LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, Tồn cầu hóa mà chủ yếu là Tồn cầu hóa kinh tế đã trở thành 1 xu
thế khách quan. Dưới sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và công nghệ
hiện đại, đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin trên phạm vi tồn cầu, đã có tác
động đến tất cả các dân tộc, các quốc gia trên thế giới. Có thể nói, Tồn cầu hóa kinh
tế là bước tiến bộ vượt bậc của văn minh nhân loại, nó tạo điều kiện cho các quốc
gia, dân tộc những cơ hội, điều kiện thuận lợi mới vô cùng quan trọng cho việc phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tham gia hội nhập vào q trình Tồn cầu hóa
kinh tế đã trở thành yêu cầu cấp thiết cho sự tồn tại và phát triển của các nước.
Nhận thức rõ xu thế phát triển khách quan đó, Đảng chủ trương tích cực tiến
hành đối với đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tại Đại hội IX (4-2001)
Đảng ta khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố
dân tộc, bảo vệ mơi trường…”.
Q trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta trong những năm qua đã thu
được nhiều kết quả tích cực. Góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã
hội của nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà chúng ta vận dụng được
thông qua việc tham gia vào xu thế Tồn cầu hóa, nền kinh tế nước ta cũng phải đối
mặt với những khó khăn do tác động tiêu cực của q trình Tồn cầu hóa.
Với lý do trên, em chọn đề tài: “Tồn cầu hóa và vấn đề chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay - Ngành thương mại nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào với việc hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là một chủ đề rộng, khả
năng nghiên cứu của em còn nhiều hạn chế. Em mong thầy cơ góp ý để những bài
viết sau của em được tốt hơn.
Em xin chân thanh cảm ơn!
1
NỘI DUNG
I. TỒN CẦU HĨA VỀ KINH TẾ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ CÓ TÁC
ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ KINH TẾ ĐẤT NƯỚC CỦA VIỆT NAM.
1. Khái niệm toàn cầu hố về kinh tế.
Trong thời đại ngày nay, khơng một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển
mà lại khơng tham gia vào q trình Tồn cầu hóa. Đây là một vấn đề hết sức rộng
lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều mặt khác và có nhiều ý kiến khác nhau. Những
năm gần đây, ngày càng nhiều hội nghị, hội thảo, cuốn sách, bài báo đề cập đến vấn
đề này. Trên thực tế, thuật ngữ “Tồn cầu hóa” là một thuật ngữ địi hỏi phải có một
cách tiếp cận liên ngành vì nó liên quan đến tất cả các hiện tượng xã hội hiện thời.
Người ta có thể nghiên cứu Tồn cầu hóa dưới nhiều góc độ như văn hố, xã hội
kinh tế. Ngồi ra Tồn cầu hóa cũng liên quan trực tiếp đến phát triển công nghệ, bảo
vệ mơi trường… Từ các chính khách, các nhà ngoại giao, nhà khoa học, nhà hoạt
động văn hoá nghệ thuật, đến những người dân bình thường đều quan tâm tìm hiểu
về Tồn cầu hóa. Đến nay đã có hàng trăm khái niệm về Tồn cầu hóa đưa ra từ góc
độ tiếp cận. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, thậm
chí đối lập. Nguyên nhân của sự khác nhau đó khơng chỉ do khác nhau về lợi ích, về
lập trường quan điểm, mà cịn khác nhau về cách tiếp cận vấn đề, về mục đích tìm
hiểu Tồn cầu hóa…
Mặc dù vậy, nếu nhìn lại lịch sử, chúng ta sẽ thấy các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong các tác phẩm nổi tiếng của mình đã có những dự báo khoa học về
xu thế tồn cầu hóa. Cụ thể là:
Trong tác phẩm “Tun ngôn của Đảng cộng sản” (1848), Mác, Ăngghen đã
đưa ra và luận giải những vấn đề lý luận của toàn cầu hóa theo quan điểm duy vật
lịch sử. Cơ sở để luận giải vấn đề tồn cầu hóa của các ông dựa trên những căn cứ
sau: Trước hết, lấy lực lượng sản xuất làm điểm xuất phát để giải thích những
ngun nhân gây nên tồn cầu hóa kinh tế, văn hố, chính trị của giai cấp tư sản,
Mác và Ăngghen đã chỉ rõ:
“… hơi nước và máy móc dẫn đến cuộc cách mạng trong sản xuất công
nghiệp. Đại công nghiệp hiện đại thay cho công trường thủ công… Đại công nghiệp
đã tạo ra thị trường thế giới… thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng
hải, những phương tiện giao thơng phát triển mau chóng lạ thường. Sự phát triển
này tác động trở lại việc mở rộng công nghiệp, mà công nghiệp, thương nghiệp,
hàng hải, đường sắt cùng phát triển thì giai cấp tư sản càng lớn lên, làm tăng những
tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại, xuống phía sau…”.
2
Từ góc độ quan hệ sản xuất, Mác và Ăngghen đã chỉ ra nhân tố tác động và
tính chất giai cấp của tồn cầu hóa. Trong “Tun ngơn Đảng cộng sản”, Mác và
Ăngghen chỉ rõ: do bị thúc đẩy bởi nhu cầu về nơi tiêu thụ mới mà giai cấp tư sản đã
xâm lấn khắp toàn cầu, thiết lập các mối quan hệ và khai thác ở khắp nơi. Điều đó
cho thấy việc chiếm đoạt lợi nhuận là động cơ thơi thúc bên trong gây nên tồn cầu
hóa của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn tạo nên một thế giới theo hình ảnh của
nó. Đây chính là thực chất tồn cầu hóa của giai cấp tư sản, chính là quốc tế hóa tư
bản thực hành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở khắp mọi nơi.
Từ góc độ vận động của những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất và qui luật đấu tranh giai cấp để vạch ra xu thế cuối cùng của sự phát triển
tồn cầu hóa. Sự phân tích của Mác - Ăngghen đã chỉ ra: sự “toàn cầu hóa tư bản”
do giai cấp tư sản gây ra phát triển đến một giai đoạn nhất định sẽ sinh ra vận động
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới chống lại quan hệ sản xuất cũ giống như thời
kỳ cuối cùng của xã hội phong kiến. Sự phát triển của mâu thuẫn ấy sẽ biểu hiện
thành cuộc đấu tranh của người vô sản chống lại người tư sản, cuộc cách mạng của
giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Mác - Ăngghen đã chỉ ra: toàn
bộ lịch sử của nhân loại là lịch sử đấu tranh giai cấp và kết cục của mỗi cuộc đấu
tranh là cả xã hội bị cách mạng cải tạo hoặc là giai cấp đấu tranh bị tiêu diệt. Mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đấu tranh giữa giai cấp tư sản và
tư sản sẽ dẫn đến sự “sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều
là tất yếu như nhau”. Mặc dù lý luận về tồn cầu hóa của Mác - Ăngghen chưa hoàn
thiện, nhận thức chưa đầy đủ đối với khả năng tự điều chỉnh mâu thuẫn xã hội cơ bản
của giai cấp tư sản trong quá trình tồn cầu hóa, nhưng những quan điểm cơ bản trên
vẫn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nhận thức và tiếp cận đúng đắn trong q
trình tồn cầu hóa hiện nay.
Lênin – người kế tục và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới
cũng có những chỉ dẫn quan trọng liên quan đến việc tìm hiểu, nghiên cứu về tồn
cầu hóa. Đương nhiên, trong các tác phẩm của mình, Lênin khơng có những ý kiến
trực tiếp về tồn cầu hóa - một hiện tượng chỉ nổi lên sau khi Lênin qua đời hàng
thập kỷ nhưng thông qua những trước tác của Người, chúng ta thấy Lênin đã phân
tích, đánh giá, giải quyết khơng ít những vấn đề lý luận và thực tiễn khi chúng còn
rất mới mẻ đối với lý luận và thực tiễn của nước Nga và thế giới khi đó. Lênin đã chỉ
ra khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn phát triển cao nhất là chủ nghĩa đế
quốc, là thời kỳ mà sự tác động lẫn nhau đã trở nên hết sức cấp bách của 2 xu hướng
3
thế giới. Một mặt là xu hướng quốc tế hoá, hội nhập kinh tế vào toàn bộ đời sống xã
hội và mặt khác là xu hướng biệt lập, xây dựng các Nhà nước độc lập. Hai xu hướng
này được Lênin phân tích một cách khoa học và hết sức sâu sắc. Đồng thời, Lênin
cũng là người đầu tiên phân tích một cách sâu sắc những đặc điểm của chủ nghĩa đế
quốc và xem nó là giai đoạn phát triển tột cùng của chủ nghĩa tư bản.
Người cho rằng: nhiệm vụ của mình là phải trình bày mối liên hệ và quan hệ
qua lại giữa các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc. Người gọi chủ nghĩa
đế quốc là “hệ thống quan hệ kinh tế của chủ nghĩa tư bản phát triển cao nhất”.
Trong những trận bút chiến, Lênin đã chứng minh rằng, vấn đề không phải là chấp
nhận hay không chấp nhận chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản là một thành phần
kinh tế mới, cao hơn là một hình thái mới, đó là sự cần thiết lịch sử, là bậc thang
không thể tránh khỏi của sự tiến bộ xã hội. Đây là một nguyên tắc trong phương
pháp luận của Lênin, nguyên tắc này rất phù hợp với thực tế hiện nay trong vấn đề
chấp nhận hay khơng chấp nhận tồn cầu hóa. Bởi lẽ trong bản chất sâu xa, quá trình
này dựa vào các cơ sở thực tiễn ban đầu của sự phát triển xã hội – xu thế hội nhận,
thống nhất hợp nhất của loài người thành một chỉnh thể xã hội. Chủ nghĩa đế quốc
khơng phải là bản chất của tồn cầu hóa mà đúng hơn là phương thức vật chất hóa,
phản nhân đạo của tồn cầu hóa.
2. Tồn cầu hóa về kinh tế và những nhân tố làm nảy sinh toàn cầu hóa
kinh tế.
2.1. Khái niệm tồn cầu hóa kinh tế.
Mặc dù có rất nhiều quan niệm khác nhau về tồn cầu hóa, song có thể nói
tồn cầu hóa ngày nay có bản chất chủ yếu là tồn cầu hóa quốc tế, với những tác
động sâu rộng của nó đến các mặt đời sống xã hội như quân sự, chính trị, văn hố,
mơi trường… và việc giải quyết các vấn đề nảy sinh. Trong các lãnh đạo này không
thể không liên quan đến tồn cầu hóa kinh tế. Bàn về tồn cầu hóa kinh tế, hiện cũng
đang có rất nhiều những quan niệm khác nhau: có ý kiến cho rằng: “Tồn cầu hóa
kinh tế là mối quan hệ kinh tế vượt biên giới quốc gia vươn tới qui mô thế giới, đạt
trình độ chất và lượng mới” (Trần Việt Phương: Tồn cầu hóa – quan điểm và thực
tiễn, Nxb Thống kê, H.1999). Một số quan điểm khác lại cho rằng: Thực chất của
tồn cầu hóa kinh tế là tự do hóa và hội nhập quốc tế, mà trước hết là về thương mại,
đầu tư và dịch vụ. Một số ý kiến khác lại đưa ra “công thức” rất ngắn gọn về tồn
cầu hóa là “mở cửa và hội nhập”…
4
Từ những quan niệm trên, ta có thể đưa ra khái niệm về tồn cầu hóa kinh tế
như sau: “Tồn cầu hóa về kinh tế là q trình phát triển kinh tế của các nước trên
thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm
vi tồn cầu trong đó, hàng hố, vốn, tiền tệ, thơng tin, lao động… vận động thơng
thống, mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia và khu vực được vận hành theo “luật
chơi chung” được xác lập giữa các thành viên trong cộng đồng quốc tế, sự phân
công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính xã hội hóa càng ngày càng tăng, các
nền kinh tế ngày càng có quan hệ mật thiết với nhau và tuỳ thuộc lẫn nhau”.
Ở đây, chúng ta cần phân biệt đơi chút giữa quốc tế hóa và tồn cầu hóa. Phạm
vi, qui mơ của quốc tế hóa hẹp hơn chỉ cần vượt khỏi biên giới quốc gia các nước
trên thế giới không loại trừ một nước nào cả. Do đó, có thể hiểu tồn cầu hóa kinh tế,
là bước phát triển cao của q trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới là giai đoạn
chuyển biến về chất của q trình quốc tế hóa.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến tồn cầu hóa kinh tế.
Ngày nay, tồn cầu hóa kinh tế đang diễn ra với tốc độ vơ cùng nhanh chóng,
qui mơ ngày càng mở rộng trên hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế thế
giới làm xuất hiện nền kinh tế thế giới tồn cầu hóa. Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ IX của Đảng ta đã chỉ rõ: “Tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan”. Tính
khách quan ấy bắt nguồn từ một số nhân tố sau:
Thứ nhất: Tồn cầu hóa kinh tế – bước phát triển mới, cao của quốc tế hóa
kinh tế bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hóa sản
xuất trên phạm vi quốc tế. Như Mác - Ăngghen nhận định “Đại công nghiệp đào tạo
ra thị trường thế giới”. Thay cho tình trạng cơ lập trước kia các địa phương và dân
tộc vẫn tự cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ
biến giữa các dân tộc.
Thứ hai: Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường. Ngày nay kinh tế thị
trường phát triển mạnh mẽ không chỉ ở sự mở rộng về khơng gian mà cịn phát triển
theo chiều sâu với sự hình thành của các loại thị trường, của các loại hình cơng cụ thị
trường mới. Nền kinh tế ngày nay thống nhất ở công cụ vận: cơ chế thị trường - đây
chính là cơ sở quan trọng để gia tăng xu thế toàn cầu hóa.
Ba là: Sự phát triển của khoa học – cơng nghệ. Ở vào thế kỷ XV – XVI, nhờ
có những phát triển lớn về địa lý, cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật hàng hải đã giúp
các nước trên châu lục thông thương, mở rộng giao lưu kinh tế, thương mại. Đường
sắt phát triển mạnh mẽ ở châu Âu và Bắc Mỹ từ giữa thế kỷ XIX, tàu thuỷ, xe hơi
5
phát triển cuối thế kỷ XIX, đồng thời với sự ra đời của điện tín, điện thoại… đã làm
cho nền sản xuất vật chất phát triển vượt biên giới quốc gia và khu vực.
Bốn là: Nền sản xuất vật chất phát triển địi hỏi sự hợp tác, phân cơng lao
động ngày càng sâu dẫn đến sự hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế và vai trò
ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia (Transnational Corpration) – lực
lượng chi phối tồn cầu hóa.
Năm là: Vai trị của các định chế toàn cầu và khu vực thể hiện thành các tổ
chức quốc tế và khu vực. Các tổ chức này vừa là kết quả vừa là động lực của q
trình tồn cầu hóa. Các định chế kinh tế quốc tế ra đời tác động đến các thể chế quốc
gia và làm cho chúng thay đổi thích ứng. Hiện nay, trên thế0 giới có trên 40 tổ chức
kinh tế, thương mại, khu vực được tổ chức với nhiều hình thức cụ thể, mức độ hợp
tác rất khác nhau. Đặc biệt là các tổ chức tài chính, kinh tế, thương mại như: IMF
(Quỹ tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới), WTO (tổ chức thương mại thế giới)
… ngày càng có vai trị thúc đẩy q trình tồn cầu hóa kinh tế. Người ta ví IMF,
WB, WTO như là “ba cỗ xe ngựa” điều tiết mối quan hệ kinh tế thế giới từ nửa sau
thế kỷ XX đến nay.
Sáu là: Sự tan rã của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Trước kia, khi còn
tồn tại cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế giới, còn hội đồng tương trợ kinh tế (khố
SEV) đã tồn tại hai nền kinh tế, hai loại thị trường vận động theo các qui luật khác
nhau. Ngày nay, đa số các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã rẽ theo con
đường mới và các nước còn lại đều chủ trương hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tình hình đó làm cho tính tồn cầu hóa nền kinh tế ngày càng gia tăng.
Bảy là: Các cường quốc kinh tế khơng cịn phân chia thế giới thành những
vùng ảnh hưởng rõ rệt mà cùng một lúc thâm nhập và cạnh tranh nhau trên mọi loại
thị trường.
Tám là: Từ sự phát triển kinh tế đã nảy sinh những vấn đề tồn cầu như: ơ
nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm ma tuý,… địi hỏi phải có sự phối
hợp tồn cầu để đối phó với các thách thức, từ đó, đẩy đến gia tăng quan hệ phối hợp
với nhau trên qui mơ tồn cầu.
Như vậy, đây là những nhân tố được nhiều ý kiến đề cập đến và những nhân tố
này là cơ sở chứng minh cho xu thế không đảo ngược của tồn cầu hóa hiện nay.
3. Tác động có tính hai mặt của tồn cầu hóa.
Rõ ràng, xu hướng tồn cầu hóa hiện nay có những mặt tích cực và tiêu cực
cần được xem xét và phân tích. Nhưng trước khi phân tích các mặt tích cực và tiêu
6
cực của tồn cầu hóa chúng ta nên hiểu nội dung của tồn cầu hóa kinh tế. Có rất
nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những nội dung khác nhau. Nhưng có ba nội dung được
đề cập đến nhiều nhất, đó là:
Tự do thương mại: là việc cho phép lưu thông hàng hoá liên biên giới với các
mức thuế suất thấp và tiến tới xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Để
quản lý quá trình này người ta lập ra tổ chức: UNCTAD, GATT/WTO.
Tự do tài chính: là mở rộng tự do lưu thông vốn tư bản quốc tế. Quá trình này
chịu sự chi phối của các tổ chức quốc tế như: BIS, IMF, WB…
Tự do hóa đầu tư: là q trình mở rộng khơng gian đầu tư với các hình thức
đầu tư như: ODA, FDI giữa các nước với nhau cũng như giữa các nhóm nước trên
thế giới.
Đây là ba q trình chủ chốt của tồn cầu hóa kinh tế mà bất cứ quốc gia nào
tham gia vào q trình tồn cầu hóa đều khơng thể tránh khỏi.
3.1. Những tác động tích cực.
Cụ thể là: Với những nội dung trên thì nhìn chung tồn cầu hóa kinh tế góp
phần thúc đẩy phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế tồn cầu.
Thứ nhất: Tồn cầu hóa kinh tế thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và
xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Nếu nửa đầu
thế kỷ XX, GDP thế giới tăng 2,7 lần thì đến cuối thế kỷ XX, GDP tăng 5,2 lần.
Tồn cầu hóa kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm
tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu
kinh tế thế giới. Hơn nữa, tồn cầu hóa kinh tế làm cho hệ thống thị trường được mở
rộng, sự giao lưu hàng hố thơng thống hơn, hàng rào thuế quan dần được xố bỏ,
nhờ đó, sự trao đổi hàng hố tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các nước.
Thứ hai: Tồn cầu hóa làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa
các nền kinh tế các nước. Tồn cầu hóa kinh tế làm cho nền kinh tế mỗi nước có thể
trở thành bộ phận của cái tổng thể, hình thành cục diện kinh tế thế giới với việc giao
lưu, trao đổi các hoạt động kinh tế để tìm kiếm lợi ích giữa các nước, các nền kinh tế
ngày càng tăng lên đã tạo cơ sở cho xu thế đối ngoại, hiệp tác, biết mình, biết ta diễn
ra ngày càng mạnh. Tồn cầu hóa cũng làm giảm thiểu các chướng ngại vật trong
việc lưu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực… giữa các nền kinh tế, các
nước, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối với sự
phát triển kinh tế của mỗi nước, làm cho việc phân bổ các nguồn lực trên thế giới
hợp lý và có hiệu quả hơn.
7
Ba là: Tồn cầu hóa truyền bá và chuyển giao trên qui mô ngày càng lớn, tuy
chưa được như mong muốn, những thành quả mới mẻ về khoa học và công nghệ, về
tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các
dân tộc, tại nhiều nước… dọn đường cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Hơn nữa,
tồn cầu hóa tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn lực rất
quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát triển, từ nguồn vốn vật chất đến các
nguồn tri thức và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh.
Bốn là: Tồn cầu hóa gây sức ép mãnh liệt, gay gắt về cạnh tranh đối với mỗi
nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp. Bởi vậy, nó làm thay đổi cách suy nghĩ, cách làm của
mỗi nước, mỗi nhà sản xuất. Để sản xuất, giao lưu kinh tế toàn cầu, phát huy lợi thế
cạnh tranh của mình, chiếm giữ chỗ đứng trên thị trường, mỗi nhà quản lý cũng như
mỗi nhà kinh doanh khơng thể chỉ sản xuất cái mình có thể, mà phải sản xuất cái thị
trường cần, phải tính đến hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực sản xuất để khơng
ngừng nâng cao chất lượng hàng hố, cải tiến mẫu mã, đa dạng mặt hàng, hạ thấp giá
thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu dùng,
phải nắm vững các tiêu chuẩn quốc tế, hiểu biết luật pháp và qui ước quốc tế, hiểu
biết thị trường thế giới. Tồn cầu hóa kinh tế mở ra những địa bàn và cách thức hoạt
động mới, thị trường mới,những đối tác mới cho từng nước.
3.2. Những tác động tiêu cực.
Cùng với những mặt tích cực, q trình tồn cầu hóa kinh tế trong mấy thập kỷ
qua đã bộc lộ dần những tác động tiêu cực đối với kinh tế, chính trị và xã hội của
mỗi nước. Sự tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế thể hiện trên một số vấn đề
sau:
Trước hết, hiện nay q trình tồn cầu hóa kinh tế diễn ra khi mà trình độ phát
triển của các nước rất không đồng đều, một số nước tư bản phát triển, đứng đầu là
Mỹ do có ưu thế gần như tuyệt đối về kinh tế, về khoa học – công nghệ nên đang
nắm giữ vai trò chủ đạo, thao túng, chi phối “luật chơi”, biến tồn cầu hóa kinh tế
thành “sân chơi” bất bình đẳng, bất cơng chứa đựng nhiều nguy cơ đến sự an nguy
và tồn vong của các nước, nhất là các nước đang phát triển và chậm phát triển. Sự
bất bình đẳng và bất cơng hưởng nhờ tồn cầu hóa kinh tế đem lại thể hiện rõ ở tình
trạng phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp người ở các nước, các khu vực và trên
toàn thế giới.
Hai là, q trình tồn cầu hóa cịn gây nên cuộc khủng hoảng nợ đối với các
nước đang phát triển. Các nước này phụ thuộc quá nhiều vào tiền viện trợ. Tuy nhiên
8
dịng viện trợ lại khơng tăng và có xu hướng giảm đi về giá trị thực tế vì hầu hết các
nhà tài trợ chính đều cắt giảm viện trợ. Trên thế giới, khơng có nơi nào vấn đề khủng
hoảng nợ lại căng thẳng như Châu Phi cận Xahara. Uganđa là một nước đứng trong
tình trạng nợ trầm trọng nhất. Năm 1994, nước này trả nợ 162 triệu USD bằng 4/5
thu nhập từ xuất khẩu. Nợ của Uganđa rõ ràng là khơng thể trả được. Ngồi ra, các
nước ở các khu vực khác cũng là nạn nhân của cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu hiện
nay. Số nợ của Nicaragoa với nước ngoài lên tới 11 tỷ USD và trở thành nước mắc
nợ cao nhất tính bình qn trên đầu người. Khó có thể tưởng tượng nước này có thể
trả nổi nợ bởi vì số nợ cộng với số lãi suất thì dư nợ phải trả bằng 1/2 GDP nước này.
Theo báo cáo về tình hình tài chính tồn cầu cho biết, nợ nước ngoài của các nước
đang phát triển năm 1992 là 1.625 tỷ USD và năm 1997 tăng 2.317 tỷ USD và hiện
nay khoản nợ khoảng 2.200 tỷ USD được coi là gánh nặng đối với các nước đang
phát triển.
Ba là: Nền kinh tế toàn cầu là một nền kinh tế dễ bị chấn thương, sự trục trặc
ở một khâu có thể lan ra phạm vi tồn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Đơng Nam Á vào cuối thế kỷ XX đã minh chứng điều đó.
Bốn là: Tồn cầu hóa kinh tế làm xói mịn quyền lực của Nhà nước, trong khi
lại không ngừng làm tăng quyền lực của các công ty xuyên quốc gia. Khi các hoạt
động giao lưu kinh tế, thương mại quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì trên thế giới. Vai
trị của các quốc gia dân tộc ngày càng mất đi những ý nghĩa nhiều mặt của nó. Các
truyền thống văn hố, truyền thống dân tộc, sắc thái dân tộc, nếu khơng có sự bảo vệ
giữ gìn thì cũng bị băng hoại. Như vậy, thế giới sẽ mất đi tính phong phú, đa dạng
của nó, cịn các quốc gia dân tộc nói chung, đặc biệt là các quốc gia nhỏ yếu sẽ rất dễ
bị xâm lược, chủ quyền kinh tế gắn với lợi ích đất nước bị xâm phạm.
Năm là: Về mặt văn hoá, xã hội, tồn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ đánh mất
bản sắc dân tộc, đánh mất độc lập tự chủ quốc gia. Tồn cầu hóa cũng làm cho một
số vấn đề tiêu cực trở nên quốc tế hóa như buôn bán và sử dụng ma tuý, mại dâm, du
nhập lối sống đồi truỵ, lan tràn chủ nghĩa khủng bố, lây truyền căn bệnh thế kỷ
HIV/AIDS.
Ngồi ra, tồn cầu hóa kinh tế còn thúc đẩy sự gia tăng chảy máu chất xám ở
các nước đang phát triển, khủng hoảng môi trường… Ngay trong những mặt tích cực
trên cũng ẩn chứa khơng ít những mặt tiêu cực. Việc trao đổi hàng hố, việc tự do
thương mại thường đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước cơng nghiệp phát triển vì
sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó, có sức cạnh
9
tranh cao, dễ chiếm lĩnh thị trường. Tuy nói là tự do háo thương mại song các nước
công nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ cơng khai (như áp dụng
hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, mơi trường…). Tuy có chuyển
giao cơng nghệ cho các nước đang phát triển nhưng không phải là công nghệ hiện
đại nhất là công nghệ cao. Công nghệ mà họ chuyển giao thường là công nghệ lắp
ráp, công nghệ lạc hậu, công nghệ sản xuất côcacôla để tuyên truyền lối sống của họ,
công nghệ bẩn gây ô nhiễm, công nghệ cho phép họ chiếm lĩnh thị trường công nghệ
điện thoại di động, cơng nghệ hình thành nền kinh tế ảo để thủ tiêu chủ quyền quốc
gia của các nước đang phát triển và cơng nghệ để kìm hãm sự phát triển như đã từng
xảy ra đối với nước Nga.
II. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG XU THẾ TỒN CẦU HĨA.
1. Những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nắm bắt được thời cơ và từng bước vượt qua khó khăn, thách thức tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta thu được những kết quả ban đầu.
- Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc thiết lập mối quan hệ với mức
độ khác nhau với hầu hết các nước. Do đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với hơn 170 nước và hầu hết với các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, đẩy lùi
được chính sách bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng được môi
trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc nâng
cao vị thế của nước ta trên chính trường và thương trường quốc tế. Đại hội Đảng lần
thứ VIII của Đảng ta đã đánh giá việc “phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá
thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế”, đã khai
thông được quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB.
Điều đó giúp Việt Nam mở rộng thêm thị trường có nhiều đối tác, tăng tính hấp dẫn
của nước ta đối với các nước khác, kể cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế quan
trọng trên thế giới.
- Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và
hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan vỡ và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên, đồng thời
mở rộng thị trường xuất khẩu. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 15,1 tỷ USD thì
năm 2004, kim ngạch xuất khẩu là 26 tỷ USD.
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi và tranh thủ được nguồn viện trợ
chính thức (ODA) ngày càng lớn, giảm đáng kể nợ nước ngoài. Kể từ khi ban hành
luật đầu tư nước ngoài (12/1987) và sau 7 lần sửa đổi đã tăng sức hấp dẫn, thu hút
một lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tính đến cuối năm 2004, với nguồn
10
vốn đầu tư từ hơn 75 quốc gia và vùng lãnh thổ, cả nước ta có hơn 4.500 dự án FDI
được cấp phép với tổng số vốn trên 50 tỷ USD. Ngoài những dự án đã hết thời hạn
hoạt động và một số dự án giải thể do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện
tại nước ta có trên 3670 dự án FDI có hiệu lực với tổng số vốn trên 39 tỷ USD. Theo
thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, trên địa bàn cả nước hiện có 2000 dự án FDI
đang ở giai đoạn xây dựng cơ bản và 70 dự án chưa triển khai. Trong đó, dự án FDI
vào lĩnh vực cơng nghiệp và xây dựng chiếm vị trí cao nhất (66%), thu hút 70% lao
động và tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu chiếm trên 90% tổng giá trị xuất khẩu
của khu vực này. Số dự án vào lĩnh vực du lịch (21%0, lĩnh vực nông – lâm – ngư
nghiệp chỉ mới đạt 13% với 60% vốn thực hiện.
Ngồn vốn FDI đã góp phần thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố
của nước ta cụ thể: góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và tạo ra 1/3 giá trị sản
lượng cơng nghiệp của cả nước, đóng góp trên 13% GDP của cả nước, chiếm 18%
tổng số vốn đầu tư xã hội và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu hàng hố, ngồi ra
nguồn FDI cịn tạo việc làm cho hơn 62 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao
động gián tiếp.
Nguồn vốn viện trợ chính thức cũng ngày một gia tăng khi nước ta tham gia
vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tính bình qn trong những năm 2000 – 2003
hàng năm có khoảng hơn 2 tỷ USD cam kết và giải ngân được 1,5 tỷ USD. Riêng
năm 2004, vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA được nhà tài trợ cam kết quốc tế đạt
tới mức chưa từng có 3,44 tỷ USD. Các tổ chức phi chính phủ nước ngồi hoạt động
ở Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế – xã hội, cơng
nghiệp hố, hiện đại hố của nước ta trong thời gian qua.
Việc khai thông quan hệ với IMF và WB cũng tạo điều kiện cho nước ta giải
quyết một bước quan trọng vấn đề nợ nước ngoài, giảm được tới 70% nợ các nước từ
năm 1993 trở về trước, góp phần ổn định cơ cấu thu, chi ngân sách, tập trung nguồn
lực cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, mở ra khả năng vay được vốn
cho các kênh khác.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp cho chúng ta tiếp thu khoa học – cơng nghệ, kỹ
năng quản lý góp phần đào tạo một số cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng
động sáng tạo. Đến hết năm 2003, nước ta có đội ngũ 800 giáo sư, 3000 phó giáo sư,
11.127 tiến sĩ và 10.000 thạc sĩ, 1 triệu cán bộ tốt nghiệp đại học, hơn 2 triệu cán bộ
trung học và gần 3 triệu công nhân được đào tạo nghề. Có hàng nghìn nhà khoa học
Việt Nam làm việc tại các trường đại học, các Viện nghiên cứu, các Trung tâm khoa
11
học lớn trên thế giới. Vì vậy, mặc dù chỉ số GDP đầu người của Việt Nam còn vào
hàng thấp nhất thế giới nhưng do có trình độ phát triển giáo dục tương đối cao, nên
chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UDNP) đã xếp Việt Nam là nước có chỉ
số phát triển con người đứng thứ 101 trong 165 nước trên thế giới được xếp hạng.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, đã từng bước đưa hoạt động của các doanh
nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Kết hợp nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa
đến những thành tựu kinh tế to lớn, nhờ đó giúp chúng ta tiếp tục giữ vững, củng cố
độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá
dân tộc.
2. Những mặt còn hạn chế khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa qua cũng bộc lộ những yếu kém
cần khắc phục đó là:
- Chưa làm tốt cơng tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế
chuyển qua giai đoạn mới. Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định
trong nhiều nghị quyết của Đảng và đã từng bước được thực hiện, song nhận thức về
hội nhập chưa đạt sự nhất trí cao, ảnh hưởng tới q trình đề xuất chính sách và triển
khai thực hiện. Cho đến nay, ở nước ta còn chưa thật hiểu, chưa nắm vững toàn bộ
chế định của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nhất là của WTO…, và công
cuộc hội nhập quốc tế mới chỉ tập trung ở các cơ quan Trung ương. Sự tham gia của
các ngành, các cấp tuy có đặt ra nhưng cịn rất yếu và thiếu sự đồng bộ, do đó chưa
tạo sức mạnh cần thiết trong quá trình hội nhập kinh tế.
- Hệ thống luật pháp, chính sách quản lý kinh tế – thương mại chưa hoàn chỉnh
chưa đồng bộ, gây khó khăn cho việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế
quốc tế. Ta cũng chưa nghiên cứu kỹ và sâu để tận dụng những ưu đãi mà quốc tế
dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển như qui chế tối huệ quốc, đãi
ngộ quốc gia, chế độ hạn ngạch thuế quan…
- Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp. Doanh nghiệp nước ta
hầu hết qui mô nhỏ, yếu kém cả về trình độ quản lý và cơng nghệ, lại hoạt động quá
lâu trong cơ chế bao cấp. Chúng ta chưa tạo đủ cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm
kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát triển của mình với việc cải tiến
sản xuất kinh doanh, với khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
12
- Chưa hình thành một kế hoạch tổng thể và dài hạn về quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và một bộ trình hợp lý để thực hiện các cam kết quốc tế.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố cịn
chậm. Việc thực hiện chính sách phát triển các thành phần kinh tế; tuy đã tiến bộ
nhưng thiếu nhất quán, chưa khai thác tốt các nguồn lực, nhất là trong dân. Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hình thành đồng bộ.
- Cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, hiệu quả quản lý Nhà nước cịn thấp. Đội
ngũ cán bộ yếu, cơng tác tổ chức chỉ đạo chưa thích hợp. Cán bộ làm cơng tác quốc
tế, nhất là cán bộ đàm phán quốc tế hiểu biết khơng đầy đủ, ít kinh nghiệm trong lĩnh
vực này, chưa có trình độ ngoại ngữ, nhất là khi lĩnh vực và qui mô hợp tác được mở
rộng. Cán bộ doanh nghiệp cũng ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh
doanh. Đội ngũ công nhân lành nghề chưa được đào tạo đúng mức.
Nguyên nhân của các yếu kém trên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là
do: Một bộ phận đảng viên và dân chúng chưa nhận thức được xu hướng tất yếu của
toàn cầu hóa, những thời cơ và thách thức mà nó đặt ra. Chưa thấu suốt về chủ
trương hội nhập kinh tế q trình, việc lãnh đạo, triển khai cịn chậm, còn lúng túng,
chưa kiên quyết, chưa nhất quán. Nhiều doanh nghiệp chưa sẵn sàng cho hội nhập,
thậm chí vơ tình đứng ngồi cuộc chơi. Chúng ta cịn chưa đánh giá hết những tác
động phức tạp của tồn cầu hóa, của sự phát triển của khoa học – công nghệ và thơng
tin, nên phản ứng chậm, bị động với tình hình.
III. CHỦ TRƯƠNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ TRONG XU THẾ TỒN CẦU HĨA.
1. Chủ trương.
Để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả cao, Văn kiện Đại hội IX đã nhấn
mạnh chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, bảo vệ mơi trường”. Để thực
hiện tốt chủ trương này, chúng ta phải hiểu thế nào là chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế?
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là tham gia một cách có ý thức, có chủ
đích, có kế hoạch và có lộ trình. Chủ động tham gia vào các quan hệ quốc tế phải có
sự tính tốn đến cụ thể và lợi ích thu được hội nhập, tơn trọng “luật chơi chung”
đồng thời vận dụng sát với điều kiện thực tiễn của mình. Sự chủ động cịn được thể
hiện ở việc lựa chọn các tổ chức tham gia và các đối tác, thời điểm tham gia.
13
Tính chủ động cịn được thể hiện qua việc chủ động xây dựng lộ trình hội
nhập hợp lý trong khn khổ qui định chung, chủ động điều chỉnh luật pháp, chính
sách cho phù hợp. Chủ động tổ chức sản xuất và điều hành kinh tế trong nước nhằm
nâng cao không ngừng khả năng cạnh tranh không chỉ trong thị trường nội địa mà cả
trên thị trường quốc tế, chủ động phong cách thực hiện các cam kết quốc tế.
Tóm lại, tính chủ động được thể hiện trong việc “chọn sân chơi” và “cách
chơi” theo “luật chơi chung”.
Chủ động hội nhập quốc tế và khu vực đòi hỏi phải xây dựng được nền kinh tế
dân tộc độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng cơ bản để củng cố và
duy trì sự độc lập tự chủ về chính trị. Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối
quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về những mặt khác, tạo thành độc lập tự chủ
và sức mạnh tổng hợp của quốc gia.
Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thơng thường là một nền kinh tế
phát triển tồn diện, có khả năng thoả mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã
hội, của an ninh, quốc phòng, quá trình tái sản xuất, khơng bị lệ thuộc vào bên ngoài
ngay cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình
thường và bảo đảm được nền tảng duy trì an ninh quốc gia. Một nền kinh tế như vậy,
nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên,
điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng, qui mơ thị trường quốc gia đủ lớn, trình độ phát
triển cao về khoa học – công nghệ và khơng cần có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn
có thể phát triển được.
Tuy nhiên, độc lập tự chủ về kinh tế ngày nay dưới tác động của xu thế tồn
cầu hóa là phát triển nền kinh tế khơng bị lệ thuộc vào nước khác, vào một tổ chức
quốc tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển kinh tế, vào những điều kiện kinh
tế, chính trị mà người khác áp đặt cho mình trong quan hệ song phương, đa phương
và trong tiếp nhận viện trợ.
Trước những biến động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế tài chính từ
bên ngồi, về cơ bản vẫn giữ được sự ổn định của nền kinh tế quốc gia định hướng
xã hội chủ nghĩa của sự phát triển.
Trước sự bao vây, cơ lập và chống phá về kinh tế, chính trị của các thế lực thù
địch từ bên ngoài, đất nước vẫn trụ vững, không bị khủng hoảng về kinh tế và chính
trị.
14
Độc lập tự chủ về kinh tế ở nước ta đồng nghĩa với việc đảm bảo vững chắc
cho định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối, chủ trương của Đảng đề ra, khơng
có bất kỳ sự áp đặt nào từ bên ngồi.
Để có một nền kinh tế độc lập tự chủ, cần đáp ứng những yêu cầu chủ yếu sau:
- Có đường lối chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế – xã hội phù hợp
với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế cụ thể.
- Có thực lực kinh tế đủ mạnh nghĩa là: nền kinh tế không chỉ đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của tồn xã hội mà cịn có phần tích luỹ cần thiết để thực hiện tái sản xuất
mở rộng trong toàn bộ nền kinh tế.
+ Nền kinh tế phát triển bền vững và có sức cạnh tranh cao bao gồm sức cạnh
tranh của hàng hoá, dịch vụ, của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, dựa trên việc phát huy lợi thế so sánh trên tất cả các mặt của đất nước.
+ Có một yếu tố vật chất cần thiết đảm bảo an toàn và điều kiện cơ bản cho sự
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững như tự chủ về kinh tế trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Đặc biệt là giữ cân bằng cần thiết cán cân thanh tốn và có nguồn dự trữ quốc
gia mạnh.
2. Mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế.
Văn kiện Đại hội Đảng IX nêu rõ mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là “kết
hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển kinh tế đất nước”.
Như vậy, mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực, toạ thành
sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, thực hiện “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Vậy cùng với các yếu tố nội lực, nước ta tham gia vào quá trình hội nhập để
tận dụng lợi thế so sánh của mình, thúc đẩy nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất
góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặt khác, chúng ta đang bắt đầu tham gia
vào quá trình lao động quốc tế để phát triển kinh tế trong nước như lắp ráp, dịch vụ
viễn thông, sản xuất phần mềm… Đây là một trong những bước phát triển quan
trọng nhằm tiến tới xây dựng những ngành kinh tế mũi nhọn trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những hoạt động nhằm tăng
vốn đầu tư phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam ngày càng có
những tiến bộ. Chúng ta có điều kiện để các dịng vốn chu chuyển nhanh hơn và độ
an tồn cao hơn nhờ những tiến bộ to lớn của công nghệ thông tin liên lạc hiện đại.
15
Chính nhờ những bước tiến này nên khi chúng ta tham gia vào thị trường, các doanh
nghiệp của Việt Nam có thể thu nhập và xử lý thơng tin cần thiết. Để có thể ký kết
làm ăn với một doanh nghiệp và một tập đoàn kinh tế nước ngoài. Ngoài ra với
lượng thơng tin nhanh chóng và chính xác, các doanh nghiệp và ngân hàng Việt Nam
có thể giám sát và quản lý rủi ro tài chính, tránh những điều mà các nước trong khu
vực đã từng mắc phải năm 1997 – 1998.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để công nghệ hiện đại và tri thức
quản lý tiên tiến đi vào nước ta theo nhiều kênh: đầu tư trực tiếp, nhập khẩu bằng
phát minh, mua giấy phép, nhập khẩu lao động có trình độ tay nghề cao, thơng qua
hợp tác giáo dục và đào tạo…
Ngồi ra, người lao động Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện
đại và phương pháp quản lý tiên tiến, qua đó nâng cao năng suất lao động. Mặt khác
giúp cho người lao động cơ hội tiếp xúc với một thị trường làm việc rộng mở và đa
dạng. Xu hướng phân phối theo lao động được thiết lập, giá trị lao động được đánh
giá và đền bù một cách thoả đáng…
3. Những gẩi pháp chủ yếu thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam ngày càng
nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào q trình Tồn cầu hố kinh tế quốc
tế và cạnh tranh quốc tế chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 nêu rõ, phải
“chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tranh thủ mọi thời cơ để phát triển…Trong quá
trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất
lượng, hiệu quả không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo
hộ”. Do đó giải pháp đầu tiên nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là: Khẩn
trương nâng cao sức cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và của cả nền
kinh tế. Sức cạnh tranh của sản phẩm thể hiện rõ nhất ở chất lượng sản phẩm, tính
độc đáo, mới lạ, giá cả, thương hiệu… Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở
qui mơ sản phẩm tiêu thụ trên thị trường, uy tín, danh tiếng của chủ doanh nghiệp,
hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng tiếp thị, mức độ hoàn hảo của sự phục vụ.
Sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa vào sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ,
của doanh nghiệp là cơ bản. Mặt khác, nó thể hiện ở mơi trường kinh tế vĩ mơ, mơi
trường chính trị xã hội ổn định, thuận lợi cho đầu tư và sản xuất kinh doanh của chủ
thể kinh tế trong và ngoài nước.
16
Hiện nay, Sức cạnh tranh trên của nền kinh tế cả 3 phương diện đều rất thấp.
đây chính là thách thức lớn nhất mà chúng ta phải gắn sức vượt qua trên con đường
hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai là, Phải tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý để tạo
môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh tốt hơn, thuận lợi hơn. Việc cấp bách là khẩn
trương thực hiện chương trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước để
doanh nghiệp Nhà nước thực sự đóng vai trị chủ đạo, nịng cốt phát triển kinh tế đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba là, Xây dựng và thực hiện lộ trình hội nhập chủ đọng. Nước ta nhập
cuộc đua tranh kinh tế khi trình đọ phát triển kinh tế và cơng nghệ cịn thấp. Vì vậy,
phải tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ
trình hợp lý khơng q nóng vội cũng khơng q chậm chạp. Lộ trình được thoả
thuận và xác định đàm phán song phương và đa phương, trên cơ sở tận dụng những
ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển.
Cuối cùng: Phải đặc biệt coi trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực,
phẩm chất của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và quản
lý doanh nghiệp để họ có đủ sức, đủ bản lĩnh thực hiện tốt các nhiệm vụ theo đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
IV. NGÀNH THƯƠNG MẠI NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
VỚI VIỆC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước Ngành thương mại Lào trong những
năm qua cũng có những sự thay đổi. Năm 2004 đã đễ lại những dấu ấn tốt đẹp trong
hoạt động thương mại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, cụ thể trên
các mặt sau:
* Xuất khẩu hàng hoá: Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt khoảng 26 tỷ
USD, bằng 115,8% kế hoạch mà quốc hội và chính phủ giao; tăng 29% so với năm
2006, đạt mức cao nhất trong những năm gần đây. Có nhiều mặt hàng đạt tốc độ tăng
trưởng cao (từ 36,1% - 76,4%) như dầu thô, than đá, sản phẩm gỗ, dây điện và cáp
điện. Nhìn chung, trong 4 năm 2004 – 2007, cả nước xuất khẩu 77,909 tỷ USD, với
mức tăng trưởng bình quân 15,81%/năm.
Trong nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu của năm 2007, yếu tố tăng giá các mặt
hàng xuất khẩu tăng đóng góp 8%, yếu tố tăng khối lượng hàng hố xuất khẩu đóng
góp 19,3%; yếu tố dầu thô chiếm 9,4% và yếu tố phi dầu thô chiếm 19,6% tăng
trưởng.
17
Cơ cấu hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch dưới sự tác động của thương mại thế
giới: nhóm hàng cơng nghệ nhẹ và tiểu thủ cơng nghiệp có tỷ trọng 40% (năm 2006
là 43%) nhóm hàng nơng, lâm thuỷ sản có tỷ trọng 28% (năm 2006 là 29,4%). Việc
thay đổi tỷ trọng như trên chủ yếu là do kim ngạch nhóm hàng nhiên liệu – khống
sản tăng mạnh, mà cải thiện về giá là một nhân tố quan trọng.
Bên cạnh những mặt hàng truyền thống có kim ngạch xuất khẩu trên tỷ USD
như dầu mỏ, dệt may, giày dép, thuỷ sản; lần đầu tiên, sản phẩm gỗ, hàng điện tử và
linh kiện máy tính đạt kim ngạch 1 tỷ USD. Một số hàng tiếp tục cho thấy mức tăng
trưởng có nhiều hứa hẹn như thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng; dây điện và cáp
điện.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu bước đầu được điều chỉnh theo hướng tích cực.
Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc tăng
khá. Cụ thể, so với năm 2006, xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc tăng 57%, EU
tăng gần 34%, Nhật Bản tăng 20%. Xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tiếp tục tăng
dù nhịp độ tăng trưởng không cao bằng các năm trước nhưng vẫn ở mức 27%.
Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tiếp tục đóng góp lớn vào mức
tăng trưởng xuất khẩu (tỷ trọng xuất khẩu của khối này xấp xỉ 55%, ngang với mức
năm 2006). Chính sách đầu tư và phát huy nội lực của Nhà nước với nhiều điểm đổi
mới đã có tác dụng tích cực, thúc đẩy sản xuất phát triển; tạo nguồn vốn dồi dào cho
xuất khẩu, các biện pháp thú đẩy xuất khẩu và các cơ chế, chính sách khuyến khích
xuất khẩu; chính phủ, Bộ Thương mại cùng các Bộ, ngành địa phương và các doanh
nghiệp đã chủ động, có nhiều biện pháp linh hoạt khắc phục khó khăn, đẩy mạnh
xuất khẩu.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn những hạn chế trong
hoạt đọng xuất khẩu: Cụ thể là: Quy mô xuất khẩu cịn nhỏ bé (tương đương với kim
ngạch xuất khẩu bình quân như Xingapo, Thái Lan, Iđonêxia, Malayxia cách đây
khoảng 10-15 năm); một số mặt hàng giảm sút về tốc độ tăng trưởng như thuỷ sản
chỉ đạt khoảng 92%, giày dép các loại đạt 98%, thủ cong mỹ nghệ đạt 91%, lạc nhân
đạt 44% kế hoạch xuất khẩu đề ra năm 2007; khối doanh nghiệp 100% vốn trong
nước đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước xấp xỉ 45% chưa tương xứng
với tiềm năng hiện có.
* Nhập khẩu hàng hoá: Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt khoảng 31
tỷ USD, tăng 22,9% so với năm 2006, vượt 17% kế hoạch năm 2007. Trong đó,
những mặt hàng có mức vượt kế hoạch cao là linh kiện xe gắn máy (vượt 33,3%),
18
thép thanh phẩm (vượt 32,8%); phôi tháp (vượt 21,5%) chất dẻo nguyên liệu (vượt
26,5%).
Tuy nhịp độ tăng trưởng có giảm so với năm 2006, nhưng kim ngạch nhập
khẩu đảm bảo góp phần cung cấp máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên, nhiên; phụ
liệu để phát triển sản xuất, xuất khẩu và ổn định thị trường trong nước. Xuất khẩu là
một trong thành tựu yếu tố quan trọng bảo đảm tóc độ tăng trưởng của GDP và xuất
khẩu năm 2007 của cả nước.
Cơ cấu hàng nhập khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực; nhóm hàng
máy móc, thiết bị, phụ tùng chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch nhập
khẩu năm 2007, ước đạt 33,3% (năm 2006 là 32,4%); tăng nhập khẩu hàng máy móc,
thiết bị, phụ tùng từ những thị trường có trình độ cơng nghệ cao như EU, Nhật Bản,
Hoa kỳ và Canada.
Nhập siêu đang ở mức kiểm soát được bằng 19,2% tổng kim ngạch xuất khẩu,
chưa thể có ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định cán cân thanh toán quốc gia.
* Đối với thị trường trong nước: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch
vụ xã hội tăng 20,1% chỉ số giá tiêu dùng tăng 9,5% so với năm 2006. Thị trường
tiếp tục phát triển mạnh ở tất cả các vùng trong cả nước. Hàng hố phong phú, dồi
dào, khơng có tình trạng thiếu hụt hàng hoá, nhất là những mặt hàng thiết yếu và
thuộc diện chính sách như xăng dầu, sắt thép, phân bón, muối iốt, dầu hoả…
Mặc dù, tình hình trong nước và thị trường quốc tế có nhiều biến động (dịch
cúm gia cầm ảnh hưởng đến nguồn cung cấp thực phẩm, giá phân bón, sắt thép, xăng
dầu và các chế phẩm dầu thô trên thị trường thế giới tăng cao…), nhưng nhờ sự điều
hành linh hoạt của chính phủ nên thị trường hàng hố trong nước được bình ổn; hầu
hết các mặt hàng thiết yếu đều không để xảy ra tình trạng mất cân đối giữa cung và
cầu, khơng xảy ra các cơn sốt như trước đây.
Các doanh nghiệp đã quan tâm hơn đến việc khai thác tiềm năng của thị
trường nội địa, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng cường
quảng bá, củng cố mạng lưới kinh doanh. Nhờ vậy, đã tạo dựng được một thị trường
hàng hoá phong phú, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong tổng mức bán
ra, doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng từ 35% đến 37%, những mặt hàng quan
trọng thiết yếu giữ vai trò chi phối như xăng, dầu (100%), đường (80%), xi măng
(70%), phân bón (60%), muối (50%)…
Các dịch vụ tài chính, Ngân hàng, Bảo hiểm được mở rộng với sự tham gia
của doanh nghiệp kinh doanh phụ thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
19
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt đọng thương mại trên thị trường
nội địa còn những hạn chế và bất cập. Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, nhất là ở nhóm
hàng lương thực, thực phẩm, tân dược, một số nguyên, nhiên liệu đầu vào cho sản
xuất (nhất là các ngun, nhiên liệu nhập khẩu) cịn có sự chênh lệch lớn về tốc độ
phát triển giữa thị trường của các doanh nghiệp Nhà nước trong hệ thống phân phối
còn yếu và hiệu quả thấp. Nhất là trong phân phối nhiều mặt hàng quan trọng và thiết
yếu như sắt, thép, thuốc chữa bệnh, phân bón… chưa phát huy tác dụng công cụ hỗ
trợ nông dân trong tiêu thụ một số hàng nông sản. Khi thị trường xuất hiện các tình
huống nhiều khó khăn…
* Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh hợp tác ASEAN, APEC, ASEN theo hướng tích cực tham gia các
hoạt đọng của các tổ chức và diễn đàn trên, tích cực tham gia chương trình đàm
phán khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, ASEAN - Ân Độ, tham gia
hợp tác kt tồn diện ASEAN – Nhật Bản, thực hiện “Chương trình thu hoạch sớm
(EHP)” với Trung Quốc.
Trên cơ sở những thành tựu và hạn chế ấy ngành thương mại xác định một số
phương hướng phát triển chủ yếu vào những năm tới như sau:
- Trong lĩnh vực nhập khẩu, phấn đấu giảm nhập siêu, bảo đảm các mặt hàng
thiết yếu cho sản xuất (xăng, dầu, phân bón, sắt thép, thuốc chữa bệnh…) đảm bảo
cân đối cung – cầu các mặt hàng trọng yếu góp phần nâng cao tỷ trọng nhập khẩu
nhóm máy móc, thiết bị, phụ tùng, nhất là tăng tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị
cơng nghệ nguồn điện tử các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Canada: giảm đi tối
đa nhập khẩu máy móc, thiết bị, cơng nghệ cũ đã qua sử dụng.
- Phát triển mạnh thị trường nội địa theo hướng đáp ứng mọi nhu cầu của đời
sống xã hội và đẩy mạnh xuất khẩu, giữ vững cân đối cung cầu các mặt hàng trọng
yếu với giá cả hợp lý, phát triển các loại hình kinh doanh văn minh, hiện đại, tập
trung xây dựng và củng cố các hệ thống phân phối một số mặt hàng trọng yếu như
xăng dầu, sắt thép, phân bón, xi măng, bảo đảm phục vụ tốt các mặt hàng chính sách,
đổi mới chính sách trợ giá, trợ cước vùng đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa,
tăng cường công tác quản lý thị trường để ngăn chặn buôn lậu hàng giả và gian lận
thương mại, kiềm chế những biến động giá cả bất lợi đối với nền kinh tế.
20