Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Hoàn thiện phương pháp định giá doanh nghiệp trong mua bán & sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.37 KB, 94 trang )

M ục l ục
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
Lời cảm ơn
Đề tài này được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng
dẫn, Thạc sỹ Nguyễn Đức Hiển. Em xin chân thành cảm ơn thầy trong thời gian
qua đã hết sức giúp đỡ và hướng dẫn tận tình trong quá trình thực hiện. Qua đây,
em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị tại Tổng công ty Tài chính Cổ phần
dầu khí Việt Nam nói chung, các anh chị trong Ban đầu tư Tổng công ty nói
riêng và đặc biệt là các anh chị trong Phòng M&A đã tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình tìm hiểu các nghiệp vụ trong thực tế, cung cấp tài liệu cần thiết để em
có thể hoàn thiện hơn đề tài của mình.
Vì còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ và kiến thức thực tế, thời gian nghiên
cứu có hạn nên đề tài không tránh khỏi nhiều sai sót, rất mong các thầy cô và
người đọc nhận xét và góp ý kiến để em có thể hoàn thiện hơn đề tài của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2009.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Bích Thuận
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
2
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
Lời nói đầu
Hoạt động mua bán và sáp nhập tuy là một hoạt động còn rất mới mẻ ở
Việt Nam nhưng sự phát triển của nó khá mạnh mẽ và có sức ảnh hưởng lớn tới
quyết định của nhiều nhà đầu tư trên thị trường tài chính hiện nay. Mới chính
thức xuất hiện và phát triển trong vòng 10 năm trở lại đây nhưng hoạt động này
đã không ngừng lớn mạnh từ khi xuất hiện, đến nay, nó đã trở thành một làn
sóng mới trong sự phát triển các loại hình đầu tư của doanh nghiệp.
Vài năm gần đây, kinh tế thế giới đang lâm vào khủng hoảng, các công ty
nhỏ không cạnh tranh nổi với các đại gia dần dần bị phá sản hoặc sáp nhập vào
các công ty khác mạnh hơn. Việt Nam cũng không nằm ngoài những trường hợp


đó, cộng thêm sự giao dịch trên thị trường chứng khoán được mở rộng khuyến
khích nên hoạt động mua bán doanh nghiệp cũng ngày càng khẳng định được vị
thế của mình.
Trước tình hình phát triển mạnh mẽ của thị trường M&A, ở Việt Nam đã
xuất hiện khá nhiều công ty và tổ chức tài chính tham gia thực hiện giao dịch
hoặc là tổ chức tư vấn thực hiện M&A. Các tổ chức này ra đời càng khẳng định
xu hướng M&A ở Việt Nam ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn, tiến hành
đúng theo ý nghĩa tiến hành một phương án đầu tư hoàn thiện. Xuyên suốt quá
trình thực hiện M&A, công việc chiếm nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều công sức
nhất là công tác định giá doanh nghiệp. Đây là công việc khá phức tạp, yêu cầu
những người thực hiện có khả năng và kiến thức tốt, nó cũng là công tác xuyên
suốt từ khi nghiên cứu phương án M&A cho đến khi hoàn thành. Ở Việt Nam
cũng đã thực hiện định giá theo những phương pháp chuẩn khoa học, được áp
dụng tương đối phù hợp với đặc thù thị trường trong nước, tuy vậy cũng còn có
một số hạn chế nhất định cần hoàn thiện nhiều hơn. Việc chọn đề tài: “Hoàn
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
3
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
thiện phương pháp định giá doanh nghiệp trong mua bán & sáp nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cũng xuất phát từ ý tưởng này. Đề tài
này sẽ giúp hình dung một cách tổng quan nhất về hoạt động M&A trên thị
trường Việt Nam và cái nhìn cụ thể vào hoạt động định giá doanh nghiệp nhằm
tìm ra một cách xác định giá trị phù hợp tránh làm mất đi giá trị bản thân doanh
nghiệp trong quá trình thương lượng mua bán doanh nghiệp tiến hành.
Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề sau:
Vấn đề lý luận chung về hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp, quy
trình thực hiện M&A.
Các phương pháp định giá doanh nghiệp và công tác định giá doanh nghiệp
trong giao dịch M&A.

Đề xuất các vấn đề nhằm hoàn thiện phương pháp định giá doanh nghiệp
trong giao dịch M&A ở Việt Nam.
Kết cấu đề tài:
Kết cấu đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1 : Lý luận chung về định giá trong mua bán và sáp nhập doanh
nghiệp .
Chương 2: Thực trạng định giá doanh nghiệp trong M&A ở Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện phương pháp định giá trong giao dịch M&A ở Việt
Nam.
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
4
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
Chương I: Lý luận chung về định giá trong mua bán
và sáp nhập doanh nghiệp.
1.1. Lý luận chung về M&A:
1.1.1 Lịch sử hình thành
Hoạt động mua bán và sát nhập doanh nghiệp đã hình thành từ rất sớm ở
các nước phương Tây có nền kinh tế phát triển mà có xu hướng rõ rệt nhất phải
kể đến các giao dịch ở thị trường Mỹ. Ở đây, nghiên cứu về lịch sử phát triển
M&A, chúng ta nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển M&A ở Mỹ như
là đại diện cho toàn thế giới.
Cho đến nay nước Mỹ đã trải qua 5 làn sóng M&A mạnh mẽ nhất:
- Làn sóng M&A thứ nhất: từ những năm cuối thế kỷ 19 đến những năm
đầu tiên của thế kỷ 20.
- Làn sóng M&A thứ 2: từ khoảng năm 1916 – 1929.
- Làn sóng M&A thứ 3: xuất hiện trở lại khi nền kinh tế Mỹ tăng trưởng
mạnh trong khoảng 1965 – 1969.
- Làn sóng M&A thứ 4: từ 1984 – 1989.
- Làn sóng M&A thứ năm: từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay.
*) Làn sóng M&A từ những năm 1897 – 1904:

Đây là giai đoạn mà ngành công nghiệp sản xuất và khai khoáng tham gia
“tích cực” vào làn sóng M&A. Trong giai đoạn này, mục đích M&A chủ yếu là
nhằm tăng khả năng cạnh tranh và tăng mức độ độc quyền trên thị trường. Các
ngành mà hoạt động mua bán sáp nhập diễn ra mạnh mẽ nhất trong giai đoạn
này bao gồm: sản xuất thực phẩm, sản xuất hợp kim, sản xuất nhựa đường, sản
xuất kim loại cơ bản, công nghiệp dầu khí, hóa học và phương tiện giao thông
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
5
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
vận tải. Trong số tất cả các thương vụ M&A giai đoạn này thì đã có 2/3 giá trị là
của tám ngành này.
Nổi bật trong giai đoạn này là thương vụ M&A của United States Stell và
Carnegie Stell(năm 1901). Với mục tiêu kiểm soát thị trường ngành thép, JP
Morgan đã sát nhập Carnegie Stell với giá trị 1 tỷ USD để chiếm 75% sản lượng
của ngành thép Hoa Kỳ. Carnergie trở thành công ty con của U.S Stell và được
đổi tên thành Carnegie-Illinois Steel Company vào năm 1936. Theo tính toán
của Nelson, trong giai đoạn này đã có tới 300 công ty biến mất, cho đến năm
1909 thì trong nội bộ ngành công nghiệp Mỹ thống kê được chỉ 100 công ty đầu
ngành nhưng chiếm tới 18% tài sản của tất cả các ngành công nghiệp.
Cũng chính trong giai đoạn này, đạo luật Sherman ra đời (năm 1890) nhằm
điều chỉnh hoạt động M&A để tránh tình trạng độc quyền ngày càng cao trong
các ngành công nghiệp. Tuy chính phủ Hoa Kỳ đã nhìn nhận ra vấn đề và kịp
thời can thiệp, nhưng đạo luật này vẫn chưa thực sự có tác động lớn trong thực
tế, tình trạng độc quyền cao trong ngành vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để xóa
bỏ.
*) Làn sóng M&A thứ hai (từ 1916 – 1929):
Làn sóng này tương ứng với thời kì hưng thịnh của nền kinh tế Mỹ. Giai
đoạn này không còn coi trọng việc mở rộng quy mô, tăng sức mạnh cạnh tranh
và độc quyền bằng việc đa dạng hóa sản xuất, mua lại các công ty có cùng chu
trình kinh doanh thích hợp. Điều này được giải thích là vì sự xuất hiện và hiệu

lực của Đạo luật Clayton (ra đời năm 1914), bổ sung và hoàn thiện Đạo luật
chống độc quyền trước đó.
Các lĩnh vực hấp dẫn các nhà đầu tư giai đoạn này tiếp tục là các ngành
công nghiệp thuộc các mảng khai khoáng, thiết bị giao thông, thực phẩm và hóa
chất. Trong thời kì này, nguồn vốn được sử dụng chủ yếu được cung cấp từ hệ
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
6
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
thống ngân hàng, điều này cũng giải thích cho lí do tại sao khi thị trường chứng
khoán Mỹ sụp đổ, khủng hoảng tài chính ngân hàng (1929 - 1933) bắt đầu thì
làn sóng M&A này cũng chấm dứt ngay lập tức.
*) Làn sóng thứ ba: khoảng thời gian từ 1965 – 1969.
Làn sóng M&A trong giai đoạn này có nhiều điểm chung với làn sóng xuất
hiện đầu tiên vì đều có chung hoàn cảnh xuất hiện khi nền kinh tế bùng nổ mạnh
mẽ. Với sự phát triển của thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu tăng cao, chỉ số
Dow Jones công nghiệp(DJIA) tăng mạnh từ 618 điểm năm 1960 lên đến 906
điểm vào năm 1968, thì nguồn vốn sử dụng của các giao dịch M&A chủ yếu là
nguồn vốn từ cổ phiếu. Điều này cũng còn được giải thích là do các khoản thuế
được lợi khi giao dịch cổ phiếu cấp vốn cho các giao dịch M&A, đó thực sự
không phải là khoản lợi nhuận bình thường mà là những khoản lời khổng lồ.
Hình thức giao dịch M&A trong giai đoạn này chủ yếu nhằm mục đích đa
dạng hóa ngành nghề kinh doanh. Trong giai đoạn này có rất nhiều
Conglomerate (tên gọi các công ty lớn sở hữu hàng loạt các công ty hoạt động
trong các ngành nghề khác nhau) được thành lập, tiêu biểu nhất có Ling –
Temco – Vought (LTV) và ITT.
Giá trị các thương vụ M&A trong giai đoạn này tăng mạnh và xu hướng
mua bán, sát nhập nhằm mục đích đa dạng hóa không chỉ dừng lại ở các “đại
gia” mà còn xuất hiện ở các công ty nhỏ, nhằm tận dụng lợi thế của sự kết hợp.
*) Làn sóng M&A thời kì những năm 80 của thế kỉ XX:
Làn sóng này được ghi nhận là làn sóng của các vụ siêu sáp nhập với giá trị

sáp nhập của các thương vụ trong giai đoạn này tăng mạnh mẽ bù lại giai đoạn
trầm lắng những năm 70. Đặc điểm của các thương vụ trong giai đoạn này nổi
bật là hiện tượng thôn tính lẫn nhau thông qua M&A. Những giao dịch trong
giai đoạn này khá phổ biến hiện tượng nhà đầu tư mua lại một công ty thông qua
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
7
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
nghiệp vụ mua lại doanh nghiệp bằng vốn vay. Thuật ngữ LBOs (Leveraged
buyouts) trở thành thuật ngữ phổ biến, được sử dụng quen thuộc ở phố Wall,
thông qua nghiệp vụ này, công ty cổ phần đại chúng có thể trở thành công ty sở
hữu tư nhân.
Trong giai đoạn này, vai trò của các ngân hàng thể hiện trong việc tài trợ
vốn cho đầu tư giao dịch M&A. Các giao dịch mang tính chất quốc tế bắt đầu
xuất hiện lẻ tẻ.
Chính vì sự phổ biến của LBOs trong giai đoạn này thông qua sự hoạt
động của thị trường trái phiếu chất lượng thấp (Junk Bond) nên khi thị trường
này sụp đổ kéo theo sự suy yếu của giao dịch M&A. Năm 1989, thị trường trái
phiếu chất lượng thấp sụp đổ, làn sóng M&A thứ tư đồng thời kết thúc.
*) Làn sóng M&A thứ năm (từ 1992 đến nay):
Bắt đầu từ năm 1992, những giao dịch thời kì này mang tính chất thân thiện
nhiều hơn là tính chất thôn tính như các giai đoạn trước mặc dù số lượng các vụ
siêu sáp nhập vẫn tăng lên mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, giao dịch M&A diễn
ra theo định hướng chiến lược phát triển của công ty nhiều hơn là các giao dịch
có mục đích kiếm lời trong ngắn hạn.
Nguồn tài trợ cho các giao dịch M&A giai đoạn này không phụ thuộc hoàn
toàn vào nguồn vốn ngân hàng mà chủ yếu dựa vào nguồn tài chính bên trong.
Thêm nữa, trong giai đoạn này, các vụ sáp nhập giữa các tập đoàn quốc gia xuất
hiện rất phổ biến và rộng rãi.
Cho đến hiện nay, mặc dù nền kinh tế đang trong thời kì khủng hoảng
nhưng các giao dịch M&A vẫn không bị giảm sút quá nhiều, thậm chí nó còn

được nhận định trong thời gian sắp tới sẽ còn xuất hiện nhiều hơn và có sức ảnh
hưởng mạnh mẽ hơn xu thế hoạt động của các tập đoàn kinh tế phát triển mạnh.
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
8
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
1.1.2 Khái niệm:
1.1.2.1 Định nghĩa:
M&A là chữ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh Mergers & Acquitsition có
nghĩa là thâu tóm và sáp nhập, dùng để chỉ hoạt động mua, bán và kết hợp các
doanh nghiệp lại với nhau dưới các hình thức và với các mục đích đa dạng.
Sáp nhập (mergers) là hình thức kết hợp mà hai hay nhiều tổ chức, thường
có cùng quy mô, thống nhất sẽ cùng tham gia hợp nhất với nhau để trở thành
một công ty mới có quy mô lớn hơn, hoàn thiện hơn.
Quy định thường thấy thì giao dịch sáp nhập cần đáp ứng được điều kiện
có sự đồng ý của ít nhất 50% cổ đông của doanh nghiệp chào mua và doanh
nghiệp được chào mua. Trong một giao dịch, ban giám đốc của doanh nghiệp
chào mua (Bidding firm) và doanh nghiệp được chào mua (Target firm) đồng ý
kết hợp và phải thuyết phục các cổ đông của cả hai bên phê chuẩn quyết định
hợp nhất, sau sáp nhập thì công ty được chào mua không tồn tại nữa, thay vào
đó, doanh nghiệp chào mua thừa hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ nợ của doanh
nghiệp được chào mua.
Trường hợp sáp nhập đại lý (subsidiary merger) là trường hợp riêng mà kết
quả của việc sáp nhập là doanh nghiệp được chào mua trở thành 1 công ty con
của doanh nghiệp chào mua.
Một ví dụ cho 1 thương vụ sáp nhập ở Việt Nam là giao dịch sáp nhập giữa
công ty cô phần Kinh Đô và công ty cổ phần Bắc Kinh Đô.
Thâu tóm(acquitsition) là hình thức kết hợp mà một công ty (gọi là công ty
thâu tóm) tìm cách mua lại toàn bộ hoặc một phần số lượng cổ phiếu hoặc giá trị
tài sản của công ty khác (gọi là công ty mục tiêu) nhằm có thể khống chế toàn
bộ các quyết định của công ty đó.

sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
9
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
Hoạt động này có thể là một trong các hoạt động thôn tính, mua lại tài sản
hay mua nội bộ.
Thôn tính(tender offer) là giao dịch mà một doanh nghiệp chào mua các cổ
phiếu của một doanh nghiệp khác, các cổ phiếu này phải là các cổ phiếu đã được
phát hành ra công chúng và việc chào mua phải được thông báo công khai, đồng
thời phải có thư gửi đến các cổ đông của công ty được chào mua.
Mua lại tài sản (Purchase of assets) lại là giao dịch, như tên gọi của nó, mà
một doanh nghiệp mua lại tài sản của danh nghiệp khác. Trong trường hợp này
thì, bên bán vẫn có quyền sở hữu các cổ phiếu của mình, tuy nhiên, các tài sản
và nợ đã được xác định trong hợp đồng mua bán thì phải được chuyển sang
quyền sở hữu của bên mua. Thông thường thì giao dịch này được tiến hành cũng
phải thông qua sự đồng ý của các cổ đông doanh nghiệp được mua. Hơn nữa,
giao dịch này khá phức tạp trong việc chuyển quyền sở hữu, nhiều khi là chuyển
cả đại diện trong các hợp đồng yêu cầu phải có thủ tục hành chính rắc rối.
Mua nội bộ (Management Buyout) thường là giao dịch của một cá nhân nằm
trong doanh nghiệp đó, từng bước mua lại các cổ phần của công ty. Kết quả của
giao dịch này là công ty đó sẽ trở thành doanh nghiệp sở hữu tư nhân. Giao dịch
này cũng yêu cầu phải được công bố công khai.
Hợp nhất công ty là khái niệm để chỉ hai hoặc một số công ty cùng thỏa
thuận chia sẻ tài sản, thị phần và thương hiệu với nhau để hình thành một công
ty hoàn toàn mới, có tên mới đồng thời chấm dứt hoạt động của công ty cũ. Cổ
đông của hai công ty sẽ cùng nhận được cổ phiếu của công ty mới thành lập,
thông thường, tên của công ty mới này là sự kết hợp tên của hai công ty cũ.
Trong thực tế, sự phân chia này chỉ là hình thức vì ranh giới phân chia rất
mờ nhạt, không rõ ràng, rất khó để phân biệt chính xác giữa các hình thức. Có
thể nhận ra thuật ngữ hợp nhất được sử dụng khá phổ biến, có khi dùng thay thế
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A

10
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
luôn cho thuật ngữ sáp nhập trong thực tế.. Thông thường, giao dịch M&A giữa
hai doanh nghiệp cùng quy mô thì được gọi là hợp nhất, còn giao dịch giữa hai
doanh nghiệp khác quy mô được gọi là giao dịch hợp nhất.
1.1.2.2 Phân loại:
Hoạt động sáp nhập thường được chia thành 3 loại:
- Sáp nhập theo chiều ngang (Horizontal): sáp nhập giữa các công ty có
cùng lĩnh vực kinh doanh, từ đó tạo ra một công ty mới có sức cạnh
trạnh cao, giảm thiểu đối thủ cạnh tranh, tiết kiệm chi phí do quy mô.
- Sáp nhập theo chiều dọc (Vertical): sáp nhập giữa các công ty có cùng
lĩnh vực kinh doanh nhưng khác nhau về phân khúc thị trường. Ví dụ
như sự kết hợp giữa công ty chăn nuôi bò sữa và công ty chế biến các
sản phẩm làm từ sữa bò. Sự sáp nhập này sẽ tạo ra lợi nhuận thông qua
tận dụng kinh nghiệm và khả năng của các công ty trong một chuỗi
nhằm tạo ra giá trị gia tăng cho khách hàng. Hình thức sáp nhập này
thường mang lại giá trị cộng hưởng rất lớn cho giao dịch.
- Sáp nhập theo kiểu hỗn hợp (conglomerate):sáp nhập giữa các công ty
khác nhau hoàn toàn về lĩnh vực kinh doanh, từ đó tạo ra các tập đoàn
lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Mục đích của kiểu sáp nhập này là
nhằm giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa. Tuy nhiên, hình thức này
không còn mấy phổ biến trong những năm gần đây.
Một hình thức hoạt động của M&A khác là hoạt động tái cơ cấu lại doanh
nghiệp, cắt bỏ những phần hoạt động không hiệu quả hoặc những phần không
kiểm soát được để tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hình thức
thường gặp trong trường hợp này là doanh nghiệp bán đi một phần hoạt động
của mình. Ví dụ: IBM bán cho Lenovo nhánh PC của mình với giá 1,25 tỷ USD.
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
11
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính

Có hai loại phương pháp tiến hành:
- Spin – off: công ty tách một phần hoạt động của mình, thành lập công ty
mới độc lập. Các cổ đông hiện hữu của công ty được chia cổ phiếu của
công ty mới.
- Carve – out: công ty mới được thành lập từ công ty ban đầu, cổ phần
công ty mới được bán ra ngoài công chúng. Thường thì phần tách ra chỉ
chiếm khoảng 20% hoặc nhỏ hơn giá trị công ty mẹ.
1.1.3 Mục đích và vai trò của hoạt động M&A:
Có hàng loạt động cơ khác nhau đưa các công ty đến việc sáp nhập và mua
lại:
- Sáp nhập nhằm tận dụng lợi thế cạnh tranh hoặc để đạt được lợi nhuận
độc quyền.
- Sáp nhập nhằm tận dụng sức mạnh thị trường chưa được khai thác hết.
- Sáp nhập nhằm phản ứng lại những cơ hội tăng trưởng và lợi nhuận
đang bị thu hẹp trong một ngành công nghiệp do nhu cầu giảm hoặc
cạnh tranh quá mức.
- Sáp nhập nhằm đa dạng hóa để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
- Sáp nhập nhằm đạt được quy mô đủ lớn nhằm tận dụng ưu thế do quy
mô.
- Sáp nhập bằng cách mua lại những nguồn lực bổ sung cần thiết, các
sáng chế hoặc các nhân tố sản xuất khác nhằm vượt qua một số hạn chế
của công ty.
- Sáp nhập nhằm đạt được một quy mô đủ lớn để dễ tiếp cận hơn đối với
thị trường vốn.
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
12
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
- Sáp nhập để sử dụng hoàn thiện hơn nguồn nhân lực của công ty hiện
có, đặc biệt là nhân lực quản lý.
- Sáp nhập nhằm thay thế đội ngũ nhân viên và ban quản trị hiện tại hoạt

động không đáp ứng yêu cầu.
- Sáp nhập nhằm tận dụng lợi ích về thuế.
- Sáp nhập để tận dụng cơ hội mua lại những tài sản có giá trị thấp hơn
giá trị thị trường.
- Sáp nhập nhằm rút ngắn thời gian thâm nhập thị trường và thời gian qua
các giai đoạn tăng trưởng.
Tóm lại, giao dịch M&A mang lại cho doanh nghiệp những thuận lợi cơ
bản như sau:
1.1.3.1 Tăng trưởng:
Đây là một lý do gần như xuyên suốt hầu hết tất cả các giao dịch M&A.
Một doanh nghiệp khi muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì buộc đặt trước 2
sự lựa chọn, hoặc là tự mình mở rộng quy mô hoặc là đi mua lại một doanh
nghiệp khác.
Việc tự mình đầu tư mở rộng quy mô gặp khá nhiều khó khăn. Đó là việc
tốn nhiều thời gian, hơn nữa lại còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Không ai có thể
chắc chắn rằng, khi “bắt đầu từ đầu” doanh nghiệp có thể thành công, xác suất
thất bại khiến cho các doanh nghiệp lựa chọn mua lại một doanh nghiệp khác để
tiết kiệm thời gian và giảm thiểu rủi ro. M&A có thể diễn ra giữa các doanh
nghiệp ngoài ngành hoặc các doanh nghiệp trong cùng một ngành, ở phần này,
tạm thời chỉ dừng lại ở các giao dịch M&A diễn ra trong cùng ngành, các giao
dịch giữa các ngành khác nhau sẽ được đề cập trong phần đa dạng hóa dưới đây.
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
13
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
Việc thực hiện M&A trong ngành nhằm gia tăng quy mô của doanh nghiệp
về thị trường và sản phẩm. Nếu doanh nghiệp quyết định tự nghiên cứu tìm ra
sản phẩm mới, tự mình khai thác và chiếm lĩnh một thị trường mới thì quá trình
này muốn thành công đòi hỏi một khoảng thời gian tương đối dài. Hơn nữa,
trong giai đoạn mới đầu, chắc chắn những chi phí không tránh khỏi như chi phí
xây dựng mới, chi phí quảng cáo tiếp thị sản phẩm sẽ là các tác nhân tạo nên

một mức giá cao, ít cạnh tranh, thời gian cần thiết chiếm lĩnh thị trường lâu hơn.
Khi công ty quyết định mở rộng bằng việc tìm cách mua lại một doanh nghiệp
hay một phần của doanh nghiệp khác, công ty sẽ tận dụng được những yếu tố về
công nghệ và thị phần của doanh nghiệp đó, quy trình sản xuất và nghiên cứu
sản phẩm mới, kênh phân phối cũng đã có từ trước chứ không cần xây dựng lại
từ đầu. Mặt khác, lượng khách hàng quen thuộc đã có từ trước của công ty bị
mua lại cũng sẽ là lượng khách hàng tiềm năng của công ty sau sáp nhập. Tất cả
những yếu tố đó góp phần rút ngắn thời gian, nhanh chóng chiếm lĩnh thị
trường, giảm chi phí, tăng tính cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong cùng
ngành.
Ví dụ nổi bật của giao dịch loại này là việc Microsoft cố gắng mua lại
Yahoo! Nhằm tận dụng một kênh quảng cáo trực tuyến khá rộng lớn mà không
phải xây dựng lại từ đầu.
Khi một công ty muốn mở rộng thị phần ra các quốc gia khác nhau sẽ gặp
phải rất nhiều rào cản về chính trị, văn hóa, môi trường luật pháp, các chính
sách…thêm thời gian để nghiên cứu sản phẩm nhằm thích nghi với môi trường
mới, chi phí nhằm quảng bá sản phẩm cũng như doanh nghiệp của mình để được
biết đến ngoài các đối thủ cạnh tranh đã xuất hiện từ trước. Tất cả những rủi ro
đó khiến họ cố gắng tìm cho mình một giải pháp tốt hơn, điều đó khiến họ tìm
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
14
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
đến M&A. M&A không chỉ giúp họ tiết kiệm được thời gian thực hiện mà còn
tiết kiệm được rất nhiều những chi phí phát sinh.
Ví dụ: Năm 2007, thị trường bảo hiểm Việt Nam ghi nhận sự thâm nhập
của Daiichi, tập đoàn bảo hiểm của Nhật Bản, bằng cách mua lại Công ty bảo
hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG. Việc Công ty bảo hiểm Bảo Minh và tập đoàn
CMG(Australia) bán Bảo Minh CMG cho Daiichi đã tiết kiệm cho Daiichi rất
nhiều chi phí về thời gian thành lập, xây dựng chi nhánh và tìm kiếm đội ngũ
nhân sự.

1.1.3.2 Tận dụng giá trị cộng hưởng:
Giá trị cộng hưởng được hiểu là hai doanh nghiệp A và B có giá trị tương
ứng VA và VB khi kết hợp với nhau thành doanh nghiệp AB có giá trị VAB thì
VA + VB > VAB.
Khi đó VAB – (VA + VB) chính là giá trị cộng hưởng của sự kết hợp.
Xuất hiện nhiều trong các giao dịch M&A theo chiều dọc hơn là các giao
dịch theo chiều ngang. Thông thường giá trị gia tăng này là sự kết hợp giữa giá
trị gia tăng từ kết hợp hoạt động và giá trị gia tăng từ kết hợp tài chính.
- Giá trị gia tăng từ kết hợp hoạt động: Khi hai công ty kết hợp với nhau
thì có thể tận dụng được các ưu thế của nhau trong hoạt động nhằm tạo
ra lợi nhuận lớn nhất cho công ty mới. Các ưu thế đó có thể là:
+ Ưu thế về công nghệ:
Nếu hai doanh nghiệp sáp nhập với nhau, có một doanh nghiệp trong đó
chưa tận dụng tối đa dây chuyền công nghệ mà mình đang có, còn doanh nghiệp
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
15
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
kia thì đang cần một dây chuyền mới hoạt động với công suất đúng bằng công
suất thừa của doanh nghiệp kia, thì họ có thể tận dụng tối đa cả hai dây chuyền
đã có, vừa không lãng phí vừa không cần phải mua thêm cái mới.
+ Ưu thế về thị phần:
Khi hai doanh nghiệp đang cùng hoạt động trong cùng một quy trình nhưng
ở hai thị trường khác nhau, việc kết hợp hai doanh nghiệp này lại với nhau có
thể tận dụng được danh tiếng và uy tín của nhau trên các thị trường mới, nhằm
rút ngắn thời gian cần thiết để tìm kiếm khách hàng.
+ Ưu thế về năng lực sản xuất:
Khi một doanh nghiệp càng được mở rộng thì chi phí cố định của nó càng
giảm, đây chính là lợi thế tiết kiệm chi phí theo quy mô. Hơn nữa khi hai doanh
nghiệp kết hợp với nhau thì tiết kiệm được chi phí nhân công, nhất là chi phí
quản lý và kể cả chi phí sản xuất khhi tận dụng được nhân công thừa từ công ty

này bổ sung nhu cầu nhân công của công ty kết hợp.
+ Ưu thế về kênh phân phối:
Khi một doanh nghiệp sản xuất và một doanh nghiệp phân phối kết hợp với
nhau họ sẽ có một hệ thống đồng bộ từ sản xuất đến bán hàng, đây là lợi thế rất
lớn so với các đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực. Việc kiểm soát từ sản
xuất đến phân phối sản phẩm khiến cho doanh nghiệp chủ động trong sản xuất
và hiệu quả hơn trong bán hàng, điều này góp phần làm giảm rủi ro bán hàng và
tăng lợi thế với các đối thủ cạnh tranh cũng như đối với việc hoạt động riêng
biệt từng giai đoạn.
+ Ưu thế sử dụng thương hiệu:
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
16
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
Một công ty chưa có thương hiệu mạnh, chưa có uy tín lớn trên thị trường
được một công ty có thương hiệu mua lại sẽ được biết đến nhiều hơn, phát triển
thuận lợi hơn.
- Giá trị gia tăng từ kết hợp tài chính:
+ Ưu thế về việc sử dụng vốn:
Khi hai công ty kết hợp với nhau, kì vọng về sự phát triển của nhân tố mới
kết hợp sẽ là niềm tin cho nhà đầu tư. Công ty sẽ dễ dàng tiếp cận hơn các
nguồn tài trợ mới và sức mạnh gia tăng từ niềm tin của nhà đầu tư có thể đưa
công ty gần hơn với các khoản nợ chi phí thấp.
+ Lợi thế về thuế:
Hai công ty kết hợp với nhau, tài sản cố định tăng lên, khấu hao tăng lên,
đây là một khoản tiết kiệm thuế cho doanh nghiệp mới. Thêm nữa, nếu một công
ty có khoản lỗ được một công ty có lợi nhuận mua lại, thì khoản lỗ đó cũng là
mục đích tiết kiệm thuế cho công ty kia.
+ Lợi thế sử dụng dòng tiền
Một công ty có thể có tiền mặt nhưng không có dự án để giải ngân, ngược
lại, một công ty khác có dự án khả thi nhưng không đủ nguồn vốn tài trợ, nếu

hai công ty này kết hợp với nhau thành công thì mỗi công ty đều có lợi thế của
mình và đều đạt được lợi nhuận.
1.1.3.3 Đa dạng hóa:
Với nguyên tắc đa dạng hóa là san sẻ rủi ro cho nhiều lĩnh vực khác nhau
nhằm giảm thiểu rủi ro khi có ít sự lựa chọn, các công ty mua lại các doanh
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
17
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
nghiệp khác không cùng ngành với mình để phát triển sản xuất theo một mô
hình mới rộng lớn hơn. Trong kinh doanh chứng khoán đây chính là nguyên tắc
không để tất cả trứng vào một giỏ. Lợi ích của đa dạng hóa được nhìn ra tương
đối rõ ràng, khi một bộ phận gặp khó khăn, nếu doanh nghiệp có thể phát triển ở
các bộ phận khác không liên quan thì doanh nghiệp vẫn đứng vững, rủi ro phá
sản thấp đi. Thực hiện giao dịch M&A nhằm mục đích này thường gặp ở các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp thuộc sở hữu gia đình. Đó là các doanh
nghiệp mà toàn bộ vốn đã có của chủ đầu tư dồn hết vào, họ không có cách nào
tốt hơn để phát triển doanh nghiệp và tối thiểu hóa rủi ro cho nguồn vốn của
chính mình là đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Với nguồn
vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp, họ cũng khó có thể có đủ để tham gia vào các
doanh nghiệp khác với tư cách cổ đông lớn do hạn chế về kinh tế.
Đối với các cổ đông của công ty đại chúng, họ có thể dễ dàng đa dạng hóa
các khoản đầu tư của mình thông qua thị trường chứng khoán. Vì thế đa dạng
hóa bằng M&A không mang lại nhiều giá trị cho họ, cũng không được ưa
chuộng bởi chi phí tìm kiếm cơ hội đầu tư, chi phí giao dịch…
Đa dạng hóa, tuy vậy, cũng không phải là một biện pháp hoàn toàn không
có rủi ro tiềm ẩn. Với năng lực quản trị không tốt thì đa dạng hóa bằng M&A là
một biện pháp tồi. Không ai có thể tự tin trên tất cả mọi lĩnh vực, khi quy mô
quá mở rộng ra nhiều lĩnh vực mà khả năng quản trị của công ty không đáp ứng
kịp thì việc đa dạng hóa còn làm cho lĩnh vực trước đó có thể rất mạnh cũng bị
suy yếu đi, rủi ro chưa chắc đã giảm xuống mà còn có thể tăng lên cho hoạt

động chính của công ty từ trước M&A. Ví dụ nhà đầu tư muốn thâm nhập vào
những lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi trình độ quản lí cao như ngân hàng tài chính,
thì sự yếu kém trong khâu quản trị sẽ làm sụp đổ ngay cả những mảng mà trước
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
18
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
đây công ty mạnh nhất. Thêm một hạn chế nữa của đa dạng hóa đó là, với nguồn
lực tài chính có hạn, việc đa dạng hóa không hợp lí sẽ phân tán nguồn vốn của
chính mảng đầu tư mà doanh nghiệp mạnh nhất từ trước, điều này có thể làm
giảm uy tín của doanh nghiệp.
1.1.3.4 Mua lại các doanh nghiệp dưới giá trị:
Trong thị trường tài chính, khi một công ty được định giá thấp hơn giá trị
thực vốn có của nó là một khoản đầu tư có lợi lớn. Lợi nhuận mà khoản đầu tư
vào công ty này mang lại bao gồm cả lợi nhuận của chính công ty cộng thêm
mức chênh lệch trong giá mua và giá trị thực của công ty. Điều này lí giải tại sao
các nhà đầu tư khi nhận ra mức giá sai này thì bằng mọi cách tìm kiếm cổ phần
của công ty mục tiêu. Tuy trên lý thuyết là như thế nhưng việc tìm kiếm công ty
mục tiêu trong trường hợp này mang tính chủ quan và tiềm ẩn rủi ro. Có hai
điểm quan trọng khi xác định chiến lược M&A trong trường hợp này:
- Việc tìm kiếm thông tin để tìm ra công ty đang giao dịch dưới mức giá
trị của nó: điều này phụ thuộc vào thông tin thu được và khả năng của
nhà đầu tư xử lý thông tin đó như thế nào. Thứ nhất, họ cần có thông tin
trước các nhà đầu tư khác trên thị trường, có nghĩa là khả năng tiếp cận
thông tin của họ phải tốt hơn các nhà đầu tư khác trên thị trường. Thứ
hai, họ cần có khả năng hoặc công cụ phân tích được sử dụng so với
những người tham gia khác trên thị trường. Có như vậy thì họ mới có
thể kịp thời giao dịch thành công.
- Tìm kiếm và chuẩn bị nguồn quỹ để thực hiện việc mua bán: việc tiếp
cận thông tin chỉ là điều kiện cần cho một giao dịch thành công, sự
chuẩn bị nguồn quỹ thực hiện giao dịch này mới là điều kiện đủ của

giao dịch. Trên thực tế thì khả năng tiếp cận nguồn vốn phụ thuộc vào
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
19
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
chính nội lực của công ty và những thành tựu trong quá khứ của công ty
đó.
Mua lại các doanh nghiệp đang được đánh giá dưới giá trị thực tế của nó
phần nhiều nặng về tâm lý chủ quan, phụ thuộc vào chính công ty đi mua. Thêm
nữa, có những hạn chế là trong thị trường hiệu quả thì một công ty đại chúng sẽ
được những phần bù trong giao dịch biểu hiện thông qua giá thị trường bù đắp
phần chênh lệch, vì thế, giao dịch này thường có lợi đối với các công ty tư nhân
hoặc trong các thị trường hiệu quả yếu.
1.1.3.5 Mua lại các công ty có năng lực quản lý kém và thay đổi bộ máy
quản trị:
Một vài công ty đang được quản lý với bộ máy quản lý tốt nhất và họ tin
rằng có một vài công ty khác có tiềm năng nhưng họ có thể thay thế những nhà
quản trị để điều hành tốt hơn hoạt động của các công ty đó. Mục đích của giao
dịch này nhằm thu lợi nhuận từ giá trị quản lý (value of control). Các công ty
mục tiêu được thay đổi bộ máy quản trị, hoặc ít nhất là thay đổi chính sách quản
lý hiện có để hoạt động có hiệu quả hơn, công ty có giá trị lớn hơn.
Trên thực tế thì một vụ giao dịch M&A không chỉ dừng lại ở mỗi một mục
đích nhất định mà nó được thực hiện nhằm những mục đích đồng thời khác nhau
kết hợp. Một thương vụ càng kết hợp được nhiều mục đích khác nhau càng tiến
hành phức tạp, đòi hỏi năng lực của công ty tiến hành, đòi hỏi sự tìm hiểu kĩ
lưỡng, do đó, càng có khả năng thành công hơn
1.1.4 Xu hướng hiện nay:
Trong những năm gần đây, hoạt động M&A trên thế giới ngày càng phát
triển. Mặc dù nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khủng hoảng chưa được
phục hồi, nhưng đây cũng là thời điểm mà cuộc chiến sinh tồn của các doanh
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A

20
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
nghiệp diễn ra khá khốc liệt. Những doanh nghiệp có khả năng phát triển sẽ tiếp
tục khẳng định được vị thế của mình ngày càng vững chắc khi được thử thách
qua rất nhiều khó khăn chung còn những doanh nghiệp không thể vượt qua giai
đoạn này chắc chắn sẽ bị nuốt chửng bởi các doanh nghiệp khác mạnh hơn.
Cũng có thể, các doanh nghiệp cùng gặp khó khăn kết hợp với nhau để cùng
vượt qua khủng hoảng.
Trong thời gian tới đây, khi khủng hoảng đi qua, thời kì hậu khủng hoảng
sẽ còn chứng kiến nhiều cuộc sáp nhập giữa các công ty để tạo nên một khối lớn
mạnh hơn, nhằm phát triển tốt hơn. Cũng có thể xuất hiện các cuộc sáp nhập,
mua lại của một công ty lớn mạnh và một công ty yếu tiềm năng, điều này được
giải thích là vì hiện tượng cá lớn nuốt cá bé, công ty yếu sẽ rất khó đứng vững
sau khủng hoảng còn các công ty lớn sau khủng hoảng muốn mở rộng quy mô
hoạt động một cách nhanh chóng, để quay lại với thời kì phát triển.
1.2. Lý luận chung về định giá doanh nghiệp:
1.2.1. Khái niệm giá trị doanh nghiệp:
Theo giáo trình phân tích Báo cáo tài chính, NXB Đại học Kinh tế Quốc
dân, năm 2008: Giá trị doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các khoản
thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đầu tư trong quá trình hoạt
động kinh doanh.
Giá trị của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là giá trị vốn chủ sở hữu của
một doanh nghiệp mà là tổng giá trị của tất cả các tài sản sử dụng trong quá trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó nhằm mang lại lợi ích cho các chủ sở
hữu và các nhà cung cấp tín dụng. Như vậy, giá trị vốn chủ sở hữu chỉ là một
phần của giá trị doanh nghiệp.
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
21
Giá trị vốn chủ sở hữu = Giá trị doanh nghiệp – Giá trị nợ phải trả.
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính

Giá trị mà một doanh nghiệp có thể mang lại cho các nhà đầu tư có thể
được xem xét trên hai góc độ:
- Giá trị thanh lý: Là số tiền tạo ra khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động
và bán tất cả các tài sản của nó.
- Giá trị hoạt động liên tục: Là giá trị hiện tại của dòng tiền tạo ra trong
tương lai từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Vai trò:
Xác định giá trị doanh nghiệp là việc làm có quan hệ với tất cả các quyết
định kinh doanh của doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp là công tác xuyên
suốt trong quá trình hoạt động, có ý nghĩa nhất định đối với mỗi đối tượng khi
tiếp cận với doanh nghiệp theo một cách riêng và nhằm những mục đích riêng.
Đối với các nhà quản trị, định giá doanh nghiệp phản ánh giá trị chân thực
hiện có của doanh nghiệp, từ đó xác định được các tiềm năng, các nguồn lực của
doanh nghiệp để định hướng phát triển hợp lý và hoạt động có hiệu quả. Bản
định giá doanh nghiệp này thường là bản định giá mang màu sắc của chủ sở hữu,
coi trọng đến tài sản và giá trị thị trường của doanh nghiệp.
Đối với nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp, việc định giá doanh nghiệp xác
định rõ giá trị thực tế của doanh nghiệp, khả năng có lời của các khoản đầu tư
khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp đó. Có thể, việc định giá doanh nghiệp
ở các thời điểm khác nhau còn có thể giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định hợp lý
trong việc lựa chọn thời điểm tham gia đầu tư và thời hạn có hiệu lực của khoản
đầu tư. Các nhà đầu tư cổ phiếu còn xác định giá trị doanh nghiệp để xác định
mức giá đầu tư và thời điểm tham gia cũng như thời điểm rút khỏi thị trường.
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
22
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
Đối với ngân hàng và người cho vay nợ, việc xác định giá trị doanh nghiệp
nhằm mục đích đưa ra quyết định giải ngân và thu hồi nợ hợp lí, hạn chế tối đa
rủi ro của các khoản cho vay.
Trong các giao dịch M&A thì định giá doanh nghiệp lại càng cần thiết và

đòi hỏi một sự chính xác đến mức độ cao nhất. Hoạt động này xuyên suốt quá
trình thực hiện M&A từ sau khi tìm kiếm cơ hội đầu tư cho đến sau sáp nhập, nó
có ảnh hưởng mạnh mẽ tới thành bại của tất cả các thương vụ M&A.
1.2.3. Các phương pháp định giá: Có các phương pháp sau có thể định
giá giá trị của một doanh nghiệp:
1.2.3.1. Định giá doanh nghiệp theo phương pháp xác định giá trị tài
sản thuần:
Giá trị thực tế của doanh nghiệp là toàn bộ giá trị của các tài sản hiện có
của doanh nghiệp tại thời điểm định giá có tính đến khả năng sinh lời của doanh
nghiệp mà cả người mua và người bán đều có thể chấp nhận được.
• Căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm xác định
giá trị của doanh nghiệp :
- Số liệu được phản ánh trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm
định giá.
- Số lượng đã được kiểm kê và chất lượng đã được phân loại và đánh giá
của tài sản tại thời điểm định giá.
- Giá trị sử dụng, giá trị kĩ thuật và giá trị thị trường của tài sản tại thời
điểm định giá.
- Giá trị quyền sử dụng đất, khả năng sinh lời của doanh nghiệp (vị trí địa
lý, uy tín của doanh nghiệp, mẫu mã, thương hiệu…).
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
23
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
• Các bước thực hiện định giá:
- Thu thập các tài liệu có liên quan của doanh nghiệp như quyết định
thành lập doanh nghiệp, Giấp phép đăng kí kinh doanh, báo các tài
chính của doanh nghiệp…
- Chuẩn bị các mẫu biểu xác định giá trị doanh nghiệp theo từng chỉ tiêu.
- Tiến hành kiểm kê, phân loại tài sản, công nợ và xử lý tài chính. Lập
bảng kê chi tiết đối với từng loại.

- Tổng hợp và kiểm định kết quả kiểm kê tổng hợp để hoàn thành các
biểu mẫu kểm kê chi tiết.
- Thực hiện đánh giá lại tài sản theo đơn giá thực tế và giá trị sử dụng của
tài sản.
- Thiết lập hồ sơ và hoàn thiện các báo cáo giải trình.
• Phương pháp xác định:
0 t n
V V V
= −
Trong đó :
0
V
: giá trị doanh nghiệp tính theo giá trị tài sản thuần.
t
V
: tổng giá trị tài sản hiện thời doanh nghiệp đang sử dụng hoạt động.
n
V
: Tổng giá trị các khoản nợ của doanh nghiệp.
Công thức này được quy định trong Nghị định 109 – Bộ tài chính.
• Ưu điểm:
- Định giá theo phương pháp này thống kê được rõ các tài sản cụ thể cấu
thành doanh nghiệp.
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
24
Chuyên đề thực tập Khoa Ngân hàng - Tài chính
- Phương pháp này được xác định theo Nghị định 109 – Bộ tài chính, có
tính pháp lí rõ ràng.
- Cách tính đơn giản, dễ thực hiện.
• Nhược điểm:

- Phương pháp này xác định giá trị doanh nghiệp ở trạng thái tĩnh, mà
thực chất doanh nghiệp là một đối tượng động, điều này đã bỏ qua một
số giá trị của doanh nghiệp.
- Phương pháp này hầu như không đánh giá được triển vọng sinh lời của
doanh nghiệp trong tương lai mà chỉ xác định tại thời điểm định giá.
- Phần lớn các yếu tố phi vật chất không được xem xét đến: nhân lực, giá
trị quản lý…
- Đối với các doanh nghiệp đặc biệt như doanh nghiệp kinh doanh lĩnh
vực đặc thù, doanh nghiệp có giá trị tài sản ròng âm…
1.2.3.2. Định giá theo phương pháp so sánh các tỉ số:
Thông thường phương pháp này áp dụng với các công ty khó xác định giá
trị theo cách trực tiếp mà phải xác định thông qua các chỉ số tài chính và dựa
vào việc so sánh với các công ty khác hoạt động trên cũng lĩnh vực có thể xác
định giá trị một cách chính xác hơn. Các tỉ số thường được dùng nhiều nhất là:
• Hệ số giá/ thu nhập (P/E):
Đây là tỉ số được sử dụng nhiều và phổ biến nhất. Tỉ số này được xác định
theo công thức:
Trong đó:
sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thuận Lớp:Tài chính doanh nghiệp 47A
25
P GTTT
E EPS
=

×