Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tieu luan cao học, vấn đề quản lý nhà nước về dân tộc của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.4 KB, 20 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm có 54 dân tộc cùng sinh sống, kề
vai sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân tộc
thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phịng và bảo vệ mơi trường sinh
thái. Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng
đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hố riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng,
phong phú của nền văn hoá Việt Nam thống nhất.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, cơng tác dân
tộc và đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước
ta. Tuy nhiên lịch sử đã để lại sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, giữa các dân tộc thiểu số
với nhau và giữa các vùng dân cư cho nên để cụ thể hóa đường lối về cơng tác
dân vận và đồn ekét các dân tộc. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm phát triển kinh tế ở vùng nhiều đồng bào dân tộc nưh
chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
chương trình xố đói giảm nghèo, v.v… góp phần cải thiện đời sống, rút ngắn
khoảng cách giữa miền xuôi với miền ngược tạo sự gắn bó đồn kết các dân tộc
anh em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nghiên cứu những nội dung “Quản lý Nhà nước về dân tộc” giúp chúng ta
quán triệt sâu sắc hơn, đúng đắn hơn, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta về cơng tác dân tộc và đồn kết dân tộc. Góp phần tăng cường sự
đoàn kết giữa các dân tộc anh em cùng sinh sống, đoàn kết và phát triển trong
suốt sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.

1


B. PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM.



1. Khái niệm dân tộc.
Dân tộc là một trong những hình thái cộng đồng người, được hình thành trong
quá trình phát triển của lịch sử. Vấn đề dân tộc, cả bình diện nghiên cứu cũng như
trên thực tế xã hội đang là một trong những vấn đề quan trọng nhất trên thế giới ngày
nay.
2. Đặc điểm của các dân tộc ở nước ta
Việt Nam là một quốc gia thống nhất có 54 dân tộc cùng sinh sống, dân tộc
Việt chiếm 86,2% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 13,8% dân số (năm 1999).
Ở nước ta, các dân tộc khơng có lãnh thổ riêng, mà sống xen kẽ ở hầu hết các
tỉnh, thành phố. Các dân tộc có sự gắn bó thống nhất giữ cái chung, cái riêng, giữa
quốc gia và dân tộc trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đồng bào các dân tộc Việt
Nam có truyền thống đồn kết lâu đời, gắn bó với nhau trong lịch sử dựng nước và
giữ nước.
Các dân tộc Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, các dân tộc ở nước ta có truyền thống đồn kết lâu đời trong sự
nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng thống nhất.
Đoàn kết là truyền thống, là đặc điểm nổi bật nhất, là sức mạnh của các dân
tộc Việt Nam. Nhờ đồn kết, dân tộc ta sớm hình thành một quốc gia nhiều dân tộc
thống nhất và đã liên tục giành thắng lợi trong lịch sử chống ngoại xâm và phát triển
đất nước. Vì thế, phát huy truyền thống đoàn kết, đập tan mọi âm mưu chia rẽ trong
nội bộ giữa các dân tộc là nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và nhân dân ta.
Thứ hai, các dân tộc thiểu số cư trú trên một địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi
trường sinh thái.
Hầu hết đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú ở miền núi, vùng cao, vùng biên
giới, hải đảo là vùng rộng lớn. Địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số ở
nước ta có vị trí rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của đất nước trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phịng và bảo vệ mơi trường sinh thái.
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở nước ta có quy mơ dân số khơng đều và sống

xen kẽ là chủ yếu.
Theo số liệu điều tra dân số năm 1999, số lượng dân của mỗi dân tộc khá
chênh lệch, trừ dân tộc (Việt) chiếm đa số, 5 dân tộc có số dân trên một triệu người;
3 dân tộc, mỗi dân tộc có số dân từ 60 vạn đến dưới một triệu người; 14 dân tộc, mỗi
dân tộc có từ 1000 đến dưới 1 vạn người; 5 dân tộc có số dân từ 200 đến 500 người.
Hình thức cư trú phổ biến của đồng bào các dân tộc ở nước ta là sống xen kẽ, do vậy
2


các dân tộc có điều kiện thuận lợi để hiểu biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu học hỏi
kinh nghiệm, truyền thống tốt, tạo thành khối đoàn kết vững chắc. Mặt khác, mỗi
dân tộc có những phong tục, thói quen, tín ngưỡng, tơn giáo v.v… khác nhau, nên
khi sống xen kẽ nếu không giải quyết tốt và kịp thời mối quan hệ giữa các dân tộc thì
dễ va chạm về lối sống, lợi ích.
Thứ tư, các dân tộc ở nước ta có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khơng đều
nhau.
Tình trạng chênh lệch lớn về các mặt trong đời sống giữa các dân tộc thiểu số
và dân tộc đa số, giữa miền núi và miền xuôi, giữa vùng cao và vùng đồng bằng và
giữa các dân tộc thiểu số với nhau; mà đến nay phải cố gắng từng bước mới có thể
khắc phục được. Trình độ phát triển không đều này do rất nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có nguyên nhân do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt ở địa bàn cư trú
của một số đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhiều dân tộc đã đạt đến trình độ cao về
phát triển kinh tế xã hội, nhưng cũng còn một số dân tộc vẫn ở trình độ phát triển
thấp. Mặt khác, ở nhiều nơi, tình trạng tranh chấp đất đai, chặt phá rừng, va chạm về
lợi ích giữa một sso người đã gây ra những mâu thuẫn, làm phức tạp thêm mối quan
hệ giữa các dân tộc.
Thứ năm, mỗi dân tộc ở nước ta có bản sắc văn hóa riêng, góp phần làm nên
sự phong phú và đa dạng, trong tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, phản ánh truyền thống lịch sử, đời
sống tinh thần của dân tộc bằng những nét độc đáo. Đời sống văn hóa từ lâu đời của

mỗi dân tộc là tiếng nói, chữ viết, nghệ thuật, cách trang sức, trang phục, phong tục
tập quán, tình cảm, tâm lý, quan hệ gia đình, quan hệ u đương, vợ chồng, dịng
họ… được các dân tộc tôn trọng và bảo vệ.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ DÂN TỘC.

Quan điểm dân tộc của Đảng đã được khẳng định cụ thể là: "Thực hiện chính
sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân
tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa,
ngơn ngữ, tập qn và tín ngưỡng các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân
tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp
vớc đặc thù từng vùng và các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số".
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: phát huy sức mạnh của cả
cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ
vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng. Vấn đề dân tộc có ý nghĩa to lớn trong đại đoàn kết toàn
dân và trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng,
đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
3


hội, phát triển hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xố đói, giảm nghèo,
mở mang dân trí, giữ gìn, làm giầu và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền xuôi và
miền núi, đặc biệt quan tâm vùng gặp khó khăn, vùng căn cứ cách mạng và kháng
chiến. Có chính sách ưu tiên trong việc đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên,
phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương.
Khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, đề phòng tư tưởng dân tộc cực
đoan.
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã kế thừa,

phát triển các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các nghị quyết của Đảng trước đây, hồn chỉnh những quan điểm cơ bản về dân
tộc như sau:
Thứ nhất: vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên
quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Thứ ba: phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phịng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi
dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và
phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Thứ tư: ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xố đói, giảm nghèo;
khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững
môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các
dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của
các địa phương trong cả nước.
Thứ năm: công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của
tồn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của tồn bộ hệ thống chính
trị.
Năm quan điểm trên là tổng kết thực tiễn nhiều năm thực hiện đường lối,
chính sách dân tộc và công tác dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Năm quan điểm
này hợp thành một hệ thống chặt chẽ, hàm chứa những nội dung cốt yếu nhất, trong
đó nhấn mạnh tính chiến lược, ngun tắc và yêu cầu của đường lối dân tộc của
Đảng, nhiệm vụ phát triển toàn diện địa bàn vùng dân tộc và miền núi, trong đó
4



ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và khẳng định trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
III. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC VÀ
MIỀN NÚI HIỆN NAY.

1. Thực trạng các vùng dân tộc và miền núi hiện nay.
1.1. Thành tựu.
- Kinh tế có mức tăng trưởng khá, các mặt sản xuất có nhiều tiến bộ, một bộ
phận đồng bào dân tộc vốn quen sản xuất tự cấp, tự túc đã biết chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật ni, hình thành một số vùng kinh tế hàng hố, hạn chế nạn phá rừng, như
các vùng chè, cà phê, cao su, bông, dâu tằm, điều, hạt tiêu, cây ăn quả. .
- Đã xây dựng được một số mơ hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả, ngày
càng có nhiều hộ làm kinh tế giỏi. Cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội được cải thiện. Trật
tự xã hội, an ninh, quốc phịng được giữ vững. Khơng ngừng củng cố và tăng cường
khối đoàn kết các dân tộc. Đời sống văn hố, tinh thần của các dân tộc có nhiều tiến
bộ.
Những chuyển biến này tạo đà cho vùng dân tộc và miền núi phát triển kinh tế
– xã hội với tốc độ cao hơn, bền vững trong giai đoạn mới.
1.2. Những hạn chế:
Tuy mức tăng trưởng kinh tế khá, nhưng do điểm xuất phát của kinh tế vùng
dân tộc và miền núi quá thấp kém, nên phần lớn vùng này kinh tế lạc hậu, chậm phát
triển so với cả nước; khoảng cách với miền xi đang có xu hướng doãng ra. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm, trong GDP của các tỉnh miền núi, nông lâm nghiệp vẫn
chiếm trên 50 – 70%, công nghiệp dịch vụ nhỏ bé. Phần lớn các nhà máy chế biến lại
không nằm ở vùng nguyên liệu, nên hiệu quả tổng thể kinh tế hàng hố miền núi
càng thấp.
Địa hình hiểm trở, đa dạng, phức tạp, cơ sở hạ tầng thấp kém: mạng lưới giao
thông miền núi phần lớn được hình thành trong thời kỳ chiến tranh, mấy năm gần
đây mới nâng cấp được rất ít, phần lớn bị hư hỏng nặng, đường đi một số huyện

vùng cao chưa thơng suốt trong bốn mùa; cịn hơn 400 xã chưa có đường ơtơ đến
trung tâm; giao thơng nơng thơn phát triển chậm. Số xã có điện dùng ở miền núi cịn
ít: phía Bắc là 37% và Tây Nguyên 32%, (chung cả nước là 70%). Đáng chú ý là chỉ
có khoảng hơn 30% dân miền núi đủ nước dùng cho sinh hoạt.
Hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất; hằng năm nạn hạn hán, lũ
lụt, phá hoại mùa màng, thậm chí lũ quét cả một thị xã, một thị trấn.
Đời sống các dân tộc cịn nhiều khó khăn, dân trí thấp: Tỷ lệ đói nghèo toàn
vùng miền núi trên 40% (chung cả nước là 17%) đến năm 2000 giảm xuống còn
20%, cả nước là 11%. Tỷ lệ mù chữ cao. Trong việc xoá mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học, năm 2000 các tỉnh miền núi đạt chuẩn quốc gia, nhưng vùng cao của các
5


tỉnh miền núi và các tỉnh có miền núi vẫn còn nhiều người mù chữ hoặc tái mù chữ
(theo số liệu cũ).
Tài nguyên bị khai thác kiệt quệ. 20 năm qua, bình quân mỗi năm phá 6 vạn
ha rừng, mà diện tích trồng mới chỉ đạt 3 vạn 6 nghìn ha. Theo tài liệu Ban kinh tế
Trung ương, hơn 6 triệu ha rừng bị phá trụi trong 50 năm qua. Hiện nay tỷ lệ che phủ
của rừng đất thấp. Nhờ thực hiện chương trình 327 đã đưa tỷ lệ che phủ của rừng từ
24% lên 28% (theo số liệu cũ).
2. Phương hướng, mục tiêu, chính sách lớn.
2.1. Phương hướng, mục tiêu.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ:
“Vấn đề dân tộc và đồn kết các dân tộc ln ln có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển
sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xố đói, giảm nghèo, mở
mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền
xi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách

mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu
biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư
tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc
cảm dân tộc”.
Đại hội IX còn đề ra mục tiêu phấn đấu: “thu hẹp dần khoảng cách về trình độ
phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư. Phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc…”. “Riêng đối với miền núi và đồng bào dân tộc
thiểu số, phấn đấu xố xong đói kinh niên, 100% định canh, định cư, giảm tỷ lệ hộ
nghèo xuống 30% (chung cả nước là 10%)”.
2.2. Các chính sách.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh vấn đề đầu tư: “Dành nguồn vốn
thích đáng cho việc giải quyết những nhu cầu cấp bách, đặc biệt là về kết cấu hạ tầng
kinh tế và xã hội, để những vùng còn kém phát triển, như là vùng cao, biên giới, hải
đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng có bước phát
triển nhanh hơn, dần dần bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế – xã
hội giữa các vùng; coi đây là một trọng tâm chỉ đạo của các ngành các cấp”.
Một số chủ trương, chính sách lớn như sau:
2.2.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
+ Giao thông là khâu đột phá, đi trước một bước trong quá trình phát triển;
mục tiêu: “phấn đấu đến năm 2005 các tuyến đường trục chính lên miền núi
6


được nhựa hoá, các tuyến đường từ tỉnh đến huyện có thể đi lại thơng suốt cả bốn
mùa, có đường ôtô đến các trung tâm cụm, xã”.
Các chính sách, biện pháp để thực hiện các mục tiêu trên:
- Đối với các cơng trình giao thơng quốc lộ đầu tư bằng vốn ngân sách, vốn
ODA là 40%; vốn tín dụng vay ngân hàng thương mại là 40%; bán trái phiếu và huy
động các nguồn vốn khác là 30%.

- Đối với giao thông tỉnh lộ và đường liên huyện, chủ yếu bằng vốn ngân sách
địa phương; vốn ngân sách trung ương cân đối hàng năm để hỗ trợ.
- Đối với đường nông thơn vùng xa, vùng cao, dân làm là chính, đóng góp chủ
yếu bằng cơng lao động, trung ương và tỉnh hỗ trợ về kỹ thuật mở tuyến, mìn phá đá,
nhựa đường và hỗ trợ thêm bằng lương thực, ngoài ngày cơng nghĩa vụ cơng ích.
- Trên địa bàn tỉnh cần phối hợp lồng ghép một số chương trình quốc gia như
chương trình trồng 5 triệu ha rừng, định canh định cư, kinh tế mới, chương trình hỗ
trợ một số dân tộc đặc biệt khó khăn, chương trình xây dựng trung tâm, cụm, xã,
chương trình giải quyết việc làm.v.v. phải dành một phần để làm đường giao thông.
+ Về điện, đến năm 2005 hoàn thành việc kéo lưới điện quốc gia đến các tỉnh
lỵ, huyện lỵ, các trung tâm cụm xã có điện dùng.
- Phát triển thuỷ điện nhỏ, cực nhỏ và các nguồn năng lượng khác để vùng
đồng bào dân tộc và miền núi sớm được dùng điện trong sản xuất và đời sống.
- Có thể nghiên cứu lắp đặt điện mặt trời. Hiện nay, Trung tâm nghiên cứu
nặng lượng mới thuộc trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã đi sâu nghiên cứu năng
lượng mặt trời. Sau 8 năm nghiên cứu tìm tịi họ đã thành cơng trong 2 công nghệ sử
dụng năng lượng mặt trời: Pin mặt trời và nhiệt mặt trời và đang thử nghiệm ở một
số địa phương có kết quả. Viện năng lượng thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam,
cũng nghiên cứu thành công, đã lắp đặt 270 giàn pin mặt trời phục vụ điện sinh hoạt
cho đồng bào vùng cao và bộ đội biên phòng.
+ Về thuỷ lợi: Khẩn trương xây dựng các cơng trình thuỷ lợi, các hồ chứa
nước, các kỹ thuật và quy mô phù hợp bảo đảm tưới tiêu cho các vùng cây cơng
nghiệp. Xây dựng một số cơng trình thuỷ lợi gắn với phát triển kinh tế bảo vệ môi
trường sinh thái, quy hoạch dân cư, sắp xếp sản xuất. Kết hợp giải quyết nước sản
xuất với nước sinh hoạt, ưu tiêu đưa chương trình nước sạch vào phục vụ đồng bào
dân tộc và miền núi, bảo đảm đến năm 2005 có 60% số dân được dùng nước sạch,
cũng như bảo đảm nước cho các đồn biên phòng.
Để đạt được các mục tiêu trên, cần thực hiện một số chính sách và biện pháp
như sau:
7



- Khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng các hồ chứa nước vừa
và nhỏ, các công trình thuỷ lợi để tưới cho cây cơng nghiệp và rau quả, đồng cỏ và
nước sinh hoạt phục vụ sản xuất và đời sống.
- Việc đầu tư giải quyết nước sinh hoạt ở miền núi, trước hết phải khai thác
tận dụng các nguồn từ các cơng trình thủy lợi, thuỷ điện, ưu tiên các nguồn vốn
ODA, tranh thủ sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức
từ thiện và nguồn lực của nhân dân.
2.2.2. Xố đói giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó
khăn ở miền núi và vùng sâu, vùng xa.
Trong 53 dân tộc thiểu số, có tới 34 dân tộc đặc biệt khó khăn, hơn 15 vạn
dân. Trong các dân tộc này hầu như khơng có bộ phận khá giả, phải xố đói giảm
nghèo cho tồn thể nhân dân các dân tộc đó.
Cần phải nghiên cứu phân loại các hộ đói nghèo ở miền núi và các vùng dân
tộc thiểu số để có chủ trương, chính sách phù hợp.
- Đối với những hộ đói nghèo thiếu đất sản xuất, phải đi phá rừng làm nương
rẫy trồng lương thực, cần giao đất khoán rừng để họ sản xuất theo hướng nông, lâm
kết hợp, đồng thời hỗ trợ lương thực trong một thời gian vài năm đầu để họ có điều
kiện tự sản xuất và ổn định đời sống.
- Đối với những hộ đói nghèo vì thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất, cần
tạo điều kiện cho các hộ được vay vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo bằng các
hình thức cho vay vốn tự nguyện, tín chấp; gắn việc vay vốn với việc hướng dẫn các
biện pháp khuyến nơng, khuyến lâm có hiệu quả.
- Đối với các hộ đói nghèo thuộc diện chính sách, do khơng có sức lao động
thì cần có thống kê thật cụ thể đưa vào diện đối tượng trợ cấp xã hội hàng năm để có
chính sách hỗ trợ lương thực cho các hộ này.
Trong 2-3 năm đầu tập trung xố về cơ bản hộ nghèo đói kinh niên; hỗ trợ
phát triển kinh tế – xã hội cho 1000 xã đặc biệt khó khăn trong số 1880 xã. 1000 xã
này ở 30 tỉnh, 91 huyện, có 422.802 hộ, 2.573.845 khẩu. 90% người nghèo ở nông

thôn, tập trung nhiều ở vùng núi phía Bắc, Bắc trung bộ, duyên hải miền Trung và
Tây Nguyên.
Hiện nay Nhà nước đã có 9 dự án và 8 chính sách thực hiện chương trình xố
đói giảm nghèo. Năm 1999 mỗi xã phải xây dựng xong một cơng trình thiết yếu như
thủy lợi, nước sinh hoạt, giao thông, trường học, trạm y tế, điện, chợ. Với mức cố gắng
cao nhất, tập trung từ nhiều nguồn, Chính phủ dành khoản vốn đầu tư bình quân vào
cơ sở hạ tầng của mỗi xã này là 410 triệu đồng (400 triệu đồng x 1000 xã = 400 tỷ
đồng).
8


Ngày 22/2/1999, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định (văn bản số 174/CPVX) phân công các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố có điều kiện, các Tổng cơng ty 91
và đề nghị các đoàn thể trung ương giúp đỡ các tỉnh nghèo thực hiện chương trình
xố đói giảm nghèo. Trong đó 27 bộ, ngành được phân cơng giúp đỡ 33 tỉnh; 22
Tổng công ty thành lập theo Quyết định 91/TTg giúp đỡ 30 tỉnh; 8 tỉnh, thành phố có
điều kiện giúp 9 địa phương nghèo; và 7 cơ quan đoàn thể Trung ương giúp đỡ 7 địa
phương nghèo miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.
2.2.3. Trồng 5 triệu ha rừng.
Ngày 29/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định “về mục tiêu, nhiệm vụ,
chính sách và tổ chức thực hiện dự án trồng 5 triệu ha rừng” bao gồm 3 triệu ha rừng
sản xuất, 2 triệu ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
Mục tiêu trồng 5 triệu ha rừng cùng với bảo vệ diện tích rừng hiện có (gần 11
triệu ha) để:
- Tăng độ che phủ của rừng lên 43% (nay là 28%, cũng mới chỉ bằng năm
1943), hiện nay là 33,31%.
- Góp phần bảo đảm an ninh mơi trường, giảm nhẹ thiên tai, tăng khả năng
sinh thuỷ, bảo tồn nguồn gen và đa dạng sinh học.
- Sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống đồi núi trọc, tạo nhiều việc làm cho
người lao động, góp phần xố đói giảm nghèo, định canh định cư (35 vạn hộ 2,1
triệu người), tăng thu nhập cho dân cư sống ở nông thôn miền núi, ổn định chính trị,

xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh nhất là biên giới.
- Nhằm cung cấp gỗ làm nguyên liệu để sản xuất giấy, ván nhân tạo, đáp ứng
nhu cầu gỗ củi và các lâm đặc sản khác cho toàn vùng trong nước và sản xuất hàng
xuất khẩu cùng với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, đưa lâm nghiệp trở
thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội miền núi.
Thực hiện dự án này trong 13 năm với mấy chục nghìn tỷ đồng (thực hiện
chương trình 327 trong 5 năm, mỗi năm mới đầu tư khoảng 460 tỷ đồng).
2.2.4. Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực.
- Về chương trình mục tiêu truyền hình.
Nhằm đạt được mục tiêu đến năm 2010, có 80% số hộ trong cả nước được
xem truyền hình, Chính phủ đã giao cho Đài truyền hình Việt Nam thực hiện chương
trình mục tiêu truyền hình từ tháng 6/1995 bao gồm 2 dự án:
1. Đưa truyền hình về vùng núi, vùng cao, biên giới hải đảo (cấp phát phương
tiện thu xem truyền hình).
Cần cấp phát khoảng 6 vạn máy thu hình các loại cho tập thể (các cụm dân cư
thuộc diện miền núi, vùng cao, biên giới, đồn biên phòng). Cùng với cấp phát máy
thu hình, cần trang bị cho các chiến sĩ đồn biên phòng, hải đảo và các điểm dân cư
140 bộ thu tín hiệu truyền hình từ vệ tinh TVR0.
9


2. Phủ sóng truyền hình vùng lõm thuộc vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Cần phải xây lắp trên 600 trạm phát lại truyền hình trong giai đoạn 1995 –
2005.
- Về phát thanh.
Tiếp tục củng cố và phát triển “hai đội, 2 đài” (Đội thông tin lưu động, Đài
phát thanh và Đài truyền hình). Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đã đưa lên sóng 7
thứ tiếng của 7 dân tộc thiểu số; hàng chục tiếng của các dân tộc thiểu số do các Đài
tỉnh thường xuyên phát trên sóng địa phương. Các Đội thơng tin lưu động, chiếu
bóng lưu động cũng nói bằng tiếng dân tộc ở nơi họ đến phục vụ. Phấn đấu đến năm

2005 đạt 85% dân cư miền núi, vùng cao được nghe đài. Nhà nước đã cung cấp 9
vạn máy thu thanh và sẽ trợ giá bán máy thu thanh cho đồng bào. Uỷ ban dân tộc và
miền núi đã triển khai bán trợ giá 106.687 máy thu thanh đơn giản cho đồng bào dân
tộc thiểu số thuộc khu vực 3, vùng miền núi đặc biệt khó khăn của 10 tỉnh. Từ nay
đến cuối năm, Chính phủ tiếp tục cấp 12 tỷ đồng trợ giá bán máy thu thanh cho 16
tỉnh.
- Về văn hoá dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt nhiệm vụ thứ 7 trong Nghị quyết Trung ương 5 “Bảo tồn, phát
huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số” và chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
số 39/1998/CT-TTg ngày 3/12/1998 “Về văn hố - thơng tin đối với dân tộc và miền
núi”, nhằm triển khai các đề án trong chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5.
- Về giáo dục và đào tạo.
Đầu tư trường bán trú ở xã, trường phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh, huyện,
trung tâm cụm xã, bảo đảm đủ trường, lớp, điều kiện dạy và học, có chính sách ưu
đãi đội ngũ giáo viên yên tâm dạy học lâu dài ở vùng dân tộc và miền núi. Nhanh
chóng xố mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đến năm 2000 tất cả các tỉnh miền
núi và tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số đạt chuẩn quốc gia; có chương trình phổ cập
giáo dục trung học có cơ sở ở khu vực 1 trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Đến năm học 1997 – 1998, chúng ta đã xây dựng được một hệ thống trường
dân tộc nội trú khá khang trang bao gồm 10 trường trung ương, 42 trường tỉnh, 182
trường huyện, thu hút 5 vạn học sinh là con em các dân tộc thiểu số. Đây là nguồn
cán bộ các dân tộc sau này.
- Về y tế.
Từ năm 1994 đến năm 1997, kinh phí đầu tư cho việc nâng cấp y tế cơ sở là
87 tỷ đồng. Đã xây dựng mới 695 trạm y tế xã, trang bị 965 bộ dụng cụ y tế tuyến xã
và gần 3000 túi thuốc y tế thôn bản. Năm 1998, Nhà nước tiếp tục đầu tư 4 tỷ đồng
cho dự án này và đang triển khai xây dựng 43 trạm y tế ở các xã vùng sâu, vùng xa.
10



Mạng lưới y tế cơ sở đã được khôi phục. Đến nay, hầu hết các xã (2342/2695 xã) của
163 huyện thuộc 16 tỉnh miền núi đã có trạm y tế. Tất cả các huyện đã có bệnh viện
huyện và phịng khám đa khoa khu vực. 22,22% số xã của các tỉnh miền núi đến nay
đã có bác sĩ (tồn quốc đến cuối năm 2000 là trên 40%), 70,02 số xã có ý sĩ sản nhi
hoặc nữ hộ sinh, tồn quốc đạt 83,15%.
Ở miền núi cán bộ y tế thôn, bản rất quan trọng. Điều tra ở 9.048 xã (năm
1997) cả nước có khoảng 10 vạn thơn, bản, trong đó có 43.542 thơn, bản, ấp có y tế
hoạt động, chiếm khoảng 43%. Hiện nay 61,76% số thôn bản ở miền núi có cán bộ y
tế hoạt động. Cả nước hiện có 43.542 nhân viên y tế thôn, bản hoạt động, trong đó
chỉ có khoảng 43% số nhân viên được cấp tiền sinh hoạt do địa phương chi trả. Bộ Y
tế sẽ trích ngân sách trả mỗi nhân viên 40.000đ/tháng. Xây dựng mạng lưới y tế
thôn, bản bảo đảm mỗi thôn, bản có một nhân viên y tế hoạt động; họ được cấp một
túi cơng tác, trong đó có một số thuốc và trang thiết bị thiết yếu. (theo số liệu cũ).
2.2.5. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc.
Một trong những nguyên nhân quan trọng hạn chế kết quả đầu tư phát triển
vùng dân tộc và miền núi là đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số còn thiếu và yếu kém
trong việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình, dự án. Thực
hiện chủ trương của Đảng là xây dựng cho mỗi dân tộc có một đội ngũ cán bộ và trí
thức đủ sức làm chủ sự nghiệp của mình, cần lưu ý mấy giải pháp như sau:
- Căn cứ tiêu chuẩn của 4 loại cán bộ đã nêu trong Nghị quyết Trung ương III
(khoá VIII) về chiến lược cán bộ là: Cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đoàn thể;
cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán bộ khoa học và chuyên gia; cán bộ quản lý
kinh doanh, mà từng ngành, từng ấp đề ra yêu cầu số lượng, chất lượng cán bộ các
dân tộc thiểu số trong lĩnh vực và trên địa bàn của mình để có quy hoạch, kế hoạch
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng.…
- Nguồn cán bộ dân tộc thiểu số từ các trường đào tạo ra. Đào tạo số thanh
niên học sinh phổ thông con em các dân tộc thiểu số khơng có điều kiện đi học tiếp,
bằng các lớp bồi dưỡng ngắn ngày, thu hút họ vào làm công tác tại cơ sở.
- Các dự án phải dành một khoản kinh phí để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại

chỗ như tập huấn, tham quan….
- Tiếp tục hình thành, mở rộng, nâng cao các trung tâm giáo dục bậc đại học,
cao đẳng ở Tây Bắc, Thái nguyên, miền Trung, Tây Nguyên.v.v. tạo điều kiện cho
con em các dân tộc thiểu số học tập tốt hơn.
- Khi đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số vẫn theo tiêu chuẩn chung, nhưng
không nên so sánh giữa dân tộc này với dân tộc khác một cách máy móc; phải từ
trình độ phát triển của từng dân tộc mà lựa chọn “bó đũa cột cờ”.
11


- Phải quan tâm đến tâm lý, hoàn cảnh sống của mỗi dân tộc khác nhau mà có
chính sách cụ thể đối với đội ngũ cán bộ từng dân tộc, như thu xếp cả hai vợ chồng
cùng thoát ly hoặc kiếm việc làm để hai vợ chồng ở gần nhau.
- Phải có chính sách ưu đãi về tiền lương, phụ cấp, cơng tác phí, tính tuổi về
hưu, chế độ học dài ngày, ngắn ngày, vấn đề nhà ở, đất sản xuất phụ.v.v. bảo đảm
điều kiện để họ yên tâm sinh sống và cơng tác lâu dài.
- Khuyến khích nhân tài ở miền xuôi lên miền núi, đến các vùng sâu, vùng xa
cơng tác. Họ vừa chủ trì thực hiện các chương trình, dự án, vừa góp phần đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ tại chỗ. Muốn vậy, phải có chính sách, đặc biệt ưu đãi họ, nhất là
những nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành.
IV. NỘI DUNG CHỦ YẾU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN TỘC.

1. Quản lý Nhà nước về cơng tác định canh định cư, ổn định đời sống.
Chính phủ đã có nhiều văn bản quy định về định canh định cư, ổn định đời
sống đồng bào các dân tộc thiểu số.
Xây dựng chương trình định canh, định cư lấy huyện làm cơ sở đầu tư và gắn
với kế hoạch, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn huyện. Nhà nước cần
bố trí vốn thoả đáng cho các huyện vùng cao để thực hiện tốt chương trình này và có
sự quản lý Nhà nước chặt chẽ để không kéo dài ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất
của đồng bào các dân tộc.

2. Quản lý Nhà nước về tài nguyên, môi trường ở miền núi.
Quản lý Nhà nước về tài nguyên, môi trường ở miền núi có nhiều nội dung,
trong đó có một số nội dung cơ bản sau:
Nhà nước thống nhất quản lý rừng, đất trồng rừng bằng pháp luật, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch và các chế độ thể lệ.
Nhà nước thực hiện việc phân cấp trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng, đất
trồng rừng từ Trung ương đến cơ sở, giao rừng, đất trồng rừng cho tổ chức, cá nhân
thuộc các thành phần kinh tế để quản lý, bảo vệ, xây dựng và sản xuất, kinh doanh
ổn định lâu dài.
Chính phủ giao trách nhiệm cho Bộ chuyên ngành quản lý tổ chức, chỉ đạo
thực hiện việc điều tra, phúc tra, xác định loại rừng, phân định ranh giới rừng, đất
trồng rừng, theo dõi diễn biến tình hình tài nguyên rừng trong cả nước và từng địa
phương. Quy hoạch các vùng lâm nghiệp, các hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng, rừng sản xuất, rừng giống trong phạm vi cả nước, lập kế hoạch cụ thể để trình
Chính phủ phê duyệt và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Thực hiện khen thưởng, xử phạt
hoặc đề nghị xử phạt những tổ chức, cá nhân vi phạm luật, gây thiệt hại đến tài
nguyên rừng.

12


Các Bộ, ngành Trung ương được Chính phủ giao quản lý sử dụng rừng, đất
trồng rừng phải chấp hành đầy đủ những quy định của luật bảo vệ, phát triển rừng và
sự hướng dẫn kiểm tra của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Tổ chức tuyên truyền, giáo dục sâu rộng Luật Bảo vệ và phát triển rừng ở tất
cả các cấp, các ngành, trong cán bộ và nhân dân nhằm làm chuyển biến nhận thức
yêu cầu cấp bách và quan trọng về bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp.
Chính phủ đã quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và
chế độ quản lý bảo vệ. Nhà nước nghiêm cấm việc khai thác, sử dụng thực vật rừng,
động vật rừng quý hiếm thuộc nhóm I. Hạn chế việc khai thác, sử dụng thực vật

rừng, động vật rừng quý, hiếm thuộc nhóm II.
3. Quản lý Nhà nước về giao thông vận tải và bưu điện ở miền núi.
Chính phủ giao cho các Bộ liên quan phối hợp với các tỉnh để quy hoạch cụ
thể mạng lưới thông tin – bưu điện của các huyện vùng cao. Có sự phân cấp quản lý
rõ ràng, phân công trách nhiệm giữa Trung ương và tỉnh, huyện đối với từng loại
việc, từng loại đường, sửa sang, xây dựng hoặc mở thêm đường mới, nâng cấp và
xây dựng các tuyến đường giao thông là nhiệm vụ hàng đầu trong việc xây dựng cơ
sở hạ tầng ở miền núi.
Cần phát triển nhanh và mạnh các loại phương tiện vận tải vừa và nhỏ phù
hợp với sự đi lại theo khả năng kinh tế của đồng bào, đồng thời thích ứng với điều
kiện giao thông của từng vùng, từng thời gian, kịp thời giải quyết phương tiện đi lại
trước mắt cho đồng bào với phương châm tiến dần từng bước từ thô sơ đến cơ giới.
4. Quản lý Nhà nước về thương nghiệp, dịch vụ.
Các văn bản quy phạm pháp luật đã quy định chính sách đối với thương nhân
hoạt động thương mại tại địa bàn miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc, chính
sách cung ứng và tiêu thụ các mặt hàng thiết yếu có ảnh hưởng lớn đến sản xuất và
đời sống của đồng bào các dân tộc sinh sống, hoạt động trên địa bàn miền núi, hải
đảo và vùng đồng bào dân tộc.
Chính phủ giao trách nhiệm cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh, huyện chỉ đạo
ngành thương nghiệp địa phương mình quản lý nhằm mở rộng mạng lưới dịch vụ
thương nghiệp đến tận các cơ sở bản làng, tổ chức lại các chợ vùng cao, vùng biên
giới, chuẩn bị đủ các mặt hàng thiết yếu như lương thực, muối iốt, vải, quần áo may
sẵn, dầu thắp sáng, sách vở, giấy viết… để bán cho dân hoặc trao đổi hàng hoá với
họ một cách dễ dàng, thuận tiện.
5. Quản lý Nhà nước về văn hoá, xã hội, giáo dục.
Tập trung giải quyết những việc cấp bách như: xoá nạn mù chữ, củng cố các
trường dân tộc nội trú, định hướng chương trình bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc,
thực hiện đầy đủ về chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở vùng cao. Số người tái mù
chữ hay chưa biết chữ trong nhiều dân tộc còn chiếm tỷ lệ cao. Cơ sở trường
13



lớp, bệnh xá, rạp chiếu bóng, đài truyền thanh vừa thiếu, vừa sơ sài, đổ nát. Nếu
không kịp thời khôi phục, sửa chữa và xây dựng lại các đài truyền thanh, truyền hình
thì việc phổ biến tin tức, thời sự, chính sách sẽ chậm đến với dân, khơng cải thiện
được đời sống tinh thần cho đồng bào các dân tộc.
Hơn nữa, việc truyền tải các loại sách báo, phim ảnh cho vùng cao rất chậm,
nên cũng ảnh hưởng đến việc nâng cao dân trí của họ. Để giải quyết tốt vấn đề trên,
Chính phủ cần có kế hoạch cụ thể về các chính sách hỗ trợ, bù giá, bù lỗ cho chương
trình này, lấy chương trình dự án làm cơ sở thực hiện, nhằm đáp ứng những nhu cầu
về văn hoá, giáo dục cho vùng đồng bào dân tộc. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào
phòng bệnh, xây dựng nếp sống mới, bài trừ mê tín, dị đoan và những phong tục tập
quán lạc hậu.
6. Quản lý Nhà nước về y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Chương trình y tế của Bộ Y tế đối với các vùng cao, vùng sâu, vùng xa bao
gồm các mặt phòng chống, chữa bệnh, phịng bệnh, phát triển ni trồng, chế biến
dược liệu tại chỗ và tập trung vào giải quyết những bệnh cấp bách như sốt rét, bướu
cổ, đường ruột đối với từng dân tộc, từng vùng, từng thời gian nhất định, đặc biệt là
những vùng trọng điểm.
Cùng với việc tăng cường đội ngũ cán bộ y, bác sỹ và cơ sở bệnh xá, bệnh
viện, thuốc chứa bệnh là tăng cường công tác tuyên truyền trong nhân dân, giáo dục
họ về phòng, chữa bệnh theo phương pháp khoa học, thực hiện ăn chín, uống sơi, vệ
sinh mơi trường, bỏ dần và tẩy chay việc tin vào thần linh, ma quỷ, cúng bái… làm
hao tiền tốn của một cách vơ ích.
7. Quản lý thị trường chống buôn lậu qua vùng biên giới.
Việc quản lý thị trường biên giới hiện nay phải tạo điều kiện để mở mở rộng
giao lưu hàng hoá giữa nước bạn và nhân dân ở vùng biên giới, trên cơ sở các Hiệp
định đã ký của Chính phủ với các nước láng giềng, sự thoả thuận theo nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, khơng can thiệp vào nội bộ của nhau. Việc thiết lập trật tự,
đưa mọi hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá ở biên giới đi vào nề nếp, có tổ chức,

là cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Trước hết cần chấm dứt tình trạng
qua lại bn bán tuỳ tiện, gây lộn xộn; tình trạng đổi tiền diễn ra trái pháp luật khơng
theo địa điểm đã quy định ở các vùng biên giới hiện nay.
Để quản lý có hiệu quả, các lực lượng vũ trang biên phịng như: hải quan,
cơng an, thuế vụ, quản lý thị trường, đề cao ý thức trách nhiệm, phối kết hợp chặt
chẽ giữa các đơn vị bạn và dân quân tự vệ địa phương để giữ vững an ninh biên giới
đưa lại cuộc sống bình yêu cho nhân dân.
8. Quản lý Nhà nước về an ninh chính trị.
Quan tâm giáo dục nhằm nâng cao giác ngộ chính trị cho cán bộ và đồng bào
các dân tộc thiểu số, làm cho mọi người quán triệt chính sách dân tộc, chính sách
14


tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Tăng cường giáo dục ý thức chấp hành pháp luật,
tinh thần đoàn kết dân tộc, ra sức góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Cần tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào các vùng dân tộc và tơn
giáo, hoặc những sai sót, sự thối hố, biến chất của một số cán bộ hòng xuyên tạc,
gây chia rẽ, kích động hằn thù dân tộc, gieo rắc hoang mang trong nhân dân, phá
hoại việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
V. PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ.

Quản lý Nhà nước về vấn đề dân tộc là một lĩnh vực phức tạp, bởi vậy, trong
thực tế không dùng một phương thức quản lý đơn lẻ, trong từng lĩnh vực, vùng lãnh
thổ và dân tộc khác nhau mà có những phương thức quản lý cho phù hợp. Có thể sử
dụng một số phương thức quản lý cơ bản sau:
1. Quản lý bằng pháp luật.
Luật pháp phải thực sự là căn cứ, công cụ cơ bản của quản lý Nhà nước về
dân tộc. Nội dung của phương thức quản lý bằng pháp luật là việc ban hành các văn
bản pháp quy đối với miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số, để quy đối với miền

núi và đồng bào các dân tộc thiểu số, để thực hiện đường lối của Đảng ta về dân tộc.
Từng bước đưa đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào sinh sống ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa ngày một tốt hơn, hoà chung cùng với sự phát triển của đồng
bào đa số; thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố của đất nước ta. Đồng
thời, phải chú ý đến đặc điểm, xu hướng vận động của các dân tộc Việt Nam không
thể tách khỏi những đặc điểm, xu hướng vận động chung của cộng đồng quốc tế.
Từ thực tiễn trong nước và quốc tế, cần có những văn bản pháp luật cụ thể về
vấn đề đề dân tộc.
Hiện nay, ở nước ta việc xây dựng Luật Dân tộc là vấn đề hết sức cần thiết và
cấp bách. Luật dân tộc được xây dựng sẽ là cơ sở để xây dựng những văn bản pháp
quy khác trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về dân tộc.
2. Quản lý bằng chính sách, chương trình
Để thực hiện những mục tiêu, quan điểm của Đảng về dân tộc, Nhà nước cụ
thể hố bằng chính sách, kế hoạch, chương trình, giải pháp để phát triển kinh tế – xã
hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa. Cụ thể có một số chính
sách, chương trình, giải pháp lớn như sau:
- Phân chia miền núi thành 3 khu vực để thấy được thực chất sự phân hoá của
miền núi, của đồng bào các dân tộc để có chính sách, giải pháp đầu tư, quản lý cho
đúng, cho trúng.
- Chương trình xây dựng các trung tâm cụm xã. Chương trình này thực hiện
theo Quyết định số 35/TTg, ngày 13/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
chương trình xây dựng trung tâm cụm xã ở miền núi, vùng cao.
15


- Chương trình trồng 5 triệu ha rừng, theo Quyết định số 661/1998/QĐ-TTg,
ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ
chức thực hiện trồng mới 5 triệu ha rừng.
- Chương trình xố đói giảm nghèo, theo Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg,
ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình mục tiêu

quốc gia xố đói giảm nghèo.
- Chương trình 135, theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg, ngày 31/7/1998
của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình phát triển kinh tế – xã hội các
xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.v.v.
3. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý dân tộc.
Bộ máy tổ chức quản lý hành chính Nhà nước về dân tộc đã nhiều lần thay đổi
nhằm đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ; đã góp phần thực hiện thắng lợi các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực công tác dân tộc và miền núi.
Năm 1946 – 1954: thành lập cơ quan chuyên trách về công tác dân tộc ở
Trung ương mang tên “Nha dân tộc thiểu số” để quản lý về công tác dân tộc ở các
địa phương và các ngành trong cả nước.
Năm 1955 – 1960: thành lập Tiểu Ban dân tộc Trung ương. Đồng thời là Ban
dân tộc thuộc Ban Nội chính của Thủ Tướng Chính phủ (tiểu Ban dân tộc Trung
ương có 18 phịng chun trách để giải quyết các cơng việc nói chung).
Năm 1961, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 133/CP (29/9/1961) thành
lập Uỷ ban dân tộc Chính phủ. Đây là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và
cơng tác chủ yếu là quản lý Nhà nước về vấn đề dân tộc và miền núi.
Năm 1979, Ban Bí thư Trung ương có quyết định số 38/QĐ-TW giao thêm
nhiệm vụ mới cho Uỷ ban dân tộc Chính phủ. Từ đó, được kết hợp giữa hai nhiệm
vụ, vừa Ban dân tộc Trung ương vừa Ban dân tộc của Chính phủ.
Năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có Chỉ thị cho giải thể bộ
máy “Uỷ Ban dân tộc” của Chính phủ. Ngày 25/8/1988, Ban Bí thư ra Quyết định số
62/QĐ-TW quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ban dân tộc Trung
ương để quản lý về chính sách các dân tộc.
Năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho thành lập
Văn phòng miền núi và dân tộc của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng để giúp Chủ tịch
theo dõi, kiểm tra, đơn đốc thực hiện chính sách về dân tộc.
Năm 1993, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 11/CP thành lập “Uỷ ban dân
tộc và miền núi” trên cơ sở hợp nhất hai tổ chức “Ban dân tộc Trung ương Đảng” và
“Văn phòng miền núi và dân tộc” của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính

phủ).
Ngày 13/8/1998, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 59/1998/TTg, về chức
năng, nhiệm vụ của Uỷ ban dân tộc và miền núi.
16


Ngày 20/10/1998, Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, Uỷ ban dân tộc và miền núi
ra Thông tư số 771/1998/TTLT – BTCCP – UBDTMN, hướng dẫn xây dựng bộ
máy làm công tác dân tộc ở các tỉnh.
Bộ máy quản lý Nhà nước về dân tộc đang được tiếp tục xây dựng và hồn
thiện trong cơng cuộc cải cách hành chính hiện nay. Uỷ ban dân tộc và miền núi
trước đây, nay được gọi là Uỷ ban dân tộc.
4. Quản lý bằng đầu tư tài chính.
Nhà nước có chức năng quản lý tài chính và sử dụng tài chính làm cơng cụ để
quản lý các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trong chính sách, chương trình, dự án đã bao hàm nội dung của Nhà nước sử
dụng tài chính cho sự phát triển của miền núi và đồng bào các dân. Ngồi ra, sự quan
tâm của Chính phủ đối với miền núi và các dân tộc còn thể hiện ở việc đầu tư cho
xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ môi
trường.v.v. ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
5. Thực hiện thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá.
Bằng công cụ kiểm tra, thanh tra, tổng kết, đánh giá Nhà nước thực hiện kiểm
soát đối với hoạt động quản lý hành chính Nhà nước về dân tộc và đối với xã hội
trong chấp hành các chính sách, pháp luật về dân tộc.

17


C. PHẦN KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu

dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết
tương trợ, giúp đỡ cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi
âm mưu chia rẽ dân tộc.
Hiện nay, đời sống của đồng bào các dân tộc đã nâng lên rõ rệt, đó
là những bằng chứng thiết thực của việc thực hiện tốt chính sách dân tộc
và đoàn kết của Đảng và Nhà nước ta.
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng vấn đề dân tộc trong quá
trình tiến hành sự nghiệp cách mạng. Chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước là nhất quán, song trong từng giai đoạn cách mạng, từng thời
kỳ xây dựng đất nước thì đều có sự bổ sung và phát triển phù hợp, góp
phần thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng và Nhà nước

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.
2. Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII, Về chiến lược cán bộ.
3. Nghị định số 18/HĐBT, ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý, hiếm và
chế độ quản lý bảo vệ.
4. Quyết định số 35/TTg, ngày 13/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt chương trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao.
5. Quyết định số 133/1998/QĐ/TTg, ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xố đói giảm nghèo.
6. Nghị định số 59/1998/TTg, ngày 13/8/1998 của Thủ tướng Chính phủ về chức

năng, nhiệm vụ của Uỷ ban dân tộc và miền núi.
7. Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg, ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.
8. Tài liệu bồi dưỡng về “Quản lý Hành chính Nhà nước” của Học viện Hành
chính Quốc gia.
9. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Giáo dục, H, 2000, Ban Tư tưởng – Văn hố Trung ương.
10. Tạp chí Cộng sản, Số 10, tháng 5/ 2004.

19


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................2

I. Một số nội dung cơ bản về vấn đề dân tộc ở Việt Nam....................................2
1. Khái niệm dân tộc.........................................................................................2
2. Đặc điểm của các dân tộc ở nước ta..............................................................2
II. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc.............................................3
III. Một số chính sách của Nhà nước đối với các dân tộc và miền núi hiện nay........5
1. Thực trạng các vùng dân tộc và miền núi hiện nay......................................5
2. Phương hướng, mục tiêu, chính sách lớn......................................................6
IV. Nội dung chủ yếu quản lý Nhà nước về dân tộc...........................................11
1. Quản lý Nhà nước về công tác định canh định cư, ổn định đời sống.........11
2. Quản lý Nhà nước về tài nguyên, môi trường ở miền núi..........................12
3. Quản lý Nhà nước về giao thông vận tải và bưu điện ở miền núi...............12
4. Quản lý Nhà nước về thương nghiệp, dịch vụ............................................13
5. Quản lý Nhà nước về văn hoá, xã hội, giáo dục.........................................13

6. Quản lý Nhà nước về y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân........................13
7. Quản lý thị trường chống buôn lậu qua vùng biên giới..............................14
8. Quản lý Nhà nước về an ninh chính trị.......................................................14
V. Phương thức quản lý........................................................................................14
1. Quản lý bằng pháp luật...............................................................................14
2. Quản lý chính sách, chương trình...............................................................15
3. Hồn thiện tổ chức bộ máy quản lý dân tộc................................................15
4. Quản lý bằng đầu tư tài chính.....................................................................16
5. Thực hiện thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá.......................................16
C. PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................17

...............................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................

20



×