
lột” và “Bóc lột giá trị thặng dư”. “Bóc lột” là một bộ phận người trong xã hội
hoặc tập đoàn xã hội nào đó, chiếm đoạt khơng có bồi thường thành quả lao động
của một người khác hoặc của tập đoàn xã hội khác. Theo Marx, việc bóc lột lao
động đều có trong tất cả các hình thái xã hội từ trước tới nay. Nhưng chỉ khi nào kẻ
sở hữu tư liệu sản xuất tìm ra được người cơng nhân tự do, với tư cách là đối tượng

bóc lột, và bóc lột người cơng nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hố để thu
được giá trị tăng thêm, thì khi đó mới là bóc lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất
mới trở thành tư bản.
Sự vĩ đại của Marx là ở chỗ đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công
nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại
hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử
dụng khác với các hàng hóa thơng thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá
6


trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của công
nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… Giá trị sử dụng của
hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong q trình sản xuất) có khả năng tạo ra một
lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó, dù nhà tư bản trả
đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu
được phần giá trị dơi ra, biến thành lợi nhuận. Như vậy, quy luật giá trị và quy luật
sản xuất ra lợi nhuận không phủ định lẫn nhau mà song song tồn tại: Trao đổi giữa
tư bản và công nhân tuân theo quy luật ngang giá (quy luật giá trị sức lao động)
nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần dơi ra ngồi giá trị sức lao động; phần dơi ra
đó được Marx gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện
thành bóc lột giá trị thặng dư là quy luật bóc lột đặc thù của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.
Trước đây, do cách tiếp cận siêu hình, quan niệm giá trị thặng dư là riêng có
đối với chủ nghĩa tư bản, đồng nhất sản xuất giá trị thặng dư với bóc lột nên đã
hình thành quan điểm cho rằng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không
tồn tại phạm trù giá trị thặng dư trong hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, giá
trị thặng dư ln gắn liền với sản xuất hàng hóa, mục tiêu hoạt động của người sản
xuất, của các doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa, ngay cả trong nền kinh tế
thị trường hiện đại phải là giá trị thặng dư. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải nhận
thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo lý thuyết sản xuất giá trị thặng dư vào thực

tiễn nền kinh tế thị trường.Trên thực tế giá trị thặng dư cấu thành động lực cho sự
tăng trưởng và phát triển của nền sản xuất xã hội. Vấn đề là giá trị thặng dư đó
phục vụ ai, xã hội, nhân dân hay một nhóm người…? Do đó, từ góc độ nhận thức
cần quán triệt một số nội dung sau:
Thứ nhất, muốn tạo ra giá trị thặng dư, người lao động phải đạt được một
năng suất lao động nhất định với một cường độ lao động nhất định và độ dài ngày
lao động nhất định. Khi phân tích sự khác nhau giữa giá trị thặng dư tuyệt đối và
giá trị thặng dư tương đối, Marx nhấn mạnh: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị
thặng dư thu được bằng cách kéo dài ngày lao động, hay tăng cường độ lao động,
hoặc cả hai; còn giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách
tăng năng suất lao động, trong điều kiện độ dài ngày lao động không thay đổi.
Nhưng khi xét sự giống nhau giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư ấy,
Marx chỉ rõ cả hai phương pháp cùng đòi hỏi phải đạt được một trình độ nhất định
về năng suất lao động, về cường độ lao động và độ dài ngày lao động nhất định.
Nếu năng suất lao động và cường độ lao động q thấp thì dù ngày lao động có kéo
dài suốt 24h, sẽ vẫn rơi vào hồn cảnh làm khơng đủ ăn. Mặt khác dù năng suất lao
7


động cao hay cường độ lao động cao, bù lại ngày lao động quá ngắn, không đạt tới,
hoặc vừa đạt tới điểm bù lại giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất
sức lao động thì cũng chẳng có giá trị thặng dư. Như vậy, muốn tăng giá trị thặng
dư phải tăng năng suất lao động, làm việc với cường độ lao động phù hợp và phải
làm đủ giờ lao động trong ngày quy định.
Thứ hai, phải coi trọng tăng năng suất lao động trước hết ở những ngành sản
xuất tư liệu sinh hoạt và những ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu
sinh hoạt. Thời gian lao động cần thiết là thời gian bù lại những giá trị tư liệu sinh
hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động. Vì vậy, muốn rút ngắn thời gian lao
động xã hội cần thiết, dẫn đến kéo dài thời gian lao động thặng dư để tăng giá trị
thặng dư, thì phải hạ thấp giá trị tư liệu sinh hoạt bằng cách tăng năng suất lao

động, trước hết ở những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, từ đó mới cải thiện đời
sống người lao động, tăng giá trị thặng dư tương đối để tăng tích lũy, tái sản xuất
mở rộng và đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng.
Thứ ba, nhận thức đúng về vai trò của nhân tố con người và nhân tố vật chất
trong quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất hàng hóa là sự thống nhất giữa q
trình lao động và quá trình làm tăng giá trị. Quá trình lao động tạo ra giá trị sử
dụng. Sức sản xuất của lao động càng cao thì càng tạo ra nhiều giá trị sử dụng
trong một đơn vị thời gian. Sức sản xuất của lao động được quyết định bởi nhiều
yếu tố, trong đó, trình độ khéo léo trung bình của công nhân, mức độ áp dụng khoa
học vào sản xuất… Bởi vậy, muốn có nhiều của cải, nhiều giá trị sử dụng cần phải
coi trọng giáo dục đào tạo, coi trọng khoa học công nghệ, cải tiến tổ chức và quản
lý.
Nếu trong quá trình lao động, các yếu tố sản xuất được xét về mặt chất thì
trái lại, quá trình tạo ra giá trị lại chỉ được xem xét về mặt lượng, các hàng hóa
tham gia vào q trình này chỉ được coi là những lượng lao động đã vật hóa nhất
định, khơng được xét với tư cách là vật thể nữa. Dù các tư liệu sản xuất, kể cả
robot, có hiện đại đến đâu cũng khơng thể tự mình chuyển giá trị vào sản phẩm.
Chính lao động sống đã làm “hồi sinh” cho các tư liệu sản xuất, trong đó có máy
móc đã tiêu dùng trong q trình lao động do giá trị sử dụng của bản thân nó bị
hủy hoại. Nhận thức được điều này, không những cho phép hiểu rõ hơn nguồn gốc
của giá trị thặng dư, mà còn ý nghĩa trong quản lý kinh tế.
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
8


2.1.Lợi ích kinh tế.
2.1.1 Khái niệm.
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách
quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế – xã hội và do hệ

thống quan hệ sản xuất quyết định.
Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ
phải được đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích
bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích.
2.1.2 Phân loại lợi ích kinh tế
Tuỳ góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại lợi ích
kinh tế khác nhau sau đây:
– Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành:
Lợi ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.
– Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các
thành phần kinh tế đó.
– Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế
của người sản xuất, người phân phối, người trao đởi, người tiêu dùng.
2.1.3 Tính chất
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách
quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế – xã hội và do hệ
thống quan hệ sản xuất quyết định. Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và
phát triển thì nhu cầu của họ phải được đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu,
nhu cầu làm nảy sinh lợi ích.
Mặt thớng nhất
Lợi ích kinh tế thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một hệ
thống, trong đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế khác.
Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh tế
của người trao đổi, người tiêu dùng và ngược lại.
Mặt mâu thuẫn
Biểu hiện ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn đến xu hướng lấn
át của lợi ích kinh tế này đối với lợi ích kinh tế khác.
9



Do đó, nó có thể gây nên những xung đột nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến
các hoạt động kinh tế – xã hội.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích kinh tế cũng mang
tính đối kháng, do đó, nó dẫn đến những cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa
các giai cấp.
Trong thực tế, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức thu
nhập như: tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí…
2.1.4 Vai trò của lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế trong hệ thống lợi ích của con người nói chung bao gồm lợi ích
kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa – xã hội, thì lợi ích kinh tế giữ vai trò quyết
định nhất, chi phối các lợi ích khác.
Bởi vì, nó gắn liền với nhu cầu vật chất, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất – là
nhu cầu đầu tiên, cơ bản nhất cho sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội.
Đồng thời, khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề
để thực hiện các lợi ích khác. Đời sống vật chất của xã hội được phồn thịnh, thì đời
sống tinh thần cũng mới được nâng cao.
2.2 Các kiểu quan hệ lợi ích theo cấp độ
2.2.1 Lợi ích cá nhân
Lợi ích cá nhân là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa cá nhân và các chủ thể
xã hội khác dùng để thỏa mãn nhu cầu riêng tư cụ thể của cá nhân đó, đảm bảo cho
sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Bao gồm: lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi
ích kinh tế, lợi ích chính trị,... Đó chính là những lợi ích cụ thể phản ánh nhu cầu,
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân thể hiện qua các quyền của con
người như: quyền sống, quyền tự do, được an toàn, được lao động, được học tập,
được chăm sóc y tế, được hưởng các giá trị an sinh xã hội - phúc lợi xã hội, quyền
về kinh tế, quyền về chính trị... Lợi ích kinh tế của cá nhân ngày nay được biểu
hiện khá phong phú, đa dạng, dưới nhiều dạng như: các nguồn thu nhập (tiền công,
tiền lương, lợi tức, cổ phiếu, thu nhập từ lao động, các nguồn thu nhập khác), việc
làm, tài sản gắn với cá nhân (đất đai, nhà ở, sở hữu trí tuệ, tài sản khác),...

Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu
thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng địi hỏi lợi ích riêng của cá nhân
phải phục tùng lợi ích chung của tập thể.

10


2.2.2 Lợi ích nhóm
Lợi ích nhóm là lợi ích của một nhóm người gắn kết với nhau, hỗ trợ, móc
ngoặc với nhau, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau có lợi ích và bảo vệ lợi ích đó.
Xét về mục đích và tính chất, lợi ích nhóm có thể phân chia thành hai loại:
lợi ích nhóm tích cực và lợi ích nhóm tiêu cực.
Lợi ích nhóm tích cực là lợi ích chính đáng, hợp pháp của một nhóm người.
Trong xã hội tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp, nhóm người có đặc điểm, hồn cảnh
khác nhau, việc hình thành lợi ích nhóm tích cực là một nhu cầu khách quan, chính
đáng, tự nhiên. Lợi ích của các thành viên trong tổ chức cơng đồn, phụ nữ, thanh
niên, người khuyết tật v.v… cũng là lợi ích nhóm tích cực. Như vậy, lợi ích nhóm
tích cực là lợi ích chính đáng, hợp pháp, phù hợp, khơng mâu thuẫn với lợi ích của
dân tộc quốc gia, hướng tới và hài hòa với lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc và quốc
gia.
Lợi ích nhóm tiêu cực là lợi ích cục bộ của những đơn vị, địa phương, của
những nhóm người xác định, xung đột, mâu thuẫn với lợi ích chung của nhân dân,
của xã hội và thậm chí với quốc gia, dân tộc. Ở đây, cần phân định mức độ nguy
hiểm, tác hại của các loại lợi ích nhóm tiêu cực.
2.2.3 Lợi ích xã hội
Lợi ích xã hội là tất cả lợi ích phản ánh quan hệ nhu cầu của xã hội và là cái
dùng để thỏa mãn nhu cầu chung của toàn xã hội về một (một số) đối tượng (vật
chất, tinh thần) nhất định, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội trong
từng giai đoạn lịch s , thể hiện các quan hệ cơ bản và lâu dài của xã hội. Lợi ích xã
hội ở đây khơng phải là lợi ích của một nhóm người, một giai tầng, mà đó là lợi ích

của cả dân tộc, trong đó có lợi ích chung của các cá nhân cấu thành dân tộc, của cả
dân tộc và không mâu thuẫn với lợi ích chung của nhân loại tiến bộ.
Trong thời gian gần đây, lợi ích xã hội được sử dụng để chỉ các sáng kiến
của công ty thúc đẩy thực hiện các hoạt động có lợi hơn cho mơi trường và xã hội.
Định nghĩa kinh doanh dựa trên chủ nghĩa tư bản nói rằng các cơng ty tồn tại
chỉ để mang lại lợi nhuận tối đa cho các cổ đông, và do đó thường khơng phục vụ
lợi ích xã hội theo các cách như thúc đẩy khơng khí sạch và nước, hoặc mang lại
độc lập tài chính cho các cơng dân.
Khi các doanh nghiệp tập trung nhiều hơn vào các nỗ lực duy trì sự bền
vững của cơng ty và trách nhiệm xã hội, các mơ hình kinh doanh của chúng có thể
11


mở rộng để gộp thêm các công việc thúc đẩy lợi ích xã hội vào các chiến lược kinh
doanh và hoạt động hàng ngày.
2.3 Các kiểu quan hệ lợi ích theo phạm vi
Quan hệ lao động(QHLD) trong doanh nghiệp được hiểu là quan hệ giữa
người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) về việc làm được
hưởng lương, các điều kiện lao động, những tranh chấp về lao động và một số quan
hệ khác có liên quan trực tiếp đến việc thuê và sử dụng lao động. Trong đó hợp
đồng lao động là hình thức pháp lý chủ yếu và phổ biến nhất của QHLĐ. Bộ luật
Lao động của Việt Nam năm 2012 đã chỉ rõ: “QHLĐ tại đơn vị, DN là quan hệ xã
hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa NLĐ và
NSDLĐ”.
Có 02 nhóm chủ thể chính của QHLĐ là người lao động và NSDLĐ (hoặc
đại diện của họ) nhưng một “nhân vật” nữa không kém phần quan trọng, được xem
như 1 trọng tài, người ban hành và duy trì khn khổ của luật pháp đó là Nhà
nước. Tuy khơng can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế nhưng lại tạo hành
lang thơng thống để các quy luật kinh tế khách quan phát huy tác dụng. Chính phủ
cùng các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội nghề nghiệp đặt mục tiêu hài hòa, ổn

định, tiến bộ trong QHLĐ. Hài hòa là xử lý hướng dẫn hợp lý các quan hệ, trong
đó tập trung nhất là quyền và lợi ích của các bên trong QHLĐ. Yêu cầu tối thiểu
của tính hài hịa là các bên phải nhận thức đầy đủ và tự giác thực hiện tối ưu, triệt
để các quyền và nghĩa vụ của mình trong QHLĐ. Chủ động giải quyết các mâu
thuẫn, xung đột thông qua thương lượng và hòa giải, cố gắng tránh mọi nguy cơ
dẫn đến sự đổ vỡ có thể làm căng thẳng thêm QHLĐ.
Rõ ràng, QHLĐ trong DN là sự cam kết của các bên về việc làm, tiền lương,
tiền thưởng, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, thực hiện đầy đủ mọi chế độ bảo
hiểm xã hội, phúc lợi tập thể, đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, sự hiểu biết
và thực hành theo luật, giải quyết tốt những bức xúc, các mâu thuẫn , tránh các
cuộc đình cơng, nhất là các cuộc đình cơng trái luật của NLĐ…
Trong các quan hệ trên, cơng đồn cơ sở đại diện tập thể NLĐ có trách
nhiệm đàm phán thương lượng với đại diện NSDLĐ về tất cả những yếu tố của
QHLĐ đã nêu trên, ràng buộc quyền với trách nhiệm phải thực thi của các đối tác.
Trong 2 đối tác (NLĐ và NSDLĐ), khơng thể đánh giá vai trị của NSDLĐ hơn,
hay vai trò của NLĐ hơn. Mà thực sự, QHLĐ quy định các trách nhiệm ngang
nhau, và vì vậy lợi ích của mỗi đối tác cũng tương xứng khi biết chăm lo xây dựng
quan hệ hài hòa, ổn định tiến bộ.
12


Đối thoại định kỳ và đối thoại thường xuyên giữa NLĐ và NSDLĐ là 1 kênh
đặc biệt quan trọng và hiệu quả nhằm giải quyết các mẫu thuẫn, những bất đồng
giữa các bên trong QHLĐ. Để đảm bảo QHLĐ hài hịa, trước hết NLĐ (Thơng qua
vai trị tổ chức đại diện cho họ là cơng đồn cơ sở) phải nâng cao nhận thức và
nhận thức đầy đủ, toàn diện về quyền và nghĩa vụ của mình. Điều này đã được quy
định rõ trong bộ Luật lao động, Luật Cơng đồn và nội quy, quy chế của DN.
Muốn làm được điều này cơng đồn cần tun truyền, phổ biến các văn bản luật
vừa nói trên, đến từng người lao động bằng các hình thức linh hoạt và hiệu quả
nhất, bằng các biện pháp đơn giản nhất, tránh cầu kỳ, chú ý thiết thực, làm cho

công nhân, người lao động đạt được mục tiêu mà cơng đồn đặt ra. Đồng thời cơng
đồn cần tăng cường, sâu sát, giám sát việc thực thi các quy định nhằm củng cố,
tăng cường tính hài hịa, ổn định, tiến bộ của QHLĐ, ngăn ngừa, hạn chế những
mâu thuẫn trong quan hệ giữa NSDLĐ với NLĐ, giảm thiểu mọi nguy cơ có thể
dẫn đến đình cơng thơng qua đàm phán, thương lượng, tuyên truyền, vận động với
cả giới làm công và giới quản lý DN. Trong điều kiện hiện tại, bằng các khảo sát
thực tế, nếu DN nào, KCN nào làm tốt, có hiệu quả và thường xuyên, hoạt động
đối thoại, thương lượng giữa NSDLĐ với NLĐ, sẽ có nhiều khả năng hạn chế, đi
đến chấm dứt những tranh chấp lao động gay gắt và các cuộc đình cơng, nhất là
đình cơng khơng theo trình tự luật pháp
Trong khi đó, NSDLĐ phải coi việc xây dựng QHLĐ hài hòa với NLĐ là
mục tiêu quan trọng của quản lý. NSDLĐ chăm lo mọi mặt cho NLĐ, không chỉ là
trách nhiệm mà còn là đạo lý. Nếu người bán hàng coi khách hàng là thượng đế, thì
chủ DN cần coi NLĐ là mọi cơ hội sản sinh các giá trị gia tăng, sự giàu có của DN.
Và vì vậy, NLĐ cần được chăm chút, lo toan để họ toàn tâm, tồn ý gắn bó với
DN, làm việc hết sức mình vì sự phát triển thịnh vượng và bền vững của DN. Đây
chính là bí qut thành cơng của QHLĐ hài hòa, ổn định tiến bộ, mà nhiều DN ở
Nhật Bản đã thực hiện, và nó đương nhiên là bài học kinh nghiệm tốt cho Việt
Nam.
2.4 Phương thức điều tiết quan hệ lợi ích kinh tế
Thực chất của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là quá trình 11tác động vào
việc nhận thức và thực hiện lợi ích của cá nhân và xã hội, tạo ra sự hài hòa, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giải
quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội một cách hài hòa, tạo động lực
cho sự phát triển xã hội trên cơ sở các nội dung sau:
13


Thứ nhất, giải quyết tốt lợi ích cá nhân chính đáng tạo cơ sở, điều kiện để

giải quyết lợi ích xã hội. Trong quá trình sống, nhu cầu của mỗi cá nhân được phản
ánh trong ý thức, biến thành mục đích, thành động cơ tư tưởng và chính động cơ tư
tưởng đó trực tiếp thúc đẩy mỗi cá nhân hành động để đạt được lợi ích nhằm thỏa
mãn nhu cầu cá nhân, qua đó tham gia, đóng góp vào sự phát triển chung của xã
hội trên các lĩnh vực của đời sống.
Thứ hai, giải quyết tốt lợi ích xã hội sẽ tạo tiền đề để lợi ích cá nhân chính
đáng được thực hiện. Lợi ích xã hội với ý nghĩa là những lợi ích hướng vào thỏa
mãn những nhu cầu chung của nhiều thành viên hợp thành cộng đồng nên nó lại là
điều kiện và đóng vai trị định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá nhân. Khi lợi ích
xã hội được giải quyết, đó cũng chính là lợi ích cá nhân được đáp ứng tương ứng.
Bởi trong lợi ích xã hội đã bao gồm một phần lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội, mà
cốt lõi là lợi ích kinh tếđược giải quyết, tạo nền tảng để mỗi cá nhân có điều kiện
thỏa mãn nhu cầu, thực hiện lợi ích của mình một cách tối đa nhất; mặt khác, lợi
ích xã hội được tạo lập sẽ tạo cơ sở để hiện thực hóa lợi ích cá nhân tồn tại ngay
trong nó.
Thứ ba, nếu giải quyết khơng đúng đắn quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội sẽ triệt tiêu cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội là mâu thuẫn cơ bản của xã hội, việc giải quyết nó một cách
hợp quy luật khách quan sẽ tạo động lực cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, nếu
không giải quyết một cách hài hịa quan hệ lợi ích này sẽ kìm hãm sự phát triển của
xã hội, kìm hãm sự phát triển cá nhân, cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đều
khơng được thực hiện, thậm chí có thể đẩy xã hội vào trạng thái khủng hoảng, lệch
hướng.

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HỌC THUYẾT ĐỂ ĐIỀU HÒA
CÁC QUAN HỆ KINH TẾ.
3.1. Mục tiêu
Đất nước ta phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, việc vận
dụng học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác trước hết phải nhận thức đúng khái

niệm bóc lột và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết Mác. Từ đó, có cơ sở khoa
14


học để luận giải những hiện tượng kinh tế của xã hội hiện nay. “Bóc lột” là một bộ
phận người trong xã hội hoặc tập đồn xã hội nào đó, chiếm đoạt khơng có bồi
thường thành quả lao động của một người khác hoặc của tập đoàn xã hội khác.
Theo C. Mác, việc bóc lột lao động đều có trong tất cả các hình thái xã hội từ trước
tới nay vận động trong những mâu thuẫn giai cấp. Nhưng chỉ khi nào kẻ sở hữu tư
liệu sản xuất tìm ra được người công nhân tự do, với tư cách là đối tượng bóc lột,
và bóc lột người cơng nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hố để thu được
giá trị tăng thêm, thì khi đó mới là bóc lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất mới
mang tính chất đặc biệt là tư bản. Ngày nay, học thuyết giá trị thặng dư vẫn có ý
nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận dụng học thuyết này ở nước ta trở thành
một việc làm cần thiết, theo các hướng sau đây:
Một là, học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên
cứu lịch sử nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt là nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa. Cho nên, chính C. Mác chứ khơng phải ai khác là một trong những người
nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế hàng hố ở nước ta có
những đặc trưng riêng của nó, song đã là sản xuất hàng hố thì phải nói đến giá trị
và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau
thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Do vậy, việc nghiên
cứu những lý luận của Mác về nền kinh tế hàng hố tư bản chủ nghĩa là việc làm
có ý nghĩa thực tiễn ở nước ta hiện nay. Khi phân tích sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa, Mác cho rằng mọi hoạt động của tư bản đều xoay quanh việc tận dụng
phương tiện bóc lột nhằm khai thác tối đa sức lao động để tăng thêm lao động
thặng dư. Do đó, dẫn đến tất yếu kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động

hay cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới, tăng năng suất lao động để có thêm
điều kiện thu hút nhiều hơn nữa giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu của giai cấp
tư sản. Trong hai yếu tố của sản xuất hàng hóa, thì sức lao động là yếu tố cơ bản
nhất, cịn tư liệu sản xuất là phương tiện cần thiết cho sản xuất. Yếu tố tư liệu sản
xuất là yếu tố được tận dụng để đạt năng suất lao động cao - quyết định sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội. Yếu tố thực sự tạo ra của cải, tạo ra giá trị và giá trị tăng
thêm là người lao động. Do đó, lao động và chiến lược con người là vấn đề quan
trọng để tạo được bước phát triển nhảy vọt trong lực lượng sản xuất đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đất nước.

15


Hai là, khai thác những luận điểm của C. Mác nói về q trình sản xuất, thực
hiện, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp, thủ
đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào
việc quản lý thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta sao cho vừa có
thể khuyến khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của
chủ nghĩa xã hội. Điều đó địi hỏi cần có chính sách thích đáng và có hiệu lực để
thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển với nhiều loại hình sản xuất kinh doanh,
qua đó thu hút nhiều lao động xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao động để tạo ra
nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Đó là con đường để thốt khỏi nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế và bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và cơng
bằng xã hội trong q trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Ba là, khai thác di sản lý luận của C. Mác nói về q trình tổ chức sản xuất
và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với quá
trình xã hội hóa sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư
ngày càng lớn. Khi phân tích giá trị thặng dư tương đối, Mác đã trình bày rõ các
giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp với các đặc điểm, ưu

thế và vị trí lịch sử của từng giai đọan. Việc nghiên cứu các giai đoạn đó giúp
chúng ta nhiều bài học bổ ích trong quá trình tổ chức sản xuất ở một đất nước mà
sản xuất nhỏ còn phổ biến. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta phải coi trọng phân
công lao động, phân cơng phải thích ứng với kỹ thuật mới phù hợp với từng đơn vị,
từng ngành và toàn xã hội, mở rộng hợp tác phân công lao động quốc tế. Phân
công lao động phải đảm bảo thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển hợp lý của
các ngành, nghề trong xã hội, đảm bảo chuyên môn hóa và năng suất lao động cao
trong từng đơn vị nhằm thúc đẩy nhanh q trình xã hội hố theo định hướng xã
hội chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ trở thành nền sản xuất lớn hiện đại.
Bốn là, thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện cho phép bóc lột giá trị thặng dư. Điều này đã được V.I.Lênin trình bày qua lý
luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nước Nga Xô Viết.
3.2.Một số khuyến nghị
Đối với nhà nước
Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà Nước trong giải
quyết lợi ích kinh tế, nhất là trong sở hữu và phân phối

16


Ở nước ta hiện nay, đẩy mạnh xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN
từ một nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn để sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị
thặng dư, cần phải:
+ Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể
trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa
các nguồn lực để nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời
sống cho nhân dân.
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu.

+ Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu
lực quản lý vĩ mơ của Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường.
Đối với doanh nghiệp
Trình độ nhận thức của xã hội và các chủ thể lợi ích tác động rất lớn đến
việc ác định động cơ, lập trường tư tưởng, định vị lợi ích bản thân trong quan hệ
với các lợi ích khác và cách thức hành động, giải quyết quan hệ lợi ích trong đời
sống của mỗi chủ thể lợi ích.
Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.

KẾT LUẬN

Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay, học thuyết giá trị thặng
dư của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị, chúng ta cần khai thác học thuyết giá trị
thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị
trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội Học
thuyết giá trị thặng dư của C.Mác luôn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày
nay, từ quan điểm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan
trọng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc vận dụng học thuyết giá trị thặng
dư là một yêu cầu quan trọng và cần thiết, có nhiều nội dung cần được nghiên cứu,
vận dụng để đảm bảo tính khoa học, phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam.
17


TÀI LIỆU THAM KHẢO

- C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993, t 23, tr 347

- C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t26, phần II, tr 804
- Vận dụng lý luận giá trị thặng dư của các mác đối với sự phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - ThS. Bùi
Thị Huyền
- Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Học thuyết giá trị thặng dư của Marx và sự phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Trung úy Nguyễn
Huyền Trang - BM LLCT&KHXHNV - Đại úy Vũ Trọng Đại - BM
QSVT&TDTT
- Học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự vận dụng,
sáng tạo trong bối cảnh mới – Báo lao động

18



×