Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Lịch Sử Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.26 KB, 15 trang )

Lịch sử Nhật Bản
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm
Lịch sử Nhật Bản

Thời kỳ đồ đá cũ 35000–14000 TCN
Thời kỳ Jōmon 14000–400 TCN
Thời kỳ Yayoi 400 TCN – 250 SCN
Thời kỳ Kofun 250–538
Thời kỳ Asuka 538–710
Thời kỳ Nara 710–794
Thời kỳ Heian 794–1185
Thời kỳ Kamakura 1185–1333
o Tân chính Kenmu 1333–1336
Thời kỳ Muromachi 1336–1573
o Thời kỳ Nanboku-chō 1336–1392
o Thời kỳ Sengoku
Thời kỳ Azuchi-Momoyama 1568–1603
o Nanban mậu dịch
Thời kỳ Edo 1603–1868
o Bakumatsu
Thời kỳ Meiji 1868–1912
o Minh Trị Duy Tân
Thời kỳ Taishō 1912–1926
o Nhật Bản trong Thế chiến thứ I
Thời kỳ Showa 1926–1989
o Chủ nghĩa quân phiệt Nhật
o Nhật Bản thời kỳ bị chiếm đóng
o Nhật Bản thời hậu chiếm đóng




















Thời kỳ Heisei 1989–hiện tại
 Lịch sử kinh tế
 Lịch sử giáo dục
 Lịch sử quân sự


Lịch sử hải quân

Thuật ngữ

Hộp này: xem • thảo luận • sửa


Lịch sử thành văn về Nhật Bản đã có từ thế kỷ 1 công nguyên qua các đoạn ghi
chép ngắn trong sử liệu Trung Quốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu khảo cổ học cho thấy


trên các hòn đảo mà nay là Nhật Bản đã có người sinh sống ngay từ cuối thời kỳ đồ đá
cũ[1] . Ngay sau thời kỳ băng hà cuối cùng, khoảng 12.000 TCN, hệ sinh thái phong
phú trên quần đảo Nhật Bản đã giúp đẩy nhanh sự phát triển loài người, sản sinh ra
nền văn hóa đất nung nổi tiếng của thời kỳ Jomon. Lịch sử Nhật Bản với nhiều thời
kỳ cô lập thay thế nhau bị gián đoạn bởi các ảnh hưởng cấp tiến, thường là cách mạng
từ thế giới bên ngoài.

Mục lục
[ẩn]




1 Sơ sử
o 1.1 Thời đồ đá cũ
o 1.2 Thời kỳ Jōmon
o 1.3 Thời Yayoi
2 Thời cổ đại
o 2.1 Thời kỳ Kofun
o 2.2 Thời kỳ Asuka
3 Thời trung cổ
o 3.1 Thời kỳ Nara
o 3.2 Thời kỳ Heian
4 Thời trung thế
o 4.1 Thời kỳ Kamakura
o 4.2 Thời kỳ Nanbokuchō

o 4.3 Thời kỳ Muromachi
o 4.4 Thời kỳ Sengoku
o 4.5 Thời kỳ Azuchi-Momoyama
5 Thời cận thế
o 5.1 Thời kỳ Edo
6 Thời cận đại
o 6.1 Thời kỳ Meiji
o 6.2 Thời kỳ Taishō
7 Thời hiện đại
o 7.1 Sơ kỳ Shōwa
o 7.2 Hậu kỳ Shōwa (1945-1989)
o 7.3 Thời kỳ Heisei
8 Chú thích
9 Xem thêm



10 Liên kết ngoài















[sửa] Sơ sử
[sửa] Thời đồ đá cũ
Bài chi tiết: Thời đồ đá cũ ở Nhật Bản
Từ khoảng 15.000 năm đến 5.000 năm trước Công nguyên, ở Nhật Bản đã có những
bộ tộc người nguyên thủy sống du mục, săn bắt và hái lượm[2] .


[sửa] Thời kỳ Jōmon
Bài chi tiết: Thời kỳ Jōmon
Thời kỳ Jōmon (縄文時代 | Thằng Văn thời đại) đặt theo tên hiện vật khảo cổ là thứ đồ
gốm có trang trí hình xoắn thừng (thằng văn 縄文). Thời kỳ này kéo dài từ 13000 đến
300 năm trước CN.
Người Nhật chuyển sang trồng lúa và hình thành việc định cư. Người Nhật bắt đầu
biết làm đồ gốm có trang trí hình xoắn thừng bằng cách ràng những dây buộc xung
quanh trước khi nung gốm. Vào cuối thời kỳ này đã manh nha những nhu cầu đầu tiên
trong việc thống nhất đất nước.

[sửa] Thời Yayoi
Bài chi tiết: Thời kỳ Yayoi
Thời kỳ Yayoi (弥生時代 | Di Sinh thời đại) kéo dài từ năm 300 trước CN đến năm 300
sau CN.
Yayoi được coi là thời kỳ mà xã hội nông nghiệp thể hiện đầy đủ những đặc điểm trọn
vẹn của nó lần đầu tiên ở quần đảo Nhật Bản. Lúa được trồng ở những vùng đầm lầy
đất phù sa, kê, lúa mạch và lúa mì được trồng ở những vùng đất cao hơn. Nông cụ, vũ
khí bằng đồng, thiếc và sắt đã được mang tới từ lục địa châu Á[3] và được sử dụng phổ
biến.

Mũ và áo giáp bằng sắt có trang trí các chấm bằng đồng, thời kỳ Kofun, thế kỷ 5. Bảo

tàng Quốc gia Tokyo.

[sửa] Thời cổ đại


[sửa] Thời kỳ Kofun
Bài chi tiết: Thời kỳ Kofun
Thời kỳ Kofun (古墳時代 | Cổ Phần thời đại) kéo dài từ năm 300 đến năm 538.
Gò mộ (Kofun tiếng Nhật nghĩa là "gò mộ cổ") bắt đầu xuất hiện nhiều trong thời này.
Vương quốc Yamato (thời đầu người Nhật dùng chữ Hán 倭 (Nụy, đọc âm Nhật là
Wa/Oa) do người Trung Quốc đặt cho để ghi tên gọi Yamato, về sau dùng hai chữ
Hán 大和 (Đại Hòa)) thiết lập sự thống trị trên quá nửa phía tây quần đảo Nhật Bản, kể
cả phía nam của bán đảo Triều Tiên. Sau này, việc kiểm sốt phía nam Triều Tiên bị
suy yếu, và sự tranh ngơi trong gia đình Nhật Hồng đã đe dọa quyền lực của Yamato.
Đạo Phật và đạo Khổng bắt đầu được du nhập[4][5] .

[sửa] Thời kỳ Asuka
Bài chi tiết: Thời kỳ Asuka
Thời kỳ Asuka (飛鳥時代 | Phi Điểu thời đại) kéo dài từ cuối thế kỷ 6 đến đầu thế kỷ 8.
Thánh Đức Thái tử (聖徳太子) phục hồi quyền lực của vương quốc Yamato. Các cố
gắng đầu tiên để tạo nên hiến pháp[6] và một hệ thống giai cấp chính thức. Thánh Đức
THái Tử quảng bá cho đạo Phật[7] . Một số chùa Phật giáo được xây dựng như
Shitenno-ji (四天王寺, Tứ Thiên Vương tự), Horyu-ji (法隆寺, Pháp Long tự). Gia đình
Soga (曽我, Tằng Ngã) trở nên quyền lực, tuy nhiên sau này đã bị Fujiwara-noKamatari (藤原鎌足, Đằng Nguyên Liêm Túc) dưới quyền hoàng tử Naka-no-Oe (中大
兄皇子, Trung Đại Huynh Hồng Tử) lật đổ. Cải cách Taika (大化の改革, Đại Hóa cải
cách) theo những ý tưởng trước đây của Thánh Đức Thái Tử. Chấm dứt sự cai trị của
người Nhật Bản ở Triều Tiên. Tinh thần của cải cách Taika được thể hiện trong bộ
luật gọi là Ritsuryo (律令, Luật lệnh) dưới thời Thiên hoàng Temmu (天武, Thiên Vũ),
sau này được cải tiến dưới thời Mommu (文武, Văn Vũ), cháu nội của ông.


[sửa] Thời trung cổ
[sửa] Thời kỳ Nara
Bài chi tiết: Thời kỳ Nara
Thời kỳ Nara (奈良時代 | Nại Lương thời đại) kéo dài từ năm 710 đến năm 794.
Nara trở thành thủ đơ, bộ luật Ritsuryo được hồn thành. Nhật Hồng có uy quyền
lớn. Văn hố thời nhà Đường của Trung Hoa được du nhập ồ ạt trở thành động lực
phát triển mạnh mẽ của văn hóa bản địa. Đạo Phật hưng thịnh. Hai cuốn lịch sử dân
tộc Cổ sự ký (古事記) và Nhật Bản thư kỷ (日本書記); cuốn Phong thổ ký ghi chép về
đất đai phong tục và Vạn diệp tập (万葉集, tuyển tập các bài thơ Nhật Bản) được biên
soạn. Nền văn hóa đạt tới mức cao nhờ việc kết hợp các yếu tố Trung Hoa và Nhật
Bản. Tiền bằng bạc và đồng đỏ được đúc. Một số chùa gỗ trong đó có chùa Todai (東
大寺 Đơng Đại tự) và kho báu hồng gia Shoso (正倉院, Chính Thương viện) được xây
dựng.


chùa Toshodai (唐招提寺)

[sửa] Thời kỳ Heian
Bài chi tiết: Thời kỳ Heian
Thời kỳ Heian (平安時代 | Bình An thời đại) kéo dài từ năm 794 đến năm 1192. Thời
kỳ này gồm ba giai đoạn.


Sơ kỳ Heian (Cuối thế kỷ 8 đến cuối thế kỷ 9)

Kinh đô được dời đến Heian-Kyo (nay là Kyoto). Thành lập các giáo phái Phật giáo
mới đã Nhật Bản hóa (là Tendai (Thiên thai tơng) và Shingon (Chân ngôn tông) - chủ
yếu hội nhập những yếu tố tiến bộ). Hệ thống các điều luật Ritsuryo được sửa đổi.
Các thể tài thơ văn theo kiểu Trung Hoa rất hưng thịnh ở triều đình[8] và chủ yếu của
các cây bút nam. Dòng họ Fujiwara nắm quyền hành đằng sau ngai vàng.



Trung kỳ Heian (Cuối thế kỷ 9 đến cuối thế kỷ 11)

Việc cai quản chính quyền bằng quan nhiếp chính trở thành luật lệ. Triều đình mất
thực quyền kiểm sốt đất nước, chỉ cịn nắm vai trị đại diện. Phúc lợi công cộng bị
coi nhẹ. Người đứng đầu các tỉnh trở nên tham nhũng và lười nhác. Chủ nhân của các
khu trang ấp (shoen) thành lập các nhóm võ sĩ để tự vệ, tạo ra sự mở đầu của hệ thống
samurai (võ sĩ, cận vệ có vũ trang). Thơ ca Nhật Bản phát triển rực rỡ, đặc biệt là
waka (thể thơ 31 âm tiết). Cổ kim tập và các tuyển tập waka khác được biên soạn.
Những tác phẩm khác gồm có tiểu thuyết đầu tiên của thế giới, cuốn Truyện kể Genji
do Murasaki Shikibu chấp bút, tùy bút Sách gối đầu của Sein Sonagon, cuốn Truyện
kể Ise, và Nhật ký Tosa.


Hậu kỳ Heian (Cuối thế kỷ 11 đến 1192)

Bắt đầu một thế kỷ các Nhật hoàng rời xa thế tục, đi tu nhưng vẫn gián tiếp cai quản
công việc triều chính. Triều đình dần biến thành một nhà nước khơng có thực quyền,
quan liêu xa rời thực tế, khơng chăm lo đến các phúc lợi công cộng mà chỉ bận tâm
tới việc xây dựng chùa chiền và truyền bá tư tưởng Phật giáo. Tầng lớp quý tộc trong
triều đình suy đồi và vô dụng. Giáo phái Phật giáo Jodo (Tịnh độ tông) phát triển.
Quyền lực của các phe cánh địa phương với nền tảng là hệ thống samurai tăng lên.
Dẫn đầu trong số họ là các gia đình Minamoto (Genji) và Taira (Heike hoặc Heishi).


Các chùa chiền cũng duy trì lực lượng tự vệ. Những cuộc tranh giành quyền lực trong
hoàng tộc và các yếu tố khác cuối cùng đã đem lại uy thế cho gia đình Taira, nhưng
sau một phần tư thế kỷ nắm quyền, rốt cuộc Taira lại bị Minamoto đánh bại.


[sửa] Thời trung thế
[sửa] Thời kỳ Kamakura
Bài chi tiết: Thời kỳ Kamakura

Samurai Nhật Bản tấn công thuyền chiến Mông Cổ năm 1281.
Thời kỳ Kamakura (鎌倉時代 | Liêm Thương thời đại) kéo dài từ năm 1185 đến năm
1333.
Minamoto-no-Yoritomo được bổ nhiệm làm Seiji-Taishogun (Chinh di đại tướng
quân). Thành lập Mạc phủ ở Kamakura. Phát triển nông nghiệp nhờ sử dụng súc vật
kéo. Thu hoạch vụ mùa nửa năm một lần. Bổ nhiệm chức vụ shugo và jito. Giáo phái
Phật giáo Jodo phát triển. Giáo phái Thiền tông du nhập từ Trung Quốc. Sau cái chết
của Yoritomo, gia đình Hojo trở thành các quan nhiếp chính trong chế độ shogun.
Dịng dõi Minamoto chẳng bao lâu kết thúc, nhưng gia đình Hojo vẫn tiếp tục làm các
quan nhiếp chính, kiểm sốt cả các Nhật hoàng lẫn các shogun. Giáo phái Phật giáo
Nichiren (hoặc Hokke) phát triển. Truyện kể Heike với âm hưởng về lẽ sinh tử vô
thường của cuộc đời được viết. Samurai ngày càng trở nên có nhiều quyền lực ở các
vùng trang ấp. Vào giai đoạn cuối của thời kỳ này, Nhật hồng Godaigo nhanh chóng
khơi phục lại luật lệ hồng gia nhưng thất bại trong việc đạt được quyền kiểm sốt
thích đáng và bị lật đổ bởi người trước đó đã từng giúp ông là chiến binh Ashikaga
Takauji - người đã đưa Komyo lên ngai vàng thay thế Godaigo. Godaigo bỏ trốn và
lập ra một triều đình ở Yoshino kình địch với triều đình Komyo ở Kyoto. Hai triều
đình, Bắc và Nam, sau đó tiếp tục tồn tại trong 57 năm.
Năm 1272 và 1281, quân Mông Cổ hai lần tấn công Nhật Bản. Yêu cầu thống nhất
lòng dân để bảo vệ lãnh thổ trở nên cấp thiết. Lần thứ nhất, với sự dũng cảm của các
chiến binh, sự vững trãi của các thành trì duyên hải và sự giúp đỡ của thời tiết, quân
Mông Cổ đổ bộ lên bờ đều bị đánh bại. Lần thứ hai, khi các thành trì đã có thể bị chọc
thủng, hạm đội hùng mạnh của quân Mông Cổ trên biển lại bị trận bão cực lớn đánh
chìm, kết thúc mộng chinh đơng của hồng đế Ngun Mơng. Người Nhật sau tơn
kính gọi trận bão này bằng một cái tên sẽ khắc ghi mãi mãi vào lịch sử là Thần Phong
(kamikaze).


[sửa] Thời kỳ Nanbokuchō


Thời kỳ Nanbokuchō (南北朝時代 | Nam - Bắc triều) kéo dài từ năm 1336 đến năm
1392. Dù thành công trong nỗ lực chống quân Nguyên Mông giai đoạn trước, nhưng
cuộc chiến với kẻ thù không cân sức đến từ lục địa đã đẩy đất nước tới những khó
khăn và phân rã sau này, khi phải giải quyết những vấn đề của giai đoạn hậu chiến.
Lịng dân ly tán, triều đình phân liệt. Bắc triều do Ashikaga Takauji thành lập ở
Kyoto. Nam triều do hoàng đế Godai-go cai trị đầu tiên ở Yoshino (Nara). Giữa hai
triều đình liên tục nổ ra những cuộc chiến nhằm duy trì và củng cố quyền lực, về sau
Nam triều thất bại.

[sửa] Thời kỳ Muromachi
Thời kỳ Muromachi (室町時代 | Thất Đinh thời đại) kéo dài từ năm 1392 đến năm
1573.
Chế độ shogun Ashikaga (hoặc Muromachi) bắt đầu bằng việc triều đình phía Bắc
phong cho Ashikaga Takauji tước hiệu Seii-Taishogun. Tổng hành dinh được thành
lập tại Muromachi ở Kyoto. Với việc hai triều đình Bắc - Nam hợp nhất lại vào năm
1392, chế độ tướng quân này cuối cùng hoàn toàn được thừa nhận. Samurai vẫn tiếp
tục làm xói mịn quyền lực của giai cấp q tộc tại các thái ấp (shoen). Chính quyền
shogun bổ nhiệm một số người giữ chức shugo như đã có từ thời chính quyền shogun
Kamakura. Tuy nhiên, những người này khơng phải là tùy tùng của Ashikaga, họ
hành động vì lợi ích của chính họ, phát triển thành các thủ lĩnh shugo-daimyo của
samurai địa phương với quyền hành riêng. Uy quyền của chế độ shogun không ngừng
bị giảm sút do ảnh hưởng bởi sự yếu kém của triều đình. Tuy vậy, các môn nghệ thuật
như cắm hoa, trà đạo, v.v. lại phát triển. Các bộ môn Kịch Nô, Kyogen ở giai đoạn
cực thịnh. Nghệ thuật thư họa bằng cây cọ và mực Tàu, nghệ thuật tranh nhiều màu
sắc rực rỡ theo trường phái Kano phát triển. Kết thúc thời kỳ này là cuộc chiến tranh
Onin. Sau đó chế độ shogun hầu như mất tồn bộ quyền kiểm sốt, dẫn đến thời kỳ

của các cuộc nội chiến. Mặc dù vậy, thời kỳ này đã chứng kiến sự phát triển của nghề
cá, khai thác mỏ, buôn bán, v.v. Các thị trấn phát triển xung quanh các thành trì, đền
chùa và hải cảng.

[sửa] Thời kỳ Sengoku
Bài chi tiết: thời đại Sengoku
Thời kỳ Sengoku (戦国時代 | Chiến quốc thời đại) kéo dài từ năm 1493 đến năm 1573.
Đây là thời kỳ đầy rẫy những bất ổn định chính trị, xã hội và chiến sự. Khắp Nhật
Bản, các lãnh chúa đều chiêu mộ võ sĩ, xây dựng lực lượng riêng và đánh chiếm lẫn
nhau. Các tổ chức tơn giáo có những tín đồ sẵn sàng tử vì đạo cũng nổi dậy chiêu mộ
nông dân, và chiến đấu giành quyền lực với các daimyo.
Quyền lực dần dần chuyển từ trên xuống dưới: từ Shogun đến gia đình Hosokawa
(cấp dưới của shogun), đến gia đình Miyoshi (cấp dưới của Hosokawa) và cuối cùng
là gia đình Matsunaga (cấp dưới của Miyoshi). Quyền lực của shugo-daimyo tăng lên,
thay thế tầng lớp quý tộc cũ kiểm soát các thái ấp. Họ cố thủ trong các khu vực của
mình và tìm cách mở rộng quyền lực.

[sửa] Thời kỳ Azuchi-Momoyama


Bài chi tiết: Thời kỳ Azuchi-Momoyama

Một nhóm người Bồ Đào Nha ở Nhật Bản, thế kỷ 17.
Thời kỳ Azuchi-Momoyama (安土桃山時代 | An Thổ - Đào Sơn thời đại) kéo dài từ
năm 1573 đến năm 1603. Đây là thời kỳ thống nhất đất nước. Oda Nobunaga và
Toyotomi Hideyoshi là hai nhà qn sự lỗi lạc có cơng đầu.
Oda Nobunaga trục xuất viên shogun Ashikaga cuối cùng và thành công trong việc
thống nhất một khu vực quan trọng của đất nước. Sau khi ông chết do bị phản bội,
công việc của ông được người tùy tùng trung thành tên là Toyotomi Hideyoshi kế
nghiệp và hoàn thành.

Trong thời kỳ này, những người châu Âu đầu tiên đã đến Nhật Bản, mang theo súng
ống và Cơ đốc giáo. Việc bn bán với nước ngồi bắt đầu. Đạo Cơ đốc và việc buôn
bán với nước ngoài phát triển mạnh mẽ dưới thời Oda và vào đầu thời Toyotomi,
nhưng cuối cùng Toyotomi nghi ngờ những tham vọng về đất đai của người châu Âu
và đã ra lệnh trục xuất những người truyền giáo. Mặc dù vậy, việc buôn bán vẫn tiếp
tục.
Toyotomi Hideyoshi đưa quân xâm chiếm Triều Tiên. Cuộc viễn chinh sau những
thành công lớn bước đầu đập tan các đạo quân kháng cự yếu ớt và kiểm soát nhiều
phần rộng lớn thuộc lãnh thổ Triều Tiên, cuối cùng lại thất bại nặng nề. Sự thất bại
này, bên cạnh nguyên nhân do Triều Tiên, đương thời là phiên thuộc Trung Hoa, đã
nhờ quân đội Trung Hoa giúp sức, thì nguyên nhân lớn là do lực lượng hải quân Nhật
Bản giai đoạn này còn yếu. Những chiến thuyền còn nhỏ và kinh nghiệm hải hành còn
thiếu, kế hoạch đổ bộ của các đạo quân lên bán đảo Triều Tiên không khớp nhau đã
dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong phối hợp giữa các cánh quân. Sau này người Nhật đã
rút kinh nghiệm và lưu ý đến việc xây dựng hải quân hùng mạnh hơn.
Trường phái hội họa Kano và trà đạo đạt tới giai đoạn hoàng kim.
Sau khi Toyotomi Hideyoshi chết, quyền lực bị Tokugawa Ieyasu thâu tóm.

[sửa] Thời cận thế


[sửa] Thời kỳ Edo
Bài chi tiết: Thời kỳ Edo

Nền đá của tháp chính trong thành Edo, nơi các Shogun Tokugawa ở.
Thời kỳ Edo (江戸時代 | Giang Hộ thời đại), còn gọi là thời Tokugawa, kéo dài từ năm
1603 đến năm 1868.


Sơ kỳ Edo (1603 đến đầu thế kỷ 18)


1600, Tokugawa Ieyashu đánh bại liên quân 40 Daimyo miền Tây tại Shekigahara và
nắm chính quyền. Tokugawa được bổ nhiệm làm shogun (cả Oda Nobugana lẫn
Toyotomi Hideyoshi đều không cố gắng trở thành shogun mà chỉ duy trì quyền lực
qua các vị trí chính thức tại triều đình). Các daimyo chống đối gia đình Tokugawa đều
bị chuyển tới các thái ấp ở những vùng xa trung tâm và bị ép phải dùng phần lớn của
cải của họ để làm đường và các dự án khác, bị buộc phải luân phiên di chuyển hàng
năm giữa Edo và thái ấp của mình, để lại gia đình làm con tin lâu dài ở Edo. Các thái
ấp được những người tùy tùng của shogun cai quản, tuy nhiên quyền lực ở đây rất lớn.
Thành lập bộ luật hợp pháp cho các gia đình quý tộc, tạo điều kiện cho chế độ shogun
kiểm sốt triều đình và hồng đế. Hệ thống 4 đẳng cấp shinokosho(sĩ nơng cơng
thương) được thừa nhận, cùng với việc hôn nhân giới hạn trong những người ở cùng
một đẳng cấp. Ở từng đẳng cấp, mối quan hệ chủ-tớ phong kiến được thiết lập. Chế
độ shogun Tokugawa được cấu thành vững chắc từ hệ thống này và được biết tới dưới
tên gọi bakuhan (kết hợp shogun và chủ thái ấp). Buôn bán và đạo Cơ đốc một lần
nữa lại phát triển thịnh vượng trong thời gian ngắn, tuy nhiên, cũng như Hideyoshi,
Ieyasu ngày càng e ngại đạo Cơ đốc và bắt đầu những biện pháp đàn áp với mức độ
ngày càng tăng. Tới thời kỳ của shogun Tokugawa thì đạo Cơ đốc hồn tồn bị cấm
tại Nhật Bản. Những người Nhật Bản theo đạo Cơ đốc bị hành hình. Các thương gia,
trừ người Hà Lan và người Trung Hoa, đều bị cấm tới Nhật Bản, và người Hà Lan bị
hạn chế chỉ cho phép đến một hòn đảo nhỏ ở cảng Nagasaki.
Cùng với việc thống nhất đất nước, quyền lực của chế độ shogun được củng cố, việc
cai trị tập trung, công nghiệp và nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, giao thông được
cải thiện, đem lại sự thịnh vượng cho buôn bán và thương mại nội địa. Các thị trấn
mọc lên ngày càng nhiều và rất hưng thịnh, đặc biệt là các đô thị quanh cung điện.
Giới thương gia trở nên giàu có, và từ tầng lớp này xuất hiện những hình thức nghệ
thuật mới, bao gồm thơ haiku mà Matsuo Basho là người khai sáng, tiểu thuyết bình
dân của Ihara Saikaku, kịch của Chikamatsu Monzaemon, các bản tranh khắc gỗ, kịch
Ca vũ kỹ được dàn dựng lần đầu tiên ở Kyoto vào đầu thời kỳ này, sau đó hạn chế chỉ
dành cho diễn viên nam, bắt đầu được diễn ở Edo và Osaka vào cuối thế kỷ 17.





Trung kỳ Edo (Đầu thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19)

Hệ thống bakuhan không ngừng suy yếu do sự tập trung của cải vào tay giới thương
gia. Chế độ shogun gặp phải những khó khăn tài chính, samurai và nơng dân rơi vào
cảnh nghèo khó. Đã có các nỗ lực nhằm cải cách chế độ shogun, nhưng do vẫn duy trì
chính sách thả lỏng việc tư nhân kinh doanh nên tình trạng suy vong ngày càng nặng
nề. Nạn đói kém và thảm hoạ thiên nhiên, cộng thêm sưu cao thuế nặng (đối với lúa
gạo) mà chế độ shogun và daimyo bắt người dân gánh vác đã biến những người nông
dân và các tầng lớp dân thường khác thành nghèo khổ. Các cuộc khởi nghĩa của nông
dân xuất hiện. Lĩnh vực văn hoá chứng kiến sự nở rộ cuối cùng của nền văn hoá Edo.
Các truyện ngắn theo xu hướng phóng đãng, truyện tình lịch sử, nghệ thuật đóng kịch
Kabuki, các loại tranh và bản in gỗ gồm nishiki-e (bản in tranh nhiều màu) được phát
triển. Giáo dục được truyền bá vào tầng lớp thương gia và thậm chí cả những nông
dân tại terakoya. Phát triển các trường kokugaku (Quốc học), một xu hướng giáo dục
thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa và trở lại các truyền thống quốc gia. Rangaku
(Lan học) - việc nghiên cứu các tác phẩm khoa học khác nhau du nhập từ phương Tây
qua các thương nhân Hà Lan như địa lý, y học, thiên văn, vật lý, hoá học cũng dần
dần phát triển.


Hậu kỳ Edo (Đầu thế kỷ 19 đến 1868)

Tướng Perry cùng các sỹ quan và binh lính lên bờ để gặp sứ giả của Nhật hồng tại
Yoku-Hama (Yokohama?) 14 tháng 7 năm 1853.
Chính sách bế quan tỏa cảng đã kéo dài hơn 200 năm cho đến ngày 8 tháng 7 năm
1853, khi tướng Matthew Perry của Hải quân Hoa Kỳ cùng với 4 chiến hạm —

Mississippi, Plymouth, Saratoga, và Susquehanna — vào vịnh Edo, Tokyo cũ, và phô
diễn sức mạnh của các khẩu pháo hạm. Ông lịch sự đề nghị Nhật Bản mở cửa thương
mại với phương Tây. Từ đây, những con tầu này được gọi là kurofune, Hắc thuyền.
Năm sau, tại Hiệp ước Kanagawa ngày 31 tháng 3 năm 1854, Perry quay lại với 7
chiến hạm và đề nghị shōgun ký "Hiệp định Hịa bình và Hữu nghị," thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ. Trong vịng 5 năm, Nhật Bản đã kí
các hiệp định tương tự với các quốc gia phương Tây khác. Hiệp định Harris được ký
với Mỹ ngày 29 tháng 7 năm 1858. Giới trí thức Nhật Bản coi các hiệp định này là bất
bình đẳng, do Nhật Bản đã bị ép buộc bằng sự đe dọa chiến tranh, và là dấu hiệu
phương Tây muốn kéo Nhật Bản và chủ nghĩa đế quốc đang nắm lấy phần còn lại của
lục địa châu Á. Bên các phương tiện khác, họ đã cho các quốc gia phương Tây quyền


kiểm soát rõ rệt đối với thuế nhập khẩu và đặc quyền ngoại giao (extraterritoriality)
đối với tất cả các công dân của họ tới Nhật Bản. Đây sẽ là một cái gai trong quan hệ
giữa Nhật Bản với phương Tây cho tới khi thế kỉ mới bắt đầu.

[sửa] Thời cận đại
[sửa] Thời kỳ Meiji
Xem bài chính về Thời kỳ Minh Trị
Thời kỳ Meiji (明治時代 | Minh Trị thời đại) kéo dài từ năm ngày 25 tháng 1 năm 1868
đến ngày 30 tháng 7 năm 1912, là thời kỳ tại vị của Minh Trị Thiên Hồng.


Cải cách Minh Trị
Xem bài chính về Cải cách Minh Trị

Việc nối lại quan hệ với phương Tây đã dẫn đến sự đổi thay lớn đối với xã hội Nhật
Bản. Shogun phải từ bỏ quyền lực, và sau Chiến tranh Boshin năm 1868, quyền lực
của hoàng đế được khôi phục. Cuộc cải cách Minh Trị tiếp theo đó đã mở đầu cho

nhiều đổi mới. Hệ thống phong kiến bị hủy bỏ và thay vào đó là nhiều thể chế phương
Tây, trong đó có hệ thống luật pháp phương Tây và một chính phủ gần theo kiểu lập
hiến nghị viện. Các thái ấp phong kiến bị bãi bỏ và thay thế bằng hệ thống quản lý
hành chính theo cấp tỉnh. Quyền lực tập trung trong tay Thiên hoàng. Các đẳng cấp
trong xã hội phong kiến bị huỷ bỏ. Quân đội quốc gia và việc tuyển quân, chế độ thuế
mới, hệ thống tiền tệ theo hệ thập phân, mạng lưới đường sắt, cùng các hệ thống thư
tín, điện thoại, điện báo được thiết lập. Công nghiệp hiện đại được khởi đầu với các
nhà máy do nhà nước xây dựng và điều hành, sau này được chuyển sang sở hữu tư
nhân. Việc cải cách gặp phải sự chống đối đáng kể nhưng đều bị dẹp yên. Quan hệ
buôn bán với Triều Tiên và Trung Quốc được thiết lập. Nhà nước đã nỗ lực hết sức để
sửa đổi những hiệp ước bất bình đẳng đã được ký kết với các nước phương Tây. Năm
1898, hiệp định cuối cùng trong các "hiệp định bất bình đẳng" với các cường quốc
phương Tây đã được hủy bỏ, đánh dấu vị thế mới của Nhật Bản trên thế giới. Trong
vài thập kỉ tiếp theo, bằng cách cải tổ và hiện đại hóa các hệ thống xã hội, giáo dục,
kinh tế, quân sự, chính trị và cơng nghiệp, "cuộc cách mạng có kiểm sốt" của Minh
Trị đã biến Nhật Bản từ một nước phong kiến và bị cô lập thành một cường quốc trên
thế giới.


Phong trào tự do dân quyền


Quân Nhật đánh bại quân Triều Tiên năm 1894
Đạo Phật và Thần đạo, sau thời gian dài hợp nhất, đã chính thức tách ra. Thần đạo
được lấy làm nền tảng tư tưởng của hoàng gia. Việc cấm đạo Cơ đốc được huỷ bỏ.
Các trường học mới theo phong cách phương Tây được lập nên ở khắp nơi, không
phân biệt đẳng cấp, tài sản hay giới tính. Các lý tưởng về tự do, chủ nghĩa xã hội, bình
đẳng cũng du nhập vào từ phương Tây và khá hưng thịnh trong một thời gian ngắn.
Nhu cầu ăn mặc và nhiều vấn đề khác trong đời sống hàng ngày chịu ảnh hưởng của
phương Tây.

Năm 1885, Nội các được thành lập. Thủ tướng đầu tiên là Ito Hirobumi. Việc kêu gọi
thành lập một chính phủ lập hiến dẫn tới sự ra đời của Nghị viện quốc gia và việc ban
hành hiến pháp. Nghị viện tuy nhiên chỉ có ít quyền lực thực tế.
Năm 1889, Hiến pháp Đại đế quốc Nhật Bản được quốc hội thơng qua và có hiệu lực
vào năm sau.


Hoạt động qn sự

Năm 1874, do tranh cãi với Đài Loan ở quần đảo Ryukyu năm 1871, Nhật Bản xuất
binh đánh chiếm Đài Loan. Năm 1875, đánh Triều Tiên, buộc nước này phải mở cửa
cho hàng hóa của Nhật Bản. Do Trung Quốc tranh chấp ảnh hưởng của Nhật đối với
Triều Tiên, tháng 7 năm 1894, chiến tranh Thanh-Nhật nổ ra tại bán đảo Triều Tiên;
đến tháng 4 năm sau thì kết thúc với thắng lợi thuộc về Nhật.
Năm 1894, hiệp ước bất bình đẳng với Anh trong bn bán được sửa đổi và các hiệp
ước với những quốc gia khác cũng sửa đổi theo cho phù hợp.
Sau thắng lợi của Nhật trước Trung Quốc, Nga, Đức và Pháp ép Nhật phải từ bỏ một
số quyền lợi do lo ngại Nhật bành trướng lấn Nga, tạo ra mâu thuẫn lâu dài và sâu sắc
giữa Nhật và các nước trên. Liên minh Nhật - Anh hình thành. Năm 1904, Chiến tranh
Nga-Nhật bùng nổ tại Mãn Châu và kết thúc năm 1905 sau Hải chiến Tsushima với
thắng lợi thuộc về người Nhật.

Chiến hạm Nhật đánh chìm Hạm đội Nga ở Port Athur 1904
Năm 1909, Nhật Bản quyết định chiếm Triều Tiên và thực hiện điều đó ngay trong
năm 1910.


Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi Thế chiến thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật
tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần 5 lần diện tích quốc gia.
Cuộc chiến với Trung Quốc đã làm cho Nhật Bản thành một đế quốc hiện đại và hùng

mạnh đầu tiên của phương Đơng. Cịn cuộc chiến với Nga chứng tỏ rằng một cường
quốc phương Tây có thể bị một quốc gia phương Đông đánh bại. Kết cục của hai cuộc
chiến là Nhật Bản trở thành một cường quốc chiếm ưu thế ở Viễn Đông, với tầm ảnh
hưởng trải tới Nam Mãn Châu và Triều Tiên, những vùng mà đến năm 1910 chính
thức trở thành thuộc địa của Đế quốc Nhật Bản.

[sửa] Thời kỳ Taishō
Thời kỳ Taishō (大正時代 | Đại Chính thời đại) (1912 – 1926) là thời kỳ Nhật hoàng
Taishō trị vì. Trong chính sử thời kỳ này cịn được gọi là thời kỳ dân chủ Taishō, theo
tên kỷ nguyên và chính sách của chính quyền ban hành nhằm nỗ lực cởi mở hơn với
phương Tây.
Thời kỳ này chứng kiến Thế chiến thứ nhất. Cuộc chiến tranh này đã thúc đẩy kinh tế
và buôn bán của Nhật Bản phát triển. Nhật Bản đồng thời cũng chiếm được đất đai ở
Trung Hoa và Nam Thái Bình Dương, nhưng lại làm cho các quốc gia phương Tây
ngờ vực. Nhật Bản đầu tư vốn vào Trung Hoa. Trong chiến tranh, các cuộc thương
lượng ngoại giao quốc tế được tiến hành để cố gắng duy trì sự cân bằng quyền lực. Ở
Nhật Bản, các đảng phái chính trị trở nên mạnh hơn, ngoại trừ Đảng Cộng sản Nhật
Bản bị khủng bố buộc phải rút vào hoạt động bí mật, các lý tưởng dân chủ chiếm ưu
thế. Sau cùng, dù sao, sự khủng hoảng của nền kinh tế hậu chiến trên thế giới đã ảnh
hưởng bất lợi tới các nhà kinh doanh Nhật Bản, đồng thời trận động đất Kanto dữ dội
vào năm 1923 đã làm cho nên kinh tế thêm khó khăn. Tình trạng thất nghiệp, đồng
lương sụt giảm và tranh chấp việc làm luôn xảy ra. Phong trào xã hội chủ nghĩa chiếm
ưu thế.


[sửa] Thời hiện đại
[sửa] Sơ kỳ Shōwa
Giai đoạn đầu thời kỳ Shōwa (昭和時代 | Chiêu Hịa thời đại) tính từ lúc Nhật hồng
Showa lên trị vì năm 1926 đến khi Thế chiến thứ hai kết thúc năm 1945.
Suy thoái kinh tế và bế tắc ngoại giao. Xuất khẩu giảm sút. Phá sản xảy ra thường

xuyên, nhiều người thất nghiệp. Chính sách kiềm chế của Mỹ đối với Nhật Bản gia
tăng gây nỗi bất bình lớn ở Nhật. Hiệp định Ishii-Lansing, thừa nhận quyền lợi đặc
biệt của Nhật Bản ở Trung Hoa đã chấm dứt. Các dự thảo luật chống người nhập cư
Nhật Bản ra đời và phong trào trục xuất người Nhật ở Trung Hoa lan rộng. Nội các
không thể đối phó được vì các nhà chính trị và các Daibatsu đã chiếm độc quyền, bị
thu hút bởi các lợi ích tài chính, mà quên mất quyền lợi quốc gia và sự đau khổ của
nhân dân. Rắc rối lên đến đỉnh điểm ở cánh hữu gây ra những vụ ám sát và các hoạt
động quân sự, dẫn tới chính sách mở rộng xâm lược ở Trung Hoa, rút khỏi Hội Quốc
Liên và chủ nghĩa bành trướng của những người theo chủ nghĩa quân phiệt cánh hữu
gia tăng. Sau này họ đã liên kết với chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã.
Từ năm 1940, Đế quốc Nhật đã xâm chiếm thêm các nước Đông Nam Á, bao gồm:
Việt Nam, Lào, Campuchia, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Myanmar
(Miến điện) và Brunei. Cuộc xâm lược này là nguyên khởi của chiến tranh Thái Bình
Dương.

[sửa] Hậu kỳ Shōwa (1945-1989)
Sự thất bại trong chiến tranh và sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt. Hứng chịu thảm
họa bom nguyên tử lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Bắt đầu thời kỳ Nhật Bản bị
chiếm đóng lần đầu tiên trong lịch sử. Vị trí tối cao của Thiên Hồng khơng cịn khi
chế độ quân chủ nghị viện được thiết lập và Hiến pháp hịa bình ra đời. Tiến hành các
cải cách dân chủ, xây dựng lại nền công nghiệp bị tàn phá. Hiệp ước San Francisco có
hiệu lực.
Sau khoảng 10 năm hậu chiến, Nhật Bản đã đạt được các kỳ tích về kinh tế và đời
sống của nhân dân được nâng cao[9]. Kỷ niệm 100 năm (1868-1968) Duy Tân Minh
Trị Kawabata Yasunari, nhà văn Nhật Bản, được trao giải Nobel văn học. Bước phát
triển kinh tế ngoạn mục đem đến cho Nhật Bản vai trò quốc tế như một quốc gia
thương mại và dần dần trở thành nước có tiềm lực kinh tế đứng thứ hai trên thế giới,
sau Mỹ. Xảy ra vụ bê bối Lockheed, chính trường xáo trộn, đồng yên tăng giá và
buôn bán thặng dư trở thành một vấn đề quốc tế. Đã diễn ra những sự kiện trọng đại
trong đời sống kinh tế, xã hội Nhật Bản: Khai trương mạng lưới tàu Shinkansen

(Tokaido, San'yo, Tohoku, Kan'etsu), chia tách và tư hữu hoá đường sắt quốc gia, mở
đường hầm Seikan, khai trương cầu Sento Ohashi, vụ bê bối Recruit.

[sửa] Thời kỳ Heisei
Thời kỳ Heisei (平成時代 | Bình Thành thời đại) bắt đầu từ năm 1989. Một số học giả
Tây phương cho rằng Heisei đánh dấu mốc Nhật Bản bước vào kỷ nguyên hậu hiện
đại.


Chiến tranh vùng Vịnh, hoạt động chính trị bị hỗn loạn, vụ bê bối Sagawa Kyubin (佐
川急便) đã xảy ra. Hoạt động giữ gìn hồ bình của Liên hiệp quốc được triển khai. Lực
lượng phòng vệ được cử đến Campuchia và Mozambique. Xảy ra trận động đất
Hanshin-Awaji (阪神淡路大震災)[10]. Đây là thời kỳ ghi dấu bởi những giai đoạn trì trệ
kinh tế[11] và những bước hồi phục chậm chạp. Nhật Bản bước vào thế kỷ XXI với
những thay đổi vị thế trên trường quốc tế, nhấn mạnh hơn đến vị trí chính trị và quân
sự, đặc biệt là việc đưa quân ra nước ngồi và thành lập Bộ quốc phịng thay cho Cục
phòng vệ quốc gia vào ngày 9 tháng 1 năm 2007.

[sửa] Chú thích



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×