Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận cao học, nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.76 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Chính trị là khoa học đấu tranh cho quyền lực, về giành, giữ và thực thi
quyền lực. Song mỗi giai cấp, mỗi đảng, giai cấp muốn giành, giữ và thực thi
quyền lực địi hỏi phải có một hệ thống chính trị vững mạnh, đủ sức đảm
đương nhiệm vụ quản lý mọi mặt của đời sống xã hội ổn định trước sự biến
động phức tạp của thực tiễn, là điều kiện để duy trì, củng cố và thực thi quyền
lực chính trị. Hệ thống chính trị là một phạm trù của khoa học chính trị, bởi vì
nó là tổng hợp của những vấn đề về thực tiễn chính trị, của đời sống chính trị.
Hiện nay, quan niệm về hệ thống chính trị cịn rất khác nhau, phụ thuộc vào
khuynh hướng, trường phái chính trị học khác nhau, nhưng hệ thống chính trị
vẫn là một trong những phạm trù trung tâm chính trị học hiện nay. Việc tìm
kiếm cơ chế vận hành hợp lý và có hiệu lực của hệ thống chính trị là u cầu
có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các đảng chính trị cầm quyền hay với bất
kỳ một thể chế chính trị quốc gia nào. Do đó u cầu về đổi mới hệ thống
chính trị là nhiệm vụ có tính chất thường xun, liên tục trước sự biến động
của thực tiễn. Đối với Viêt Nam, đổi mới hệ thống chính trị khơng có nghĩa là
thay đổi thể chế chính trị, đổi mới phải kiên định nguyên tắc độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới, có những biểu hiện phức tạp khác
nhau, song về cơ bản hệ thống chính trị của các nước có thể quy gọn lại hai mơ
hình: mơ hình nhà nước là trung trung tâm và mơ hình có đỉnh quyền lực. Tuy có
hai mơ hình hệ thống chính trị như vậy, nhưng việc lựa chọn mơ hình nào khơng
chỉ phụ thuộc vào yếu tố chủ quan khơng thơi mà cịn tùy thuộc vào các yếu tố
khác nhau như điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị bên ngồi tác động vào.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tại trên nền tảng chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, ở đó người lao động là người làm chủ, thực
hiện mục tiêu trong đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam là từng bước đi tới
1


giải phóng con người, giải phóng giai cấp. Xu thế phát triển là tính thống nhất,


đồng thuận xã hội ngày càng tăng. Đó là cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị khách
quan hình thành trong hệ thống chính trị nhất nguyên với toàn bộ quyền lực thuộc
về nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo. Bản chất của hệ thống chính trị
là hệ thống chun chính vơ sản, nòng cốt là nhà nước xã hội chủ nghĩa, thông
qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản Việt Nam trực tiếp thực hiện sự
lãnh đạo toàn xã hội, để nhân dân lao động phát huy và thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ của mình. Quyền làm chủ của nhân dân lao động đuợc thực hện bằng nhà
nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là bản chất của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa; hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, chun chính vơ
sản, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xét về bản chất là thống nhất.
Trên cơ sở lý luận như trên và trong quá trình học tập, nghiên cứu về chính trị
học, tơi chọn đề tài “Nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta” để nghiên cứu nhằm làm rõ vai trò của nhà nước
trong hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay.

2


NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VÀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA

I. Khái niệm, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
1. Khái niệm hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Quá trình phát của xã hội lồi người đã dẫn đến sự xuất hiện chế độ tư
hữu, xuất hiện sự phân hóa xã hội thành các nhóm, các giai tầng xã hội có địa
vị khác nhau, có lợi ích khác nhau. Điều đó có nghĩa là trong xã hội xuất hiện
các lực lượng chính trị xã hội khác nhau. Nhằm củng cố, bảo vệ lợi ích của
mình, mỗi nhóm xã hội, mỗi giai tầng, mỗi lực lượng chính trị xã hội đã thiết
lập các chế độ chính trị khác nhau. Các thiết chế chính trị xã hội ln đấu tranh

3


và hợp tác với nhau, vì sự tồn tại và phát triển của lực lượng chính trị xã hội
mà họ làm đại diện, đồng thời vì sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung.
Trong q trình tồn tại và phát triển, các thiết chế chính trị xã hội ln có sự
liên hệ ràng buộc với nhau, ln tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và xảy ra
trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Toàn bộ các thiết chế này tạo thành hệ
thống chính trị xã hội để nắm giữ và thực hiện quyền lực chính trị xã hội trong xã
hội. Như vậy, có thể hiểu hệ thống chính trị là liên minh các thiết chế chính trị xã hội
có liên hệ mật thiết với nhau, tồn tại và hoạt động nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát
triển của toàn xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích, thực hiện những mục đích của giai cấp
thống trị trong xã hội.
Về cấu trúc hình thức, hệ thống chính trị là một tập hợp các thiết chế chính trị
xã hội đuợc thành lập và hoạt động vì nhiều mục đích khác khau. Các thiết chế đó
gồm có Nhà nước, các đảng phái chính trị, các tổ chức và các đồn thể chính trị xã
hội, trong đó Nhà nước là tổ chức quan trọng nhất.
Về nội dung, hệ thống chính trị được hiểu là một cơ chế thực thi quyền lực
chính trị trong xã hội. Có thể nói quyền lực chính trị là cốt lỏi của hệ thống chính trị.
Quyền lực đó được vật chất hóa bằng các thiết chế chính trị xã hội và được biểu hiện
thơng qua các quan hệ chính trị giữa các lực lượng chính trị xã hội.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một trong những kết quả của cách
mạng xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển ngay sau cách mạng xã hội chủ
nghĩa thành công. Tuy nhiên, nhiều yếu tố cơ bản của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa đã hình thành ngay trong xã hội tư sản.
Xuất phát từ nhiều quan điểm về quyền lực chính trị, về cấu trúc quyền lực
chính trị, chúng ta có thể định nghĩa hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa như sau:
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là liên minh các thiết chế chính trị, chính
trị xã hội được thành lập, hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai trò lãnh đạo
thuộc về đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm thực hiện triệt để

quyền lực nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
4


2. Nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
2.1. Vị trí, vai trị của Nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một bộ phận quan trọng, là mắc xích đặc biệt
quan trọng trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Là tổ chức quyền lực rộng lớn,
người đại diện chính thức và chân chính cho ý chí, lợi ích của nhân dân nên vị trí, vai
trị của Nhà nước khơng giống như vị trí vai trị của đảng cũng như vị trí vai trị của
các tổ chức chính trị xã hội khác trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xem là trung tâm của hệ thống chính trị. Nó
có sự liên hệ, tác động qua lại với các thiết chế chính trị xã hội khác của hệ thống
chính trị xã hội. Nó tác động và chi phối tới mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội.
Mọi thiết chế quyền lực khác đều chỉ là lực lượng hỗ trợ cho nhà nước trong việc
thực hiện quyền lực của nhân dân. Ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, nhà nước
xã hội chủ nghĩa giữ vai trị quyết định trong hệ thống chính trị. Nhà nước trực tiếp
tổ chức và quản lý hầu như mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó nó có tác động làm
xuất hiện hoặc mất đi các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội khác trong xã hội, có khả
năng điều chỉnh lợi ích giữa các lượng chính trị xã hội trong đất nước.
2.2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực
nhân dân
Trong xã hội chủ nghĩa, quyền lực chính trị chuyển dần thành quyền lực nhân
dân. Quyền lực nhân dân là một phạm trù chính trị chỉ ưu thế tuyệt đối và vai trò
quyết định của nhân dân trong quản lý xã hội. Khái niệm này đối lập với quân quyền
(vương quyền) dùng để chỉ quyền lực tuyệt đối của cá nhân. Quyền lực nhân dân có
nội dung rộng rãi, bao trùm những nội dung sau:
- Mọi cơng việc lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội phải do nhân dân
quyết định.
- Mọi thiết chế chính trị trong xã hội trực tiếp hay gián tiếp đều do nhân dân

lập ra và phải chịu sự giám sát của nhân dân.

5


- Các thiết chế chính trị xã hội này phải hoạt động nhằm mục đích thực hiện
quyền lực nhân dân.
- Các cơ quan đại diện phải có vai trị quyết định. Điều này được quán triệt đối
với bất cứ thiết chế chính trị xã hội nào.
Quyền lực nhân dân có nghĩa nhân dân phải là chủ thể quyền lực, là người
thực hiện quyền lực. Tuy nhiên, chính bản thân nhân dân khơng thể trực tiếp thực
hiện quyền lực của mình. Cơng việc quản lý xã hội địi hỏi phải có những cơ quan
hoạt động thường xuyên. Mặt khác, không phải mọi vấn đề của đời sống xã hội đều
có thể đưa ra trước cộng đồng để xem xét quyết định. Vì vậy, quyền lực nhân dân
phải thực hiện bởi những cơ quan nhất định. Trong toàn bộ những thiết chế chính trị
tồn tại trong xã hội xã hội chủ nghĩa thì nhà nước là tổ chức có thể đáp ứng những
yêu cầu của nguyên tắc quyền lực nhân dân. Điều này thể hiện ở những nguyên nhân
sau đây:
- Nhà nước là tổ chức chính trị bao trùm tồn xã hội. Tính chất rộng lớn của
của nhà nước khơng những thể hiện trong các lĩnh vực đời sống xã hội do nhà nước
quản lý mà còn cả số lượng chủ thể thực hiện chịu sự tác động của nó. Thực tế là
không một tổ chức cá nhân nào lại không chịu sự tác động của nhà nước.
- Nhà nước có hệ thống các cơ quan đại diện rộng lớn đuợc tổ chức từ trung
ương đến địa phương. Hệ thống cơ quan này do nhân dân bầu ra và giữ vai trò quyết
định đối với toàn bộ các hệ thống cơ quan nhà nước còn lại.
- Tất cả những quyết định do những cơ quan nhà nước đưa ra phải xuất phát
từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
2.3. Nhà nước là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực nhân dân
Là đại diện tập trung cao nhất cho các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, nhà
nước xã hội chủ nghĩa có cơ sở rộng rãi, tạo điều kiện cho nó triển khai nhanh và

thực hiện tốt những quyết định, những chính sách của mình. Điều này hồn tồn
mang tính chất quy luật bởi vì vai trị của các tổ chức chính trị xã hội phụ thuộc vào
phạm vi ảnh hưởng của mình mà phạm vi ảnh hưởng lại do cơ sở xã hội quyết định.
6


Yếu tố quan trọng khác thể hiện vai trò của nhà nước trong việc thực hiện
quyền lực của nhân dân là sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Trong toàn bộ các tổ chức
hợp thành hệ thống chính trị chỉ có nhà nước mới có sức mạnh cưỡng chế tồn diện,
có hiệu lực xã hội nhất vì:
- Hệ thống các lực lượng vũ trang, nhà tù, tịa án mà khơng bất kỳ thiết chế
chính trị nào khác có thể có được. Quân đội, cảnh sát, nhà tù, tòa án là những cơng
cụ đàn áp mà thơng qua đó nhà nước có thể duy trì trật tự và ổn định xã hội.
- Hệ thống pháp luật do nhà nước ban hành có tác dụng giúp nhà nước
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng phù hợp với việc thực hiện quyền
lực của nhân dân thông qua việc tác động đến các hành vi của những thành viên
trong xã hội.
- Nhà nước có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện vai
trị của mình. Với tư cách là chủ sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội,
nhà nước có khả năng đảm bảo những nguồn tài chính, vật chất cần thiết khơng
chỉ cho bản thân mà còn cho cả hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội khác;
ngồi ra nhà nước còn thực hiện việc điều tiết nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát
triển vì lợi ích của nhân dân.
- Nhà nước là thiết chế chính trị duy nhất trong xã hội có chủ quyền.
Trong hệ thống chính trị, chỉ duy nhất nhà nước là là chủ thể của công pháp
quốc tế.
2.4. Quan hệ giữa Nhà nước với Đảng cộng sản trong hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa
Là một bộ phận của hệ thống chính trị, Đảng cộng sản giữ vai trị lãnh đạo
cả hệ thống chính trị, trong đó lãnh đạo nhà nước trực tiếp và chủ yếu nhất. Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã khẳng định vai trị
lãnh đạo tồn diện, tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải
nhận thức đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
khơng có nghĩa là Đảng đứng trên tất cả. Là một tổ chức hoạt động trong xã hội,
là một đối tượng của quản lí nhà nước, Đảng phải chịu sự tác động của pháp
7


luật, bình đẳng với các bộ phận khác của hệ thống chính trị. Hiến pháp 1992
cũng khẳng định: Đảng và các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật. Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam, Điều lệ của
Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: Đảng lãnh đạo, tơn trọng và phát huy vai
trị của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị xã hội;
hoạt động trong khn khổ Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống chính trị
Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước
không phải là một thực tế lịch sử ngẫu nhiên mà là một thực tế lịch sử có tính
quy luật.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa – tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân lao
động luôn luôn ghi nhận và chịu sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Là người tổ
chức và thực hiện đường lối, chính sách của đảng, nhà nước xã hội chủ nghĩa
thường xun phải thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật,
thành những chính sách, quy định cụ thể và tổ chức thực hiện. Có thể nói nhà
nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức có vai trị chủ yếu trong việc thực hiện đường
lối, chính sách của đảng. Đồng thời, thông qua hoạt động thực tiễn, thơng qua
hoạt động thực hiện đường lối chính sách của Đảng, nhà nước kiểm nghiệm tính
đúng đắn, sự phù hợp của những đường lối chính sách đó. Từ đó, nhà nước góp
ý với đảng trong việc đề ra hoặc điều chỉnh đường lối, chính sách cho phù hợp
với thực tiễn.
Với chức năng quản lý toàn diện các mặt hoạt động của xã hội, nhà nước
thực hiện việc quản lý các tổ chức đảng, kiểm tra giám sát việc tuân theo pháp

luật của các tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên.
Là người bảo vệ Đảng, nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho các tổ chức đảng hoạt động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thường xuyên ủng
hộ, giúp đỡ về vật chất cũng như về tinh thần đối với tổ chức đảng các cấp. Trong
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa đảng và nhà nước luôn luôn dựa
trên các cơ sở nguyên tắc của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

8


2.5. Quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội trong hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa
Tổ chức xã hội là một tập hợp quần chúng nhân dân liên kết theo nguyên
tắc tự nguyện tham gia và tự quản lý, được thành lập nhằm đáp ứng những lợi
ích của các thành viên. Các tổ chức chính trị này là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân,
phát huy đoàn kết nhân dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tinh thần trong
nhân dân. Các tổ chức chính trị xã hội tham gia và cũng cố chính quyền nhân
dân cùng với các đảng và nhà nước chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân
dân, tham gia thực hiện và giám sát thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện Hiếp pháp, pháp luật; thực hiện nhiệm vụ về kinh tế, văn hóa, giáo dục,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại…góp phần tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
đảng, nhà nước và nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, mạng luới các tổ chức xã hội ở các
nước xã hội chủ nghĩa cũng như ở nước ta phát triển mạnh mẽ cả về số lượng,
chất lượng và rất đa dạng các loại hình tổ chức, hoạt động.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, giữa nhà nước và các tổ chức
xã hội ln có sự hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau. Trong việc thành lập các cơ
quan nhà nuớc, các tổ chức xã hội tham gia giới thiệu, đề cử và bầu cử đại biểu
nhân dân vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cho

phép các tổ chức xã hội thành lập hoặc thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của
chúng, khuyến khích, tạo điều kiện cho việc thành lập và kiện toàn các tổ chức
xã hội, đặc biệt là thành lập các tổ chức xã hội trong các cơ quan nhà nước.
Nhà nước và các tổ chức xã hội còn giúp đỡ nhau trong việc giải quyết
các mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi tổ chức. Điều này thể hiện ở sự tham gia của
các tổ chức xã hội vào việc đưa ra các kế hoạch, phương tiện phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội của nhà nước, đóng góp các ý kiến vào các dự thảo của các văn
bản pháp luật; tham gia vào một số hoạt động của cơ quan nhà nước, thực hiện
một số nhiệm vụ khi được nhà nước ủy quyền; giáo dục hội viên tự giác chấp
9


hành pháp luật, tham gia tích cực vào các phong trào thi đua, tiết kiệm và các
phong trào xã hội khác.
Nhà nước và các tổ chức xã hội còn thực hiện kiểm tra, giám sát lẫn nhau
trong việc thực hiện pháp luật và đường lối chính sách của Đảng. Các tổ chức xã
hội luôn thực hiện sự kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước,
các đại biểu dân cử, các công chức nhà nước trong việc tuân theo pháp luật và
đường lối chính sách của Đảng. Về phần mình, nhà nước tiến hành phê chuẩn
điều lệ của các tổ chức xã hội, giám sát việc tuân theo pháp luật của các tổ chức
xã hội.
Quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức xã hội luôn đảm bảo nguyên tắc
tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc thuộc nội bộ lẫn nhau và luôn
phải tôn trọng tính tự quản của các tổ chức xã hội. Tuy nhiên, quan hệ giữa nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội khác nhau có những đặc điểm khác nhau
phụ thuộc vào đặc điểm, vị trí, vai trị của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị
xã hội chủ nghĩa.
II. Các thiết chế trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể
chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng

là cơng cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị
của nước ta gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trị khác nhau do chức
năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát
triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của
tồn bộ hệ thống chính trị. Vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội
dung chủ yếu sau:
10


Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm,
chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ
chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thơng qua Nhà nước và các đồn thể quần
chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận,
thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch,
chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng ln quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước
và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị
quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định
đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn
vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đồn thể quần chúng và các tổ
chức chính trị - xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu
gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế
dân chủ...

2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực
hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân để quản lý tồn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng
lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ
máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của
nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
11


Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân
dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra Hiến pháp và
luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản
về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ
yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt
động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước. Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp.
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước cộng hòa xã hội
Việt Nam về đối nội, đối ngoại.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất
của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hố, xã hội, an ninh, quốc phịng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là

cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác
với Quốc hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là
những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ
chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách
nghiêm minh, chính xác.
Tồ án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của
Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, khơng ai bị
coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tồ án đã có
hiệu lực pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử
đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập
12


trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan
khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều
tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ
quan tư pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo
dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng như Đoàn thanh niên,
Hội liên hiệp phụ nữ, Cơng đồn, Hội nơng dân, Hội cựu chiến binh
Các tổ chức chính trị - xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã hội.
Điều này thể hiện sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng đông đảo để
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phương thức tổ chức
và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ chức Đảng và các cơ quan nhà
nước nhưng đều gắn chặt với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng và

Nhà nước giao phó. Các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tổ chức động
viên, triển khai nguồn lực con người cho các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam trong công cuộc do Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống nhất quản lí.
Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp thành hệ thống
chính trị Việt Nam, trong đó Đảng giữ vai trị và trọng trách là người lãnh đạo
trực tiếp. Trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, với tính chất chính trị và
tính chất xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trị là người tổ
chức, vận động đông đảo quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đặt ra
đối với cách mạng Việt Nam thơng qua những hình thức phù hợp.
Mỗi loại tổ chức chính trị - xã hội lại có vai trị riêng, chẳng hạn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự nguyện của
các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp
xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là tổ chức đại diện cho ý chí đại đồn kết và
nguyện vọng chân chính của nhân dân; nơi tập hợp trí tuệ của con người Việt
Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, phối
13


hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng
của các tầng lớp nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng nhà nước, quản
lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc có chức năng tham chính, tham nghị và giám sát;
đồn kết nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện dân
chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên
hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tổng Liên đồn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn
của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập
ra nhằm mục đích tập hợp, đồn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập,
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất
giai cấp cơng nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của cơng nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân viên chức lao
động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ cơng dân, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội tập
hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của
Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết các
cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút thế hệ trẻ vào
những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức tơn trọng
pháp luật cho đồn viên thanh niên.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ,
có chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính
đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Hội
đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách
14


của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội Nơng dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hội nông dân Việt Nam vận động giáo dục hội viên, nơng dân phát huy
quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại
diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; chăm lo bảo vệ
các quyền và lợi ích của nông dân Việt Nam.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đồn thể chính trị - xã hội, thành viên

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt
động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của
Nhà nước và Điều lệ của Hội. Mục đích của Hội là tập hợp, đồn kết, tổ chức,
động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống
“Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành
quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền
lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau về tinh
thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
Ngồi các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được coi là tổ
chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam, Hội
Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ
Việt Nam... Đây là điểm có ý nghĩa rất quan trọng đồng thời cũng là một xu
hướng phát triển của các thiết chế xã hội trong thời kì đổi mới, nhất là ở giai
đoạn đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số hội
nghề nghiệp, hội của các nhà trí thức, các nhà khoa học, khơng chỉ đơn thuần
mang tính chất đồn thể xã hội mà các tổ chức này cũng đóng vai trị to lớn
trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Hơn bao giờ hết, hiện
nay, Đảng và Nhà nước ta đang động viên và phát huy cao độ vai trò của đội
15


ngũ trí thức, các nhà khoa học, các doanh nhân trong việc hoạch định và thực thi
đường lối, chính sách phát triển đất nước. Có thể nói rằng đó là xu hướng tất
yếu trong quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN ở Việt Nam mà
một trong những biểu hiện có tính đặc trưng là sự tác động tương hỗ dẫn đến sự
hài hịa hóa giữa các yếu tố chính trị và kinh tế - xã hội.
Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trị vừa là trung tâm đồn kết, tập
hợp đơng đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện và

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên vừa thực hiện vai
trị nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động viên nhân dân
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. So với các tổ
chức xã hội khác, vai trị này của các tổ chức chính trị - xã hội có tính trực tiếp
hơn trong việc phục vụ sự nghiệp cách mạng theo đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Bên cạnh các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội truyền thống và những tổ
chức xã hội đã và đang phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội như nêu trên,
trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam cịn có hàng trăm tổ chức xã hội
khác. Các tổ chức xã hội loại này đang ngày càng nhiều và gồm các hình thức tổ
chức phong phú như các hiệp hội kinh tế, hội nghề nghiệp, các hội quần chúng
tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức hoạt động tương trợ xã hội khơng
nhằm mục đích lợi nhuận... Đặc điểm chung của các tổ chức xã hội là tính phi
chính trị và phi lợi nhuận. Điều này có nghĩa, các tổ chức này hoạt động trên
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, bảo vệ và phát triển lợi ích chung
của các thành viên. Các tổ chức này về bản chất sinh ra không phải để trực tiếp
thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh tính phong phú, đa dạng là đặc điểm lớn của các tổ chức xã hội,
các tổ chức xã hội cịn có một đặc điểm khác là ngày càng xuất hiện sự liên kết,
tập hợp các lực lượng lớn hơn trên cơ sở những sự tương đồng về lợi ích và ý

16


nguyện. Đó cũng là xu thế khách quan của xã hội dân sự mà chúng ta cần biết
phát huy điểm tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.
Ngày nay, vai trò của các tổ chức xã hội đang dần được xác định một cách
đúng đắn hơn trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội dân sự. Không phải chỉ bây giờ mà từ rất
xa xưa, việc quản lí xã hội trước hết và phần lớn vốn thuộc về chức năng của các

tổ chức xã hội (trong đó có cả gia đình). Trong xã hội hiện đại cũng cần phải
như vậy, với tư duy “nhà nước nhỏ, xã hội lớn” thì vị trí của các tổ chức xã hội
được mơ hình hố như một “cái bệ đỡ” lớn, vững chắc cho sự tồn tại của các
thiết chế chính trị là Đảng, Nhà nước. Gốc có to, cây mới vững bền, đó là một
triết lí đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đối với hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam.
Trong điều kiện hiện nay, điều đáng chú ý là các hội nghề nghiệp, hiệp
hội kinh tế ngày càng có vị trí, vai trị quan trọng. Và theo nguyên lí về mối liên
hệ giữa kinh tế với chính trị thì các tổ chức hội đồn kinh tế sẽ tác động mạnh
mẽ đến đời sống chính trị, luật pháp của nước ta theo cả hai chiều hướng tích
cực và tiêu cực. Đó cũng là xu hướng có tính khách quan trong sự phát triển của
nền dân chủ hiện nay. Điều này dù không trực tiếp quyết định thể chế chính trị,
luật pháp nhưng việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật khơng thể
khơng tính đến nhu cầu, lợi ích cũng như vai trị tư vấn, phản biện, giám định xã
hội hay sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội
kinh tế vào q trình đó.
Như vậy, trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, các tổ chức xã hội
đóng vai trị năng động tích cực hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Các tổ chức xã hội không phải là kênh biệt lập với hệ thống chính trị mà ngày
càng tham gia mạnh mẽ, tác động lớn lao đến kết quả hoạt động của hệ thống
chính trị. Vì thế có thể quan niệm rằng hệ thống xã hội là hệ thống phản hồi với
hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của hệ thống chính trị. Nếu nhìn từ góc độ
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì cả hai hệ thống chính trị và hệ thống các tổ
chức xã hội đều là những kênh thực hiện quyền lực nhân dân. Hệ thống chính trị
17


tác động đến xã hội trên cơ sở quyền lực giai cấp - xã hội, đảm bảo sự định
hướng và dẫn dắt, điều hành sự phát triển của cả xã hội. Do đó, hệ thống chính
trị đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và quyền lực nhân dân. Hệ
thống xã hội đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng của đời sống xã hội. Hệ

thống xã hội không phải là hệ thống thụ động chịu sự tác động của hệ thống
chính trị, phụ thuộc hồn tồn vào hệ thống chính trị mà cũng có vai trị, trách
nhiệm chung với sự phát triển toàn diện của đất nước. Cả hai hệ thống đó khơng
thể thiếu vắng và thay thế vai trò cho nhau. Nếu hệ thống này khơng tốt thì tất
yếu dẫn đến sự bấp cập của hệ thống kia và ngược lại. Vì vậy, cả hai hệ thống
chính trị và hệ thống xã hội hịa hợp thành thể thống nhất được gọi là hệ thống
chính trị - xã hội.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống
này là nếu hệ thống chính trị khơng có mục đích tự thân thì ngược lại hệ thống
xã hội trong khi hoạt động vì mục tiêu cho chính hệ thống mình (mang tính xã
hội) có nhu cầu và mong muốn tác động đến hệ thống chính trị một cách tự
nhiên. Thành ra, dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
nhưng nhìn tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống cuối cùng đều thống nhất ở
chỗ vì con người, vì một xã hội tốt đẹp.
Điều có ý nghĩa quan trọng có thể rút ra qua những phân tích trên đây là
vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với sự hình
thành và phát triển của tồn bộ hệ thống chính trị - xã hội của đất nước đã tạo cơ
sở khách quan cho các hoạt động tham gia hay phản hồi của các tổ chức này đến
hệ thống chính trị: Đảng và Nhà nước. Đó có thể là các loại hoạt động khác
nhau như tư vấn, giám định, phản biện xã hội...
III. Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
1. Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta
1.1. Bản chất của hệ thống chính trị ở nước ta
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền
18


lực và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước
ta có những bản chất sau:

Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân,
nghĩa là các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập trường quan
điểm của giai cấp công nhân. Từ đó đã quy định chức năng, nhiệm vụ, phương
hướng hoạt động của tồn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện trước hết ở
chỗ: Quyền lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc, thiết lập sự thống trị của đa số nhân dân với thiểu số bóc lột.
Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở nước ta.
Bản chất đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự
thống nhất giữa những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và tồn thể dân tộc.
1.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh đều được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ
trong hoạt động của từng tổ chức.
Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trị lãnh
đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do
những phẩm chất của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của
các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những thành tựu rất to lớn
19


đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của

Đảng... làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập hợp
quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân tự
nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực tế. Đây là
đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở nước ta thực hiện.
Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ bản
đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động
nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức
trong hệ thống chính trị.
Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng
nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với hệ
thống chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
2. Nguyên nhân tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới
đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trị lãnh
đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân
và vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hố, tư tưởng được phát
huy... Bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm:
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà
20




×