Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tài liệu Toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.53 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập
hay không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm
bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập.
Đó cũng là lý do mà Người viết chọn vấn đề “Toàn cầu hóa kinh tế và vấn
đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”. Báo cáo Chính trị Đại
hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày 27/11/2001 của Bộ
Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng
thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo
vệ môi trường sinh thái. Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối
ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu mà Người viết sử dụng là phương
pháp phân tích và tổng hợp. Dựa trên cơ sở đó nhằm đưa ra những luận điểm
chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
Phạm vi nghiên cứu: Người viết chỉ tập trung vào vấn đề đã được trình
bày ở phần trên, chứ không diễn giải hay đưa ra một sự so sánh nào. Kết hợp
với sự hiểu biết nông cạn của bản thân cùng với những kiến thức bổ ích đã
được giảng dạy. Người viết hy vọng rằng, với vấn đề nghiên cứu của mình sẽ
góp phần nhỏ nào đó, làm sáng tỏ thêm luận điểm của C.Mac và Ph.Ăngghen
đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nhân loại.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách
quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc
tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao
động quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong bối cảnh
hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi
cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính
sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và


dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại.
Trang 1
CHƯƠNG I: TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ VÀ VẤN ĐỀ CHỦ ĐỘNG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Toàn cầu hóa là gì?
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội
và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng
tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế,
v.v. trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu
như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa
thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta
chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy
thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
1. Toàn cầu hóa kinh tế
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, toàn cầu hoá nói chung
bắt nguồn từ những giao lưu văn hóa, buôn bán, di dân; từ sự mở rộng các tôn
giáo ra ngoài biên giới các quốc gia, và cho đến nay là sự phát triển của các
công ty xuyên quốc gia, các ngân hàng, các tổ chức quốc tế, sự trao đổi công
nghệ, sự phát triển gắn với hiện đại hoá… Toàn cầu hoá kinh tế là kết quả của
sự quốc tế hoá sản xuất cao độ và phân công quốc tế, nó xuất hiện và phát
triển cùng với thị trường thế giới.
Trong xã hội phong kiến, lực lượng sản xuất phát triển thấp, giao thông
kém phát triển, quy mô sản xuất và trao đổi nhỏ bé, thị trường khép kín,
không có thị trường mang ý nghĩa hiện đại.
Khi nền sản xuất tư bản phát triển, thị trường thế giới mở rộng, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã viết: “Thay cho những nhu cầu cũ được thoả mãn bằng
những sản phẩm trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được
thoả mãn bằng những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về.
Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự
cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến

giữa các dân tộc”[1].
Luận điểm này của C.Mác và Ph.Ăngghen cho thấy, sự quốc tế hoá,
toàn cầu hoá đời sống kinh tế đã được bắt đầu từ khi chủ nghĩa tư bản mở
rộng thị trường thế giới, khi phát hiện ra châu Mỹ cách đây hơn 500 năm. Sự
phát triển của quốc tế hoá đời sống kinh tế lúc đầu còn theo ngành dọc, theo
hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc thực dân, trên cơ sở sự phân công
quốc tế và xuất khẩu tư bản xuất phát từ các chính quốc đến các nước thuộc
địa, thông qua bạo lực và bóc lột kinh tế. Khi chủ nghĩa đế quốc xuất hiện,
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các thế lực đế quốc trong phân chia
thuộc địa và thị trường thế giới, sự quốc tế hoá đời sống kinh tế đã mở rộng
cả theo chiều ngang. Rồi các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ
hai nổ ra, quan hệ chính trị và kinh tế thế giới đảo lộn, khủng hoảng và biến
động, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế bị đẩy lùi.
Trang 2
Sự xuất hiện nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới vào năm
1917 và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai tạo nên một kiểu quan hệ mới giữa các quốc gia dân tộc. Kiểu
quan hệ mới này bước đầu mở ra kiểu quốc tế hoá đời sống kinh tế mới, dựa
trên tính ưu việt của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhằm khắc phục sự
bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế của chủ nghĩa tư bản, đặt nền móng cho
sự quốc tế hoá chân chính. Song, do những thăng trầm của lịch sử, trong
những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan
rã, kiểu quan hệ kinh tế quốc tế này đã kết thúc.
Tuy nhiên, lực lượng sản xuất vẫn ngày càng phát triển. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức hình
thành, đời sống kinh tế quốc tế hoá, toàn cầu hoá; các trung tâm tư bản chủ
nghĩa phát triển và trở thành lực lượng chi phối thế giới. Có thể nói, từ sau
chiến tranh lạnh, toàn cầu hoá kinh tế dường như chủ yếu gắn liền với chủ
nghĩa tư bản.
Mặc dù vậy, trên thực tế hiện nay vẫn tồn tại một số nước xã hội chủ

nghĩa và những nước này đang phát triển. Do vậy, nghiên cứu toàn cầu hoá
kinh tế không thể bác bỏ một thực tiễn lịch sử là toàn cầu hoá kinh tế đang
diễn ra trong bối cảnh hình thành cục diện kinh tế đa cực, hình thành một trật
tự kinh tế, chính trị quốc tế mới, trong đó có hình thức phát triển, hợp tác,
cạnh tranh và cùng nhau phồn vinh của các quốc gia dân tộc. Và khái niệm
toàn cầu hoá hiện đại muốn bàn ở đây là nói đến xu thế khách quan đang diễn
ra trong thời đại hiện nay.
Tất nhiên, lịch sử có cái lôgích phát triển của nó. Theo quy luật, chủ
nghĩa tư bản sẽ được thay thế bởi hình thái kinh tế xã hội vượt nó. Song, sự
thay thế đó như thế nào, khoa học và thực tiễn sẽ chỉ ra. Thời điểm hiện nay
đặt ra và cho phép chúng ta tính đến khía cạnh toàn cầu hoá kinh tế hiện đại
và tác động của nó đến các mặt chính trị, xã hội, văn hóa toàn cầu, để từ vị trí
một nước đang phát triển, tính đến sự chủ động hội nhập, thúc đẩy hợp tác,
phát triển và cạnh tranh, tạo nên sự phồn vinh của chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong thế cùng tồn tại trong hoà bình, phồn vinh và phát triển của thế giới
đương đại.
2. Những thuộc tính cơ bản của quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện
đại.
Lịch sử của quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế rất lâu dài, và
phải thấy rằng, cơ cấu của toàn cầu hoá bắt đầu từ sự hình thành nhà nước,
quốc gia dân tộc và tư nhân hoá - những cỗ xe đi đến hiện đại. Kết quả tất yếu
là sự mở rộng thị trường thế giới. Mở rộng thị trường thế giới gắn với việc
phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản và cả quan hệ sản xuất của
chủ nghĩa tư bản. Sự hiện đại hoá lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của
chủ nghĩa tư bản dẫn tới toàn cầu hoá. Nó đi trước và quyết định quá trình
toàn cầu hoá. Song, cho đến nay, toàn cầu hoá lại là một trong những điều
Trang 3
kiện để hiện đại hoá thế giới, bất chấp ý muốn của ai. Sự phát triển của
phương Tây thúc đẩy hiện đại hoá, toàn cầu hoá. Bởi vậy, việc hiện đại hoá
của thế giới, trong đó có các nước đang phát triển ở phương Đông không thể

bỏ qua một thực tế là phải hiện đại hoá theo những kinh nghiệm của phương
Tây trên nền văn hóa của phương Đông. Tiếp thu văn hóa, văn minh phương
Tây, Việt Nam có cách tiếp cận và phương pháp luận của chúng ta.
Vậy những gì là cốt lõi của quá trình toàn cầu hoá hiện đại? Có thể nêu
mấy điểm sau đây:
2.1. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng.
Các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó và tuỳ thuộc vào nhau, dần dần
hình thành một thể thống nhất, xoá dần đi những ngăn trở và khoảng cách về
nhiều phương diện.
- Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế
đã đạt tới trình độ rất cao, không chỉ giới hạn ở chuyên môn hoá sản phẩm mà
đã là chuyên môn hóa các chi tiết sản phẩm. Với phương châm kinh doanh lấy
thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, các
nước có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của
nước khác, từ đó thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Thí
dụ, một loại xe của hãng Toyota sản xuất tại Mỹ có 25% linh kiện được sản
xuất ở ngoài nước Mỹ. Một loại xe ô tô của công ty Ford có 27% linh kiện do
nước khác sản xuất.
- Các công ty xuyên quốc gia phát triển chưa từng có trong lịch sử và
đóng vai trò hết sức quan trọng, nó thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá và khu vực
hóa. Theo thống kê của Liên hợp quốc, năm 1996, thế giới có 44.000 công ty
xuyên quốc gia, trong đó 28.000 công ty con có tổng giá trị sản xuất chiếm
40% GDP thế giới, chiếm 50% giá trị thương mại của thế giới. Tổng kim
ngạch tài sản năm 1996 của các công ty xuyên quốc gia này lên tới 3.200 tỷ
USD. Hàng năm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của chúng chiếm 90% đầu tư
trực tiếp của thế giới[2].
Năm 1998, các vụ sáp nhập đã lên đến 2.500 tỷ USD.
Năm 1999, riêng 10 vụ sáp nhập các công ty lớn trên thế giới đã lên tới
1.500 tỷ USD. Vụ sáp nhập 3 ngân hàng lớn ở Nhật Bản vào tháng 8/1999 với
1.200 tỷ USD, đã bằng tổng giá trị 7.700 vụ sáp nhập năm 1998.

Năm 2000, các cuộc cạnh tranh và sáp nhập các tập đoàn lớn lại diễn ra
gay gắt, quyết liệt với quy mô lớn chưa từng thấy[3].
- Trong quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên
kết kinh tế, dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính
quốc tế và khu vực. Đó là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực
Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Liên minh các nước Đông Nam á
Trang 4
(ASEAN), Thị trường tự do Nam Mỹ Mercosur, Khối cộng đồng kinh tế Tây
Phi, và hàng chục tổ chức kinh tế khác ở khắp các châu lục.
Thông qua các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế này, quy
mô lưu thông vốn quốc tế lớn chưa từng thấy, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế
giới vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế; các lĩnh vực hợp tác trong toàn cầu
hoá kinh tế không ngừng phát triển.
- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại tác động mạnh mẽ đến lĩnh
vực chính trị, dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế mà lớn nhất
là Liên hợp quốc. Liên hợp quốc cùng với các tổ chức của nó như Chương
trình phát triển LHQ (UNDP), Quỹ LHQ về các hoạt động dân số (UNFPA),
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của LHQ (UNESCO), Quỹ Nhi đồng
LHQ (UNICEF), Hội nghị liên hợp quốc tế về phát triển (UNCTAD), Tổ
chức lương thực và nông nghiệp của LHQ (FAO)… đang tác động mạnh đến
tất cả các khu vực, các nước trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự phát triển của
các tổ chức này, luật pháp quốc tế cũng hình thành. Thí dụ: Công ước quốc tế
về luật biển (1982), Công ước quốc tế về quyền trẻ em… Do vậy, có thể nói
rằng, toàn cầu hoá kinh tế hiện đại thúc đẩy sự thẩm thấu lẫn nhau chẳng
những của các nền kinh tế mà còn lan toả ra tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội và tất cả các quốc gia trên thế giới.
2.2 Nền kinh tế mới trong toàn cầu hoá là nền kinh tế công nghệ cao –
nền kinh tế tri thức.
Cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều phát minh khoa học, một cuộc cách mạng

thực sự đã diễn ra trong vật lý học: phát hiện ra tia Rơn-ghen (1895), hiện
tượng phóng xạ (1896), điện tử (1897), radium (1898) , rồi đến những phát
minh mới trong thế giới vi mô (nguyên tử) và vĩ mô (vũ trụ). Khoa học đã thu
thập được một khối lượng khổng lồ những tri thức về thế giới tự nhiên, tổng
hợp lại ở các thuyết cơ bản như thuyết Lượng tử và thuyết Tương đối…, tạo
nền móng cho khoa học hiện nay. Theo tính toán của nhiều nhà khoa học,
toàn bộ lượng thông tin, tri thức trong thế kỷ XX tăng gấp 1.000 lần so với
hồi đầu thế kỷ, và vượt trội so với tổng tri thức mà loài người tích luỹ được
trong suốt 19 thế kỷ đã qua.
Khoa học hiện đại ngày càng phát triển, tiến vào lĩnh vực vi mô và vĩ
mô, đòi hỏi sự phát triển trí tuệ ngày càng cao.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đầu thế kỷ XX là cái nguồn tất
yếu của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, mở đầu từ sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Nền kinh tế toàn thế giới bắt đầu cơ cấu lại, trang bị lại và đòi hỏi phải
cơ cấu lại, trang bị lại. Bên cạnh những ngành kinh tế gắn với nền đại công
nghiệp, như các ngành luyện kim, điện lực, sản xuất ô tô, xi măng, sắt thép…
còn có các ngành kinh tế mới phát triển cực nhanh (điện tử – bán dẫn, máy
tính, viễn thông…), trong đó các dịch vụ liên quan đến thông tin (ngân hàng,
Trang 5
tư vấn, thiết kế, bảo hiểm…) phát triển mạnh, thậm chí ở một số nước, lĩnh
vực này chiếm tới trên 70% thu nhập của nền kinh tế quốc dân.
Các ngành công nghệ cao được hình thành và trở thành những mũi
nhọn kinh tế của các quốc gia. Trước hết, phải kể đến công nghệ thông tin vì
công nghệ thông tin đang là cốt lõi của cuộc Cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại. Nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm
lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Trong cuộc Cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, máy móc có thể thay thế một phần trí tuệ con
người, làm cho tốc độ tư duy và năng lực tư duy phức tạp mở rộng. Công
nghệ thông tin bao gồm cả phần cứng, như chế tạo các mạch vi điện tử, máy

vi tính, mạng máy tính… và các phần mềm hệ thống, phần mềm ứng dụng.
Ngoài ra, phải kể đến các loại thiết bị viễn thông, điện tử công nghiệp, điện tử
tiêu dùng, điện tử y tế, điện tử quốc phòng… Đó đều là những bộ phận quan
trọng của công nghệ thông tin. Nền kinh tế mới sẽ được trang bị lại chủ yếu
nhờ áp dụng công nghệ thông tin, tạo ra các bộ não – thần kinh để tích hợp
ngày càng rộng trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, công nghệ thông tin là yếu
tố khoa học, là công nghệ cốt lõi tạo ra điều kiện kỹ thuật của toàn cầu hoá
nhờ hệ thống thông tin toàn cầu, bao gồm hệ Internet.
Thứ hai, công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm
của sự sống.
Khoa học hiện đại đã khám phá ra gen dưới dạng các phân tử hình xoắn
kép (ADN), hiểu rõ được mật mã của sự sống…, đã tạo ra một tiềm năng vô
tận cho việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như
lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp để thoả
mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Sự phát triển của công nghệ sinh
học, việc tạo ra những sinh vật và nhân giống chúng một cách tối ưu đã mở ra
những triển vọng vô cùng to lớn trong việc tăng năng suất lao động, giải đáp
những vấn đề nhu cầu cuộc sống mà loài người trước đây chưa từng biết đến.
Thứ ba, nhiều công nghệ mới quan trọng khác như công nghệ vật liệu
mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ… ra đời, mở
ra những tiềm năng mới, triển vọng mới. Ngày nay, việc sử dụng nguồn điện
nguyên tử, thuỷ điện và điện mặt trời ngày càng nhiều trong đời sống xã hội.
Các vật liệu mới như chất dẻo đặc biệt, vật liệu tổng hợp, sợi quang học…
thay thế ngày càng nhiều những nguyên liệu truyền thống.
Thứ tư, tự động hoá trong sản xuất. Tự động hoá trong sản xuất giải
phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều
sản phẩm cho xã hội, mở ra triển vọng mới trong sự phát triển.
Nhờ có công nghệ cao và sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế thế
giới, sự tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ làm đảo lộn những dự đoán thông
thường của con người.

Trang 6
2.3. Nền kinh tế toàn cầu hiện nay chủ yếu là nền kinh tế của tư bản toàn
cầu, do ba trung tâm kinh tế lớn trên thế giới và các công ty xuyên quốc gia
chi phối.
Chúng ta không lấy làm lạ khi đọc luận điểm sau đây của nhà kinh tế
hàng đầu của Đức, ngài Hécbơ Giécsơ, viện trưởng lâu năm của Viện Kinh tế
thế giới Côlônhơ, rằng toàn cầu hoá chỉ là một khái niệm mới của một quá
trình đang tiếp diễn từ lâu: sự mở rộng về không gian của phương thức kinh tế
tư bản cho đến tận cùng thế giới.
Điều này có thể được minh chứng qua các lý do sau đây:
Đứng về mặt gia tăng các luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư,
vốn, công nghệ, dịch vụ, nhân công, v.v., thì hiện nay các trung tâm tư bản
lớn như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn đóng vai trò chủ chốt.
Xét về mặt hình thành và phát triển các thị trường trên phạm vi toàn
cầu và các khu vực, đồng thời với việc hình thành và tăng cường các định chế
(luật chơi) và cơ chế tổ chức để điều chỉnh và quản lý các hoạt động giao dịch
quốc tế hiện nay, thì vai trò của các nước như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, EU
và Nhật Bản vẫn là chủ chốt. Sự quản lý các quá trình này, chi phối quá trình
này chủ yếu vẫn là các nước tư bản chủ nghĩa và các tổ chức, các công ty
xuyên quốc gia do các nước ấy khống chế, chi phối.
Graham Thompson, trong bài Xác định vị trí toàn cầu hoá, đã có lý khi
phân biệt toàn cầu hoá kinh tế hiện đại với quốc tế hoá ở chỗ coi nó là một
nền kinh tế “ở bên trên”, độc lập với các nền kinh tế và các tác nhân quốc gia;
nó chi phối, áp đặt một hình thức và một tính chất đặc biệt cho chúng. Và ở
đây là hình ảnh của một thứ chủ nghĩa tư bản không bị trói buộc, đang đi tìm
kiếm lợi thế cạnh tranh trên khắp địa cầu. Trong vấn đề quản lý hệ thống kinh
tế toàn cầu, Graham Thompson cũng có lý khi chỉ ra thực chất của nó, rằng
quản lý quá trình toàn cầu hoá kinh tế chính là những hình thức tổ chức đa
phương như GATT, và bây giờ là WTO, WB, IMF…, trong đó Mỹ, EU, Nhật
Bản đóng vai trò trung tâm, quan trọng đến mức “một hình thức quản lý như

thế sẽ cho thấy khả năng tương hợp cơ bản giữa chủ nghĩa ba phương với chủ
nghĩa đa phương”.
II. Sự hội nhập của các nước đang phát triển – Thời cơ và thách
thức
A. Hệ quả tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá
Như trên đã phân tích, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan,
có tác động tương hỗ đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, cả về chính trị,
văn hóa và xã hội… Do đó, có thể nêu lên những hệ quả tích cực và tiêu cực
của toàn cầu hoá như sau:
1. Hệ quả tích cực
1.1. Toàn cầu hoá thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản
xuất, đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao.
Trang 7
- Toàn cầu hoá làm tăng nhanh tổng sản phẩm của thế giới, với giá trị
hiện nay ước tính khoảng 30.000 tỷ USD, gấp 23 lần giá trị tổng sản phẩm thế
giới vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX (1.300 tỷ USD).
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu có những thay đổi cơ bản.
Nếu năm 1960, nông, lâm, thuỷ sản chiếm 10,4%; cây công nghiệp chiếm
28,1% và dịch vụ chiếm 50,4% thì đến năm 1990, cơ cấu GDP của thế giới
tương ứng đã là 4,4%; 21,4% và 62,4%.
- Sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống ngày càng tăng, với
tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng sản xuất.
- Hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh chóng, kết nối các vùng
địa lý trên trái đất vào một hệ thống, góp phần tác động có hiệu quả vào các
quá trình kinh tế – chính trị – xã hội – quân sự – văn hóa toàn cầu…
1.2. Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại.
- Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại sẽ làm giảm
hoặc huỷ bỏ các hàng rào ngăn cách, làm cho hàng hoá của mỗi nước có thị
trường tiêu thụ rộng hơn, do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó sẽ thúc
đẩy phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hoá, làm cho các

nguồn lực ở mỗi nước được sử dụng hợp lý và có hiệu quả hơn.
- Tự do hoá thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành
những cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát
huy lợi thế của mình và hạn chế những rủi ro, thách thức trong cuộc cạnh
tranh quốc tế khốc liệt.
- Tuy vậy, tự do hoá thương mại không đưa lại những kết quả như nhau
đối với các nước. Nhìn chung, các nước phát triển có lợi thế là nền kinh tế của
họ đã phát triển cao, khả năng cạnh tranh lớn, nắm giữ các công nghệ cao, tư
bản, đội ngũ lao động có trình độ cao và công nhân lành nghề đông. Do đó,
hàng hoá của họ có chất lượng cao, hoạt động thương mại nhạy bén, năng
động hơn và có sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường lớn hơn. Các nước đang
phát triển ở vào vị trí khó khăn hơn, vì nền kinh tế kém phát triển, khả năng
cạnh tranh yếu, trình độ công nghệ thấp, thiếu vốn, đội ngũ lao động có trình
độ và công nhân lành nghề nhỏ bé. Song, các nước này nếu biết lợi dụng
những ưu thế của mình, biết phát huy nội lực, tranh thủ kỹ thuật cao, đi tắt
đón đầu thì vẫn đạt được những tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Các nước
NICS và những con rồng châu á là những thí dụ. Có thời kỳ dài, các nước này
đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế 6 – 7%/năm, chủ yếu do tận dụng được
tự do hoá thương mại và thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu.
1.3. Toàn cầu hoá làm gia tăng các luồng chuyển giao vốn và công nghệ.
- Toàn cầu hoá làm gia tăng các hoạt động đầu tư quốc tế, chủ yếu là
FDI, với những đặc điểm chính là nguồn vốn đầu tư ngày càng tăng; chủ thể
đầu tư và chủ thể thu hút đầu tư ngày càng đa dạng; lượng lưu động vốn cho
Trang 8
vay tăng rất nhanh; tự do hoá đầu tư trở thành mục tiêu, chính sách đầu tư
quốc tế của tất cả các nước.
- Toàn cầu hoá thực hiện chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn
những thành tựu của khoa học công nghệ, tổ chức, quản lý, kinh nghiệm kinh
doanh, sản xuất cho các nước được đầu tư phát triển.
1.4. Toàn cầu hoá củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, thúc đẩy

sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc.
Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá, các thể chế quốc tế
ngày càng được tăng cường để đảm bảo điều tiết và quản lý các quan hệ quốc
tế. Tính đến nay, đã có khoảng 120 thể chế khu vực và toàn cầu. Hàng trăm tổ
chức quốc tế các loại, bao gồm các tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ…
đang hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những sản
phẩm của toàn cầu hoá, đồng thời chúng có tác động làm cho quá trình toàn
cầu hoá được tăng cường.
Chính nhờ toàn cầu hoá liên kết các nước lại với nhau, làm tăng sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nước về nhiều mặt, nên lợi ích của mỗi quốc gia gắn
với lợi ích của nhiều quốc gia. Hơn nữa, các thể chế quốc tế cũng ràng buộc
lợi ích và nghĩa vụ của các quốc gia. Tất cả những điều nói trên giúp hạn chế
những hành vi dễ gây xung đột giữa các nước, góp phần duy trì hoà bình và
an ninh quốc tế.
Qua quá trình giao lưu quốc tế, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc
thuộc các châu lục, giữa con người với con người càng được tăng cường;
thông tin cập nhật khắp vùng, góp phần tác động đến mọi sự kiện trên thế
giới.
2. Hệ quả tiêu cực
2.1. Toàn cầu hoá mở rộng thêm khoảng cách giàu – nghèo trong từng
nước và giữa các nước.
- Các mối lợi từ toàn cầu hoá kinh tế được phân phối không đồng đều
và không công bằng. Các quốc gia phát triển thường thu lợi nhiều hơn trong
kinh tế, thương mại…
- Tất cả những thành tựu của toàn cầu hoá kinh tế trong mấy thập kỷ
qua không những không thu hẹp mà còn làm doãng ra khoảng cách về mức
sống và trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ giữa các nước đang
phát triển và các nước phát triển, làm trầm trọng thêm sự bất công trong xã
hội; đào sâu hố ngăn cách giàu – nghèo trong từng nước. Về nhiều mặt, dân
chúng ở 85 nước đang phát triển hiện có mức sống thấp hơn so với cách đây

10 năm.
Hiện nay, trên toàn thế giới vẫn còn hơn 1 tỷ người nghèo. Chênh lệch
giữa thu nhập của 20% dân số thuộc tầng lớp người giàu nhất và của 20% dân
số thuộc tầng lớp nghèo nhất trên thế giới trong năm 1960 là 30 lần, đến năm
1990 lên tới 60 lần và năm 1997 là 74 lần. Các nước phát triển với 1/5 dân số
Trang 9
thế giới chiếm tới 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 vốn đầu
tư nước ngoài; trong khi đó, các nước nghèo nhất với 1/5 dân số thế giới chỉ
tạo ra được 1% GDP thế giới.
2.2. Toàn cầu hoá tạo nên sự thách thức mới đối với nền độc lập, chủ
quyền quốc gia, làm xói mòn quyền lực của nhà nước dân tộc.
- Toàn cầu hoá làm thay đổi khái niệm độc lập và chủ quyền quốc gia,
đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá làm suy yếu chức năng kinh tế
của nhà nước dân tộc.
- Chủ quyền quốc gia bị hạn chế một cách tương đối, tính độc lập của
các quốc gia bị giảm dần; nhiều quyền lực của nhà nước bị xói mòn, các
chính phủ không còn quyền độc lập tuyệt đối trong việc hoạch định chính
sách, vì có nhiều vấn đề vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước (các luồng di
chuyển vốn, các luồng thông tin, các tập đoàn xuyên quốc gia, môi trường
sinh thái…)
2.3. Toàn cầu hoá làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống của con
người trở nên kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính đến an toàn văn hóa,
xã hội, môi trường.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông á (1997 – 1998) đã ảnh hưởng
nghiêm trọng, kéo dài và toàn diện đến các nước này. Tính không an toàn
trong đời sống kinh tế gia tăng: sự đổ vỡ nhiều ngành sản xuất và phá sản
hàng loạt xí nghiệp; lạm phát và thất nghiệp gia tăng; nền sản xuất phải cơ
cấu lại, những thể chế bảo hộ xã hội bị phá bỏ; tệ nạn xã hội gia tăng. Đặc
biệt là khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, các tệ nạn ma tuý, mại dâm và
HIV lan tràn.

Toàn cầu hoá làm gia tăng giao lưu quốc tế trong đời sống văn hóa tinh
thần, nhiều tinh hoa văn hóa của các dân tộc được truyền bá, sự thâm nhập lẫn
nhau của các nền văn minh thúc đẩy tiến bộ xã hội. Song, do lợi thế của các
nước có nền kinh tế mạnh nên ảnh hưởng của các nước này đối với các nước
đang phát triển rất lớn. Vì vậy, nhiều giá trị riêng của các dân tộc, đặc biệt là
của các nước đang phát triển bị xói mòn; nhiều truyền thống dân tộc bị huỷ
hoại, các quan hệ gia đình bị phá vỡ… Khuynh hướng đồng nhất ở một góc
độ nào đó, cả về văn hóa, đã và đang diễn ra ngày một rõ hơn… Bởi vậy, vấn
đề đặt ra là hội nhập nhưng không để bị hoà tan, không đánh mất bản sắc văn
hóa dân tộc. Tuy nhiên, nếu đề cao văn hóa dân tộc một cách thái quá sẽ có
nguy cơ đi đến bài ngoại, đóng cửa và sẽ bị tụt hậu.
Rõ ràng, toàn cầu hoá không chỉ có tác động thuận lợi mà còn có tác
động tiêu cực đối với các nước đang phát triển. Do đó, các nước đang phát
triển phải có chiến lược hội nhập phù hợp với thực tiễn nước mình, để tranh
thủ được mặt thuận lợi, và khắc phục, hạn chế được các mặt tiêu cực.
B. Các nước đang phát triển và những vấn đề đặt ra cho các nước đó
trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập.
Trang 10
Do không đồng nhất về trình độ phát triển, do những điều kiện đặc thù
về chính trị, kinh tế, xã hội, về mục tiêu định hướng và chiến lược phát triển,
cho nên các nước đang phát triển khác nhau cũng có những nhận thức và áp
dụng các phương thức hội nhập khác nhau. Tuy nhiên, qua thực tiễn cho đến
nay, các nước đang phát triển cũng đang từng bước rút ra được nhiều kết luận
từ những bài học thành công và thất bại của mình.
Có thể nêu lên một số điểm sau đây:
1. Về nhận thức:
Toàn cầu hoá và hội nhập là một xu thế khách quan, trọng tâm của nó
là mở cửa kinh tế, tạo điều kiện mở rộng không gian để phát triển và tìm kiếm
vị trí thích hợp cho mình trong khung cảnh chung của toàn cầu hoá, thực hiện
việc kết hợp nội lực với sức mạnh quốc tế.

Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên trường quốc tế và trên
thị trường nội địa. Điều quan trọng nhất là phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế
trong nước và phải cải cách bộ máy nhà nước, điều chỉnh cơ chế chính sách,
luật lệ, tập quán kinh doanh cho phù hợp với thể chế (luật chơi) của quốc tế,
phải gắn chặt với chiến lược phát triển của đất nước mình. Phải giải phóng
khỏi tư tưởng cho rằng hội nhập là bị ép buộc, áp đặt. Cần phải nhận thức cải
cách, đổi mới, chủ động hội nhập chính là vì sự nghiệp phát triển của bản thân
nước mình. Từ bỏ hội nhập, hoặc thực hiện chiến lược hội nhập sai lầm sẽ
làm cho đất nước bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, hoặc tụt hậu ngày càng
xa hơn, và ngày càng bần cùng. Hậu quả đó không phải do các nước này tham
gia hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá, mà điều căn bản là do các nước ấy
không cải biến được, không chuyển đổi được cơ cấu kinh tế tiền tư bản lạc
hậu của mình và thiếu hẳn những cải cách trong bộ máy nhà nước, để đất
nước chìm đắm trong tệ nạn tham nhũng của bộ máy quyền lực đặc quyền đặc
lợi. Kết quả là tài nguyên của đất nước và viện trợ của nước ngoài bị sử dụng
lãng phí, đất nước rơi vào nợ nần, dẫn tới khủng hoảng kinh tế – chính trị và
bị nước ngoài chi phối.
2. Về thực tiễn:
2.1. Các nước đang phát triển bước vào quá trình hội nhập phải thực
hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm thích ứng và đứng vững được trong
cạnh tranh toàn cầu. Nếu không chuyển đổi được cơ cấu kinh tế có khả năng
thích ứng trong cạnh tranh, linh hoạt điều chỉnh cho phù hợp với những đổi
mới trong công nghệ và những biến động trên thị trường thế giới thì không
khai thác được lợi thế so sánh và phải hứng chịu những tác động tiêu cực của
quá trình hội nhập. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhiều nước đã biết lựa
chọn những ngành có thế mạnh để mở cửa, tham gia cạnh tranh; biết dùng
những biện pháp bảo vệ hợp pháp và hạn chế tạm thời đối với những ngành
chưa có khả năng cạnh tranh; biết chuẩn bị cho tương lai bằng cách lựa chọn
những ngành có lợi thế cần tập trung phát triển. Sự tính toán thận trọng và

Trang 11
nhìn xa trông rộng bảo đảm cho sự chủ động hội nhập: mở cửa lĩnh vực nào,
vào thời điểm nào, với mức độ và quy mô nào thì có lợi nhất cho nền kinh tế
của đất nước.
2.2. Phải thực hiện cải cách hành chính sâu rộng.
Trước hết, nhà nước phải cải cách hệ thống kinh tế vĩ mô và có những
chính sách thích hợp để tận dụng những ưu đãi mà thể chế hội nhập quy định.
Sự cải cách này nhằm bảo đảm sự hài hoà giữa quyền lợi và nghĩa vụ của
nước mình trong thể chế hội nhập, giữa mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước
với những yêu cầu và đòi hỏi của bên ngoài; giữa các vấn đề kinh tế và
thương mại với các lĩnh vực khác; đồng thời, phải cải cách luật pháp, quy chế,
quy định cho phù hợp và bảo đảm để các chính sách đó được thực hiện.
Hai là, phải cải cách và hoàn thiện cơ chế quản lý điều hành quá trình hội
nhập để giữ ổn định chính trị trong sự phát triển, kịp thời điều chỉnh và giải
quyết những vấn đề phát sinh, những biến động bất thường gây mất ổn định
kinh tế – xã hội.
2.3. Phải xây dựng, đào tạo được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của
công cuộc hội nhập.
Đây là đòi hỏi cấp bách, vì các lĩnh vực hội nhập rất phong phú, nảy
sinh nhiều vấn đề mới và phức tạp, từ kinh tế thương mại, dịch vụ, đầu tư đến
khoa học công nghệ, môi trường, sở hữu trí tuệ… Do đó, phải hiểu được
những khác biệt về cơ chế chính sách, luật lệ và thực tiễn kinh doanh giữa các
nước phát triển và các nước đang phát triển.
Những điều đó đòi hỏi chúng ta phải nâng cao trình độ cán bộ, tranh
thủ sự giúp đỡ của các nước phát triển, của các tổ chức quốc tế để đào tạo, bồi
dưỡng cho được một đội ngũ cán bộ phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế
tri thức, xây dựng nền kinh tế mới; một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi, quản
lý giỏi, vừa có năng lực tổ chức thực tiễn, nhạy bén với cái mới, đáp ứng sự
phát triển của đất nước trước những biến động của thế giới.
III. Vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

1. Vấn đề chung:
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập
hay không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm
bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình hội nhập.
Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày
27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan
điểm: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Trang 12
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của
Đảng và Nhà nước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong
điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở
cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu
quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường
để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội
nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới,
tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Việc nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá là một trong những
nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả, thực hiện
thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2005 - 2010.
Trong thời gian qua, nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những kết quả
quan trọng như: tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ
trọng nông nghiệp. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng
tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu

vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của
nhiều ngành tăng lên. Tuy nhiên, hiệu quả sức cạnh tranh kinh tế nước ta vẫn
còn một số tồn tại:
- Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp thứ 48/53
nước được xem xét năm 1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ;
65/80 năm 2002 nước tham gia xếp hạng. Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm
2003, năm 2005 giảm tiếp 4 bậc so với năm 2004 trong các nước xếp hạng
(theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF).
- Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự
chuẩn bị để ứng phó hiệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng
sâu rộng.
- Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng
lưới tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt
Nam cũng thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp phải sự cạnh
tranh của các nước trong khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát triển các mặt
hàng mới đang gặp khó khăn về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và thị trường
tiêu thụ.
- Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với mức tăng đầu tư,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh
cạnh tranh của ngành, sản phẩm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song
tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP, hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản
xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch rất
chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong khu vực
nông nghiệp, nông thôn.
Trang 13
- Mặc dù việc phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều
tiến bộ, vốn trong nước chiếm trên 70%, nhưng lại xảy ra tình trạng giảm sút
của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mấy năm qua: năm 2002
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút mới chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm

2001.
- Hoạt động tài chính - tiền tệ tuy có tiến bộ nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro,
lãi suất tiền đồng quá cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh
lời của nền kinh tế, làm tăng chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh, giảm
khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vốn huy động của hệ thống ngân hàng
chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng một tỷ lệ khá để cho vay trung
và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất lợi về lợi nhuận và làm
giảm khả năng đề phòng rủi ro.
Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến lược
tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia dẫn đến sự lúng túng trong xây
dựng chiến lược của từng bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Một số
chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đưa vào cuộc sống
chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình đẳng, chính sách còn thiếu đồng
bộ, nhất quán, khó thực hiện.
2 Chính sách chủ động hội nhập của Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 16 năm qua đã tạo thế và lực
mới cho nước ta trong quá trình hội nhập, bảo đảm điều kiện để nước ta đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song, trên thực tế phải thấy
rằng nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, sức cạnh tranh còn rất thấp; lực
lượng lao động tuy dồi dào, song trình độ kỹ thuật và kỹ năng còn thấp; hệ
thống pháp luật còn nhiều bất cập; hệ thống tài chính, ngân hàng còn yếu kém
nên khả năng đương đầu với xu hướng tự do hoá kinh tế, tài chính toàn cầu rất
khó khăn; chưa đuổi kịp sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thông tin –
viễn thông toàn cầu.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc
gia mà cốt lõi của nó là hệ thống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và
thực hiện chính sách cạnh tranh cần theo hướng: giảm dần tiến tới xoá bỏ
phân biệt đối xử trong kinh doanh, chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các

hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, hạn chế kiểm soát độc
quyền. Theo hướng này, cần nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền trong kinh doanh. Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp
khác như:
Quá trình toàn cầu hoá, phát triển sự hợp tác đa phương và song
phương với các nước tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta mở rộng thị trường
xuất khẩu hàng hoá sang các nước. Tất nhiên, vấn đề này còn gắn với cuộc
cạnh tranh, vừa hợp tác vừa đấu tranh rất phức tạp. Chúng ta cần tranh thủ các
Trang 14
nguồn vốn đầu tư, nhập khẩu kỹ thuật cao, tranh thủ kinh nghiệm quản lý của
thế giới, mở rộng thị trường để nhanh chóng đi tắt, đón đầu, xây dựng nền
kinh tế mới phù hợp với sự phát triển chung và thực tiễn nền kinh tế Việt
Nam.
- Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước, nhất
là đầu tư nước ngoài theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất
thuộc thẩm quyền của Nhà nước, đặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền
(điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường); giải quyết kịp thời
những khó khăn ách tắc trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ
tầng, đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn trọng và đảm bảo
quyền lợi của nhà đầu tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp
dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài với các quy định
về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng.
- Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của
quá trình hội nhập mở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống
nhất cho các thành phần kinh tế; thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế
theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết (AFTA,
Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai thời gian và
mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế chủ động trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và
quốc tế.

- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối
tác lớn như: EU, Mỹ, Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ
nguồn, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều chỉnh cơ cấu
đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế; khắc phục căn bản tình trạng bố trí đầu tư dàn trải
phân tán, dứt khoát không đầu tư vào những công trình dự án kém hiệu quả
đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư như BOT, BT, phát hành trái
phiếu công trình… Tập trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghiệp nhà nước,
lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng, đẩy mạnh cải cách thể chế, tăng
cường hiệu lực của bộ máy hành chính Nhà nước, tiến hành cải cách tiền
lương, nâng cao trách nhiệm, trình độ của bộ máy công chức, đáp ứng được
yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra hiện
nay.
Những khó khăn, thách thức rất to lớn đang đặt ra trước chúng ta. Bởi
vậy, chúng ta phải trên cơ sở kinh nghiệm của mình trong những năm đổi mới
và kinh nghiệm của các nước đang phát triển mà thúc đẩy sự hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực của nước ta. Chiến lược hội nhập quốc tế của nước ta là
chiến lược chủ động hội nhập, nhằm tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi,
khai thác tốt nhất nội lực của ta để phát triển đất nước, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Chiến lược chủ động hội nhập của nước ta xuất phát từ việc
Trang 15
thừa nhận lợi ích to lớn của hội nhập; đồng thời ý thức rằng sự hội nhập đó
cũng đưa lại những thách thức to lớn, những nguy cơ không thể xem thường.
Thời cơ và nguy cơ thường đan xen với nhau, do đó phải hết sức tỉnh
táo để bảo đảm hội nhập và giữ được bản sắc văn hóa dân tộc; hội nhập và giữ
vững độc lập tự chủ; hội nhập và bảo vệ được lợi ích dân tộc; hội nhập và góp
phần vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của
nhân loại. Chúng ta chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3. Quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn làm bạn và là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển.
Tiếp tục tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước,
các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ vũ lực; bình đẳng và
cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hoà
bình; chống mọi hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Trên nền tảng phân tích các quan điểm đối ngoại trên, chúng ta có thể
thấy rõ quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta là:
Hội nhập kinh tế quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.
Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc
và chủ quyền đất nước. Ở đây chúng ta cần hiểu rõ, cần có tư duy mới về kinh
tế độc lập tự chủ. Kinh tế độc lập tự chủ khác với kinh tế tự cung tự cấp. Độc
lập tự chủ về kinh tế trong hội nhập là khẳng định mở cửa hội nhập để khai
thác các mặt có lợi cho sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới. Do
đó muốn bảo đảm độc lập tự chủ phải mở cả về cơ cấu kinh tế và cả về cơ chế
kinh tế, phải đa phương hoá không để cho một nước nào, một nền kinh tế nào,
một tập đoàn nào giữ vị trí độc quyền, chi phối bất cứ một lĩnh vực, một sản
phẩm thiết yếu nào của nền kinh tế chúng ta. Phải tìm mọi cách tạo ra sự cạnh

tranh giữa các đối tác và cũng đề phòng sự lợi dụng cạnh tranh của các tổ
chức kinh tế quốc tế với chúng ta. Muốn giữ được độc lập tự chủ trong hội
nhập phải giữ vững ổn định kinh tế, đối phó kịp thời với những tác động bất
lợi từ bên ngoài. Bởi vậy cần xây dựng những sợi dây an toàn cho nền kinh tế
Trang 16
quốc gia: chẳng hạn như xây dựng và thực hiện các mối quan hệ hợp lý trong
tỷ lệ tích luỹ tối thiểu trong GDP, tỷ lệ vốn vay, tỷ lệ trả nợ hàng năm, tỷ lệ
vay ngắn hạn và trung hạn, dài hạn, mức thâm hụt tối đa trong cán cân thương
mại và cán cân thanh toán quốc tế, tỷ lệ đầu tư trực tiếp của nước ngoài và
đầu tư gián tiếp của nước ngoài qua cổ phiếu và trái phiếu, bảo đảm an toàn
lương thực. Muốn giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập còn phải ra sức
nâng cao năng lực làm chủ khoa học kỹ thuật, phải nhanh chóng đào tạo đội
ngũ các nhà kinh doanh giỏi và đội ngũ cán bộ hành chính thạo việc. Và điều
cốt lõi là phải phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho
toàn dân, thực hiện công bằng, xã hội Đây chính là nền tảng vững chắc nhất
bảo đảm cho chúng ta vừa hội nhập kinh tế quốc tế vừa giữ được quyền độc
lập tự chủ.
Chúng ta chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Ở đây
chúng ta cần nắm vững mối quan hệ biện chứng tuy hai nhưng là một của nội
lực và ngoại lực. Nội lực là chính, là quyết định. Nhưng muốn phát huy tốt
nội lực thì phải có sự tham gia của ngoại lực. Ngoại lực tham gia càng nhiều,
càng mạnh thì càng xuất hiện nhiều và nhanh các khả năng tối đa để phát huy
“nội lực”. Và ngược lại để tranh thủ được ngoại lực nhất thiết phải biết động
viên tối đa nội lực.
Chúng ta phải nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng đồng
bộ thị trường trong nước (thị trường hàng hoá, thị trường nhân lực, thị trường
tiền tệ, thị trường bất động sản), để đủ sức hội nhập với khu vực và hội nhập

toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác.
Song song với việc xây dựng sự phát triển đồng bộ thị trường, chúng ta
phải nhanh chóng xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh. Doanh nghiệp là
đội quân xung kích vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế.
Doanh nghiệp được nói tới ở đây là bao gồm các doanh nghiệp, các công ty,
tổng công ty của tất cả các thành phần kinh tế ở tất cả các lĩnh vực sản xuất
hàng hoá thiết bị, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, tiếp thị và nhân lực.
Chúng ta phải chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, tích
cực tham gia đàm phán thương mại, tham gia các diễn đàn, các tổ chức, các
hiệp định định chế quốc tế một cách chọn lọc với những bước đi tỉnh táo và
thích hợp.

Trang 17
KẾT LUẬN
Với đề tài “Toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam hiện nay. Ngành, địa phương đã làm gì để hội nhập
kinh tế quốc tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO?”. Người viết đã cố gắng
đưa ra những luận điểm, kiến giải và có phân tích cụ thể. Qua đề tài nghiên
cứu này, người viết đúc kết được kinh nghiệm từ thực tiễn, và nắm được quy
luật, bản chất của tự do hóa thương mại trong xu thế hội nhập toàn cầu, tăng
thị phần cho doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư của nước ngòai cũng như sức
cạnh tranh giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, trong
quá trình nghiên cứu sẽ có một số vấn đề được mổ xẻ kỹ lưỡng và cũng có
những vấn đề còn mơ hồ, thiếu sót. Người viết mong rằng, quý thầy (cô) sẽ
tận tình đóng góp để đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
Trang 18

×