Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Luận văn Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.84 KB, 60 trang )

Luận văn
Lạm phát và tác động
của lạm phát tới nền
kinh tế Việt Nam


BÀI THẢO LUẬN
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài: Lạm phát và tác động của lạm phát tới nền kinh tế Việt Nam.
Danh sách các thành viên:

1.
2.
3.
4.
5.

Nguyễn Việt Long (Nhóm trưởng)
Dư Thu Hà
Lê Thế Cao
Nguyễn Duy Khanh
Đỗ Thị Minh Huệ

BÀI LÀM


1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.Khái niệm lạm phát
Lạm phát là một khái niệm kinh tế đã xuất hiện từ lâu, gắn liền với sự ra đời
và phát triển của tiền tệ. Quá trình phát triển tiền tệ ghi nhận nhiều sự thay đổi
trong cách định nghĩa lạm phát, từ việc giảm hàm lượng kim loại so với giá trị


danh nghĩa của tiền khi mà tiền tệ còn tồn tại chế độ bản vị kim loại, cho đến khi
xuất hiện các lý thuyết về lạm phát và mỗi lý thuyết có một cách nhìn nhận và
đánh giá riêng về hiện tương kinh tế này.


Quan điểm của K. Marx: “Lạm phát là việc tràn đầy các kênh và các luồng lưu

thơng những tờ giấy bạc thừa”
• Quan điểm của P. Samuelson: “Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi
phí tăng”
• Quan điểm của M. Friedman: “Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện
tượng kinh tế -xã hội chung hay căn bệnh kinh niên của những nước có sử dụng
tiền tệ hiện đại.
Vậy lạm phát là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau nhưng hầu hết các nhà kinh tế
học đều đưa ra một đặc điểm chung về lạm phát đó là “hiện tượng giá cả tăng
nhanh, liên tục và kéo dài làm cho tiền tệ mất giá so với hàng hóa và dịch vụ”.
Lạm phát là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, cịn sản
xuất hàng hóa và lưu thơng tiền tệ thì cịn lạm phát. Vấn đề chỉ là kiềm chế lạm
phát ở mức độ nào là hợp lý, bởi lạm phát ở mức hợp lý cịn có tác dụng kích thích
sản xuất và tiêu dùng.
 Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục mức giá chung của nền kinh

tế trong một khoảng thời gian.
• Mức giá chung của nền kinh tế là giá trung bình của tất cả các hàng hoá và dịch vụ
trong nền kinh tế. Do vậy, khi xảy ra lạm phát khơng có nghĩa là tất cả mọi hàng


hoá và dịch vụ của nền kinh tế đều tăng giá. Có thể một vài mặt hàng giảm giá
nhưng mặt hàng khác tăng giá đủ mạnh vẫn có thể gây nên lạm phát.
• Lạm phát cũng có thể hiểu là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng nội tệ.

Nền kinh tế có lạm phát, một đơn vị tiền tệ có thể mua ngày càng ít hàng hố, dịch
vụ hơn. Hay hiểu nơm na là khi có lạm phát chúng ta phải chi ngày càng nhiều
đồng nội tệ hơn cho giỏ hàng hoá và dịch vụ cố định. Trái ngược với lạm phát là
giảm phát.
Bên cạnh khái niệm lạm phát, ta còn thường gặp khái niệm giảm phát và thiểu
phát, vậy đâu là sự khác nhau giữa hai hiện tượng này?


Giáo sư David N. Hyman cho rằng giảm phát là sự suy giảm mức giá
chung của tổng thể các hàng hố và dịch vụ. Cịn hai nhà kinh tế học nổi
tiếng P.A Samuelson và W.D. Nordhaus cũng có quan điểm tương tự: giảm
phát là hiện tượng trái ngược với lạm phát, giảm phát xảy ra khi mức giá

chung của các hàng hoá, dịch vụ giảm.
 Vậy bản chất của giảm phát là sự suy giảm liên tục của mức giá chung
của các hàng hoá, dịch vụ. Khi giảm phát xảy ra, sức mua của tiền tệ
tăng.
• Giảm phát là hiện tượng ít gặp đối với các nền kinh tế nên người ta dễ
nhầm lẫn khái niệm này với thiểu phát. Để phân biệt, chúng ta sẽ xem xét
khái niệm thiểu phát. Theo thuyết "lạm phát giá cả", lạm phát là sự tăng
lên của giá cả nói chung cịn giảm phát là sự giảm của giá cả nói chung,
như vậy khái niệm thiểu phát không tồn tại. Thuyết "lưu thông tiền tệ" mà
những đại diện tiêu biểu là Milton Friedman, J. Bodin lại cho rằng việc
đưa quá nhiều tiền vào lưu thông làm giá cả tăng gây ra lạm phát. Cịn nếu
lượng tiền trong lưu thơng q ít khiến giá cả giảm gọi là thiểu phát. Khi
xảy ra thiểu phát, chỉ số giá cả giảm tức là tốc độ tăng của chỉ số giá là âm.
Giảm phát là trường hợp xảy ra ngược lại đối với lạm phát. Khi chỉ số giá


các năm sau càng cao hơn năm trước thì lạm phát xuất hiện; nếu chỉ số giá

ở các thời điểm nghiên cứu đều cao hơn thời điểm được chọn làm mốc,
nhưng càng về sau chỉ số giá càng thấp hơn thời điểm trước đó và đây là
biểu hiện của giảm phát. Trongthời kì thiểu phát, chỉ số giá khơng những
càng về sau càng giảm mà còn thường xuyên ở mức thấp hơn so với mức
giá năm gốc.



Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Cũng
có thể nói giảm phát là lạm phát với giá trị âm. Giảm phát thường xuất hiện khi
kinh tế suy thối hay đình đốn.
2. Phương pháp đo lường lạm phát
Để đo lường lạm phát người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng
phần trăm thay đổi của mức giá chung.

πt

=

Pt − Pt −1
× 100%
Pt −1

Trong đó:

πt
: Tỷ lệ lạm phát thời kỳ t (có thể tháng, quí, năm) .

Pt


: Mức giá chung của thời kỳ t.

2.1 Mức giá chung
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép


đo phổ biến của chỉ số lạm phát phụ thuộc vào mỗi nền kinh tế chọn chỉ tiêu nào
trong các chỉ tiêu dưới đây làm mức giá chung, Tuy nhiên, ở Việt Nam để tính chỉ
số lạm phát chúng ta thường chỉ quan tâm đến chỉ số điều chỉnh- DGDP Và chỉ số
giá tiêu dùng- CPI để đo lường mức giá chung.


Chỉ số điều chỉnh DGDP
Chỉ số điều chỉnh DGDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và GDP

thực tế.Nó phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá năm cơ sở. Chỉ số điều
chỉnh GDP ở những năm sau (thời kỳ sau) phản ánh sự gia tăng của GDP danh
nghĩa so với năm gốc, nó chỉ cho biết sự thay đổi sản lượng do giá thay đổi chứ
không cho biết sự gia tăng của GDP thực tế.

DGDP =

GDPnt
× 100
t
GDPr

Ví dụ: DGDPt = 120 có nghĩa là mức giá chung năm t tăng 20% so với năm trước.




Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá
nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một
cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay khơng việc một CPI
có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự
thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức
mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác
trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
• Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người
tiêu dùng thơng thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp,
những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát


thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc
chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh
định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đơi khi, các hợp đồng
lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh
định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm
hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
Chỉ số giá tiêu dùng- CPI đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hố và
dịch vụ mà một người tiêu dùng điển hình mua. CPI của một năm (thời kỳ) nào đó
chính là tỷ số giữa giá trị (chi phí) giỏ hàng của năm đó và giá trị (chi phí) giỏ hàng
của năm cơ sở nhân với 100.
Chỉ số giá tiêu dùng thường được dùng để theo dõi sự thay đổi của chi phí
sinh hoạt theo thời gian. Nó phản ánh xu thế và mức độ biến động của gía bán lẻ
hàng hố tiêu dùng và dịch vụ dùng trong sinh hoạt của dân cư và các hộ gia đình.
CPI tăng có nghĩa là mức giá trung bình tăng.
CPI được tính theo cơng thức:

n

CPI t

=

pit qi0

i =1
n

pi0 qi0


× 100

i =1

Trong đó:

CPI t

: Là chỉ số giá tiêu dùng năm t.

n: Số hàng hoá và dịch vụ của trong giỏ hàng hoá.


pit
pi0


qi0

: Là giá hàng hoá i thời kỳ (năm) t.

: Là giá hàng hoá i thời kỳ (năm) cơ sở.

: Là lượng hàng hoá của hàng hoá i trong năm cơ sở.

Ví dụ: CPIt = 150 có nghĩa là so với năm gốc thì mức giá chung đã tăng lên là
50%.
• Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được khơng
tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp
giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản
xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh tốn. Ở đây cũng có một
sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó
trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đốn gần đúng và có
khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm
nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt
quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
• Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán bn
(thơng thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống
với PPI.
• Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách
có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là
vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và
bạc.


• Chỉ số giảm phát (điều chỉnh) GDP dựa trên việc tính tốn của tổng sản
phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với

tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá
so sánh hay GDP thực). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các
phép khử lạm phát cũng tính tốn các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng
cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu
dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính tốn các chính sách kiềm chế
lạm phát của mình.
• Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách
tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17
tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này
đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng
chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".
So sánh chỉ số giá tiêu dùng CPI và chỉ số điều chỉnh DGDP
Cả hai đều đo lường mức giá chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số điều
chỉnh DGDP đo lường mức giá trung bình của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra ở trong nước, còn CPI đo lường mức giá trung bình của mọi
hàng hố, dịch vụ mà một mà một hộ gia đình/một người điển hình tiêu dùng.
CPI có được nhờ so sánh giá của một giỏ hàng hố và dịch vụ cố định ở năm
tính tốn so với năm cơ sở.Giỏ hàng này thường được cố định trong nhiều
năm.Trong khi đó DGDP có được nhờ so sánh gía của những hàng hố và dịch vụ
được sản xuất ra trong năm hiện hành với giá của những hàng hố ấy trong năm cơ
sở. Do vậy, nhóm hàng hố và dịch vụ dùng để tính DGDP ln thay đổi theo thời
gian. Nếu giá của tất cả hàng hoá và dịch vụ thay đổi với cùng một tỷ lệ thì có
đẳng thức: DGDP = CPI. Ngược lại DGDP # CPI.Thơng thường, CPI và tỷ lệ lạm


phát tỷ lệ thuận với giá lương thực, thực phẩm. Do giỏ hàng hoá, dịch vụ của
chúng ta lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn.
CPI không phải là thước đo chi phí sinh hoạt hồn hảo vì 3 lý do sau:
(1)


CPI khơng tính đến sự gia tăng sức mua của đồng tiền do sự xuất hiện

của hàng hoá mới đem lại.
(2)

Nó khơng đo lường được những thay đổi về chất lượng của hàng hoá

và dịch vụ trong giỏ hàng hóa tiêu dùng.
(3)

Nó khơng tính đến trường hợp người tiêu dùng sử dụng hàng hố

thay thế có giá rẻ hơn tương đối theo thời gian.
Trong thực tế ở Việt Nam, chúng ta thường hay sử dụng chỉ số giá tiêu dùng
hơn là chỉ số điều chỉnh DGDP hơn. Chỉ số giá tiêu dùng thường được sử dụng
nhằm điều chỉnh các biến số kinh tế để loại trừ ảnh hưởng của lạm phát.
2.2. Cơng thức tính tỷ lệ lạm phát như sau:

πt

CPIt − CPIt −1
=
× 100%
CPIt −1

Trong đó:

CPI t

: Là chỉ số giá tiêu dùng của năm t.


3. Phân loại lạm phát.
3.1 Định lượng
• Giảm phát ( Deflation)


Thiểu phát (Low inflation)



Lạm phát vừa phải ( Normal inflation)




Lạm phát phi mã ( High inflation)



Siêu lạm phát

 Thiểu phát

Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn
trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát
với giảm phát.
Khơng có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở
xuống thì được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở
mức 3-4 phần trăm một năm nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu
phát.

 Lạm phát vừa phải

Lạm phát vừa phải đặc trưng bởi giá cả tăng chậm và có thể đốn biết trước
được. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức một con số (lớn hơn 4%)
được coi là lạm phát vừa phải. Với lạm phát vừa phải là mức lạm phát bình thường
nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế.Trong trường hợp
này, lạm phát không phải là mối lo ngại. Mọi người vẫn sẵn sang giữ tiền để thực
hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn bằng đồng nội tệ.

 Lạm phát phi mã (Lạm phát cao)

Lạm phát phi mã là tình trạng tăng mức giá chung của nền kinh tế với tốc độ
hai hay ba chữ số một năm. Lạm phát phi mã là mức lạm phát nguy hiểm.Nếu nền
kinh tế trong tình trạng lạm phát phi mã trong một thời gian dài sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng.Đồng tiền bị mất giá nhanh, người ta chỉ giữ tiền
vừa đủ để thực hiện những giao dịch cần thiết cho nhu cầu hằng ngày. Tích trữ
hàng hố, mua bất động sản và sử dụng vàng và các đồng ngoại tệ mạnh để làm


phương tiện thanh tốn cho các giao dịch có giá trị lớn và tích luỹ tài sản trở nên an
tồn và được ưa chuộng. mức khơng kiểm sốt được như trường hợp siêu lạm
phát.
Việt Nam và các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoặch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực
hiện cải cách.
 Siêu lạm phát

Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", tỷ lệ lạm pháp đặc biệt cao, một
tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị.Khơng có định nghĩa
chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa đơn giản là

chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên. Trong cách dùng khơng chính thức thì
thuật ngữ này được áp dụng cho chỉ số lạm phát thấp hơn nhiều.
Siêu lạm phát có một số điều kiện để xảy ra như sau:
(1) Chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định.
(2) Nhiều cuộc siêu lạm phát xuất hiện sau chiến tranh do sự căng thẳng của
ngân sách chính phủ.
(3) Khủng hoảng nợ.
Đặc điểm chung của mọi nền kinh tế khi xảy ra siêu lạm phát là sự gia tăng
quá mức của cung tiền, do tài trợ thâm hụt ngân sách quá lớn. Khi lạm phát cao
xảy ra lại kéo theo tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn có thể khơng kiểm
sốt được. Do lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần
trăm so với GDP từ đó tiếp tục làm tăng thâm hụt ngân sách và đẩy lạm phát tiếp
tục leo thang. Người ta thường dùng bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là
người dân khơng muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; giá cả hàng hóa trong
nước khơng cịn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; các khoản tín
‘2dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; lãi suất, tiền


công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên
tới 100 phần trăm.
3.2 Định tính:


Lạm phát cân bằng (Balanced inflation)



Lạm phát khơng cân bằng (Unbalanced inflation)




Lạm phát dự đốn được ( Predicted inflation)



Lạm phát khơng dự đốn được ( Unpredicted inflation)

Lạm phát cân bằng và không cân bằng :
Lạm phát đợc gọi là cân bằng khi nó tăng tơng ứng với thu nhập . Nghĩa là sự
tồn tại của lạm phát , không ảnh hởng đến đời sống của nhân dân . Ngợc lại , lạm
phát không cân bằng khi nó tác động đến đời sống của ngời lao động .Nó làm cho
họ giàu hơn , nếu tỉ lệ lạm phát nhỏ hơn tỉ lệ tăng của thu nhập . Và làm cho họ
nghèo đi nếu tỉ lệ lạm phát lớn hơn tỉ lệ tăng của thu nhập trong giai đoạn ấy. Lạm
phát không cân bằng là loại xảy ra phổ biến nhất
Lạm phát dự đoán trớc và lạm phát bất thờng
Khi lạm phát xảy ra trong khoảng thời gian đủ dài , tâm lý và sự chờ đợi của
nhân dân đà trở thành quán tính , ngời ta đà sống quen dần với lạm phát . Những
năm tiếp theo trở đi , việc nền kinh tế sẽ có lạm phát với cùng tỉ lệ nh vậy là chuyện
bình thờng và gần nh đợc tin chắc , đợc đoán trớc , đợc chờ đợi . Ngời ta gọi đây là
lạm phát dự đoán trớc .Cũng có khi ngời ta có thể nhìn thấy trớc về lạm phát và tin
rằng nó sẽ xảy ra ,bởi các nguyên nhân của nó đà bộc lộ đầy đủ và rõ ràng . Trong
tình huống nh vậy , ngời ta cũng sẵn sàng chờ đợi và không bất ngờ khi lạm phát
xảy ra .Nhng nếu lạm phát bùng ra bất thình lình . Trớc đó không hề có . Ví dụ nh
nền kinh tế vốn quen với tỉ lệ lạm phát thấp , bỗng nhiên lạm phát vọt lên cao nh
Nhật vào năm 1978-1980 , tâm lý , cuộc sống và thói quen cđa mäi ngêi ®Ịu cha


thích nghi đợc với lạm phát . Ngời ta gọi đây là lạm phát bất thờng . Lạm phát bất
thờng dễ gây sốc cho cuộc sống và mọi ngời . Bởi nhân dân cha chuẩn bị về mặt
tâm lý và chi tiêu để sống thích nghi với việc tăng giá ®ét ngét .

4. Tác động của lạm phát,
T¸c ®éng kinh tế xà hội của lạm phát rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ lạm
phát và khả năng dự đoán chính xác sự biến động của mức lạm phát .Điều nguy
hiểm của lạm phát không chỉ nằm ở mức độ của lạm phát mà còn ở sự xuất hiện bất
ngờ của nó . Khi tỉ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính , nó tạo nên sự biến động
bất thờng về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thớc đo các quan hệ giá trị , ảnh
hởng đến mọi hoạt động của đời sống kinh tế x· héi .
4.1.Hiệu ứng tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát vừa phải sẽ
có lợi cho nền kinh tế.Ơng dùng từ "dầu bơi trơn" để miêu tả tác động tích cực của
lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu
để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở
rộng sản xuất.Việc làm được tạo thêm.Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
4.2.Hiệu ứng tiêu cực
Khi lạm phát xảy ra, thông thường thu nhập thực tế giảm đi, dân cư nghèo đi
một cách tương đối. Cuộc sống trở nên khó khăn hơn.
Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan trọng đến tổn thất mà lạm phát gây
ra cho xã hội.Theo tính chất của lạm phát chúng ta chia lạm phát làm hai loại là
lạm phát được dự tính trước và lạm phát khơng được dự tính trước.Với mỗi loại thì
tổn thất lại khác nhau.
4.2.1. Đối với lạm phát được dự tính trước
• Chi phí mịn giày (shoe-leather cost)


Chi phí thực đơn (menu cost)




Phân bổ sai nguồn lực




Nhầm lẫn và bất tiện



Méo mó do hệ thống thuế gây ra
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham

gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, mọi khoản vay cũng như hợp
đồng về các biến danh nghĩa đã được điều chỉnh phù hợp với lạm phát tuy vậy nó
vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội, đặc biệt là khi lạm phát ở mức cao.
Khi giá trị đồng tiền bị giảm sút một cách nhanh chóng nhưng được dự báo
trước, tiền dần mất đi chức năng là phương tiện trao đổi của mình.Trong tình hình
đó, người dân cố gắng để tránh phải nắm giữ tiền. Họ tiêu xài tiền ngay khi họ vừa
nhận được, các công ty trả lương ngay khi nhận được tiền từ bán hàng, Ví dụ như
những năm 1920, khi lạm phát ở Đức đạt đến mức lạm phát phi mã (trên 50% một
tháng), tiền lương được trả 2 lần mỗi ngày. Mặt khác, khi dự báo được mức lạm
phát sẽ tăng cao, người dân có xu hướng tìm kiếm một phương tiện thanh toán
khác thay thế cho tiền (ví dụ như dùng ngoại tệ). Trong những năm 1980, khi lạm
phát ở Israel đạt đến mức 1000% một năm, Đô la Mỹ trở thành một phần quan
trọng tổng cung tiền của đất nước. Ngoài ra, trong giai đoạn lạm phát cao được dự
báo trước, việc trao đổi hiện vật cũng trở nên nhiều hơn.
Các hoạt động bị thúc đẩy bởi lạm một mức lạm phát cao được dự báo trước
sẽ làm hao phí một lượng lớn thời gian có ích và những nguồn tài nguyên khác của
xã hội. Thay bì người dân tập trung vào những hoạt động mà họ có lợi thế cạnh
tranh nhằm tạo ra giá trị lớn nhất cho xã hội, họ lại có xu hướng tìm loay hoay tìm
kiếm những hoạt động hoặc cách thức để tránh bị thiệt hại khi lạm phát xảy ra.
Lạm phát được dự báo trước chỉ trở thành một vấn đề thực sự nghiêm trọng

khi nó xảy ra ở một tỷ lệ cao. Tuy nhiên cũng nhiều ví dụ về những bài học đắt giá
khi lạm phát xảy ra, đặc biệt ở Nam Mỹ như Argentina, Brazil, Bolivia hay ở Mỹ
trong giai đoạn những năm 70-80, khi mức lạm phát vượt quá con số 10% năm.


4.2.2. Đối với lạm phát không dự kiến được
Lạm phát không được dự báo trước là một vấn đề ngay cả ở mức lạm phát
thấp. Lạm phát không dự kiến trước làm tái phân phối lại một cái độc đoán của cải
giữa người đi vay và người cho vay, giữa chủ thuê lao động và người cho thuê lao
động. Một sự tăng lên ngoài dự kiến của mức lạm phát sẽ chuyển sức mua thật sự
từ người cho vay sang người đi vay, và ngược lại. Sự tăng lên ngoài dự kiến của
lạm phát sẽ làm giảm tiền lương thực, GDP thực và mức sử dụng lao động trong
khi sự giảm xuống ngoài dự kiến của lạm phát làm tăng tiền lương thực, GDP thực
và mức sử dụng lao động. Nhìn chung, lạm phát ngồi dự kiến gây ra những biến
động phức tạp trong tiền lương, GDP thực và tình hình kinh tế vĩ mơ của quốc gia
4.3. Ảnh hưởng của Lạm phát tới các biến số khác của nền kinh tế:
4..3.1. Lãi suất tăng lên

(Lạm phát và lãi suất danh ngha VN 2004-2012_ Tng cc thng kờ).
Tác động đầu tiên của lạm phát lên đời sống kinh tế xà hội là nó làm thay đổi
lÃi suất. Và vì lÃi suất ngày nay tác động đến nhiều mặt đến thu nhập , tiêu dùng ,
đầu t , cho nên thông qua lÃi suất , lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời
sống kinh tế vĩ mô và vi m« .
LS thực tế = LS danh nghĩa – Lạm phát


Để giữ cho tài sản nợ và có , có hiệu quả không đổi , hệ thống ngân hàng sẽ
luôn cố gắng giữ cho lÃi suất thực tế ổn định . Nhng v× l·i suÊt thùc tÕ b»ng l·i suÊt
danh nghĩa sau khi đà trừ đi tỉ lệ lạm phát . Nên nếu muốn cho lÃi suất thực tế
không đổi, lÃi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỉ lệ lạm phát .khi các ngân hàng

và hệ thống tài chính tăng lÃi suất danh nghĩa theo lạm phát , hậu quả mà nền kinh
tế phải gánh lấy là suy thoái và thất nghiệp gia tăng .Khi lÃi suất càng tăng thì đầu
t thực tế càng giảm .

Về mặt lâu dài , sự cân bằng trên thị trờng hàng hoá và tiền tệ sẽ kéo cả lạm
phát và lÃi suất xuống khi không có sự can thiệp của NHTƯ . Nhng cái giá phải trả
là tiềm năng sản xuất bị lÃng phí . Số việc làm giảm và đời sống nhân dân thêm khó
khăn .


4.3.2.Phân phối thu nhập quốc dân khơng bình đẳng,
Khi l¹m phát tăng lên , tổng thu nhâph danh nghĩa tăng lên , nhng
trong đó chứa đựng sự phân phối lại giữa các nhóm dân c với nhau , giữa giới chủ
và ngời làm công , giữa ngời đi vay và ngời cho vay và giữa chính phủ với ngời
đóng thuế . Nói chung lạm phát tác động đối với phân phối thu nhập ở mức đơ nào
cịn phải phụ thuộc ở nhiều yếu tố và nhiều nhóm tác nhân kinh tế. Khóa luận xin
nêu đưa ra 1 số hướng tác động như sau:
* Tác động tới người cho vay và người đi vay:
Khi nền kinh tế có lạm phát thì mối quan hệ giữa người vay và người cho vay được
xem xét theo lãi suất thực. Thu nhập được chuyển từ người đi vay sang người cho
vay khi lạm phát trong thực tế khác với mức lạm phát dự kiến và ngược lại.Chênh
lệch giữa lạm phát thực tế và lạm phát dự kiến càng cao thì mức độ phân phối càng
nhiều.
Muốn tránh được sự phân phối lại này thì quá trình cho vay phải được xác định
theo lãi suất thả nổi, mức lãi suất này phải luôn luôn được xác định theo công thức:
Lãi suất thả nổi= Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát


* Tác động giữa người hưởng lương và ơng chủ:
Nói chung tốc độ tăng tiền công hầu như chậm hơn so với tốc độ tăng của giá. Vì

vậy những người lao động hưởng lương bao giờ cũng bị thiệt thòi và người được
lợi là các ơng chủ. Q trình phân phối này chỉ không diễn ra khi tốc độ tăng của
tiền công bằng với tốc độ tăng của giá.
* Tác động giữa người mua và người bán tài sản tài chính
Đa số các loại tài sản tài chính có mức lãi suất danh nghĩa cố định. Như vậy khi có
lạm phát xảy ra người nắm trong tay lượng trái phiếu sẽ bị thiệt và người lợi sẽ là
người phát hành trái phiếu.
* Tác động giữa người mua và người bán tài sản thực
Những người bán tài sản thực để lấy tài sản tài chính hoặc tiền mặt trước khi lạm
phát xảy ra thì khi có lạm phát những người bán sẽ bị thiệt thòi và người được lợi
là người mua. Nếu lạm phát xảy ra thì người bán hàng trả góp cũng rất thiệt thịi…
nói chung thì phần thiệt của người bán được chuyển sang cho người mua.
* Tác động giữa các doanh nghiệp với nhau
Do tỷ lệ tăng giá hàng hóa trong khi lạm phát khơng giống nhau, vì vây những
doanh nghiệp nào mà sản xuất và tồn kho những mặt hàng có tỷ lệ tăng giá chậm
sẽ bị thiệt thịi.
* Giữa chính phủ và cơng chúng
Đa phần thì khi xảy ra lạm phát thu nhập của công chúng sẽ chuyển sang tay chính
phủ. Vì 3 lý do sau : (1) chính phủ nợ dân chủ yếu là dưới dạng tài sản tài chính và
món nợ này lại khơng nhỏ; (2) các khoản chi trả lương, trợ cấp… thường cố định
trong một thời gian dài, kể cả có thay đổi thì cũng khơng kịp tốc độ thay đổi của
giá; (3) các hoạt động thuế lũy tiến như thuế thu nhập, sẽ tăng lên nhanh chóng, vì
lạm phát đẩy thu nhập của dân chúng tăng lên và chịu ở mức thuế suất cao hơn.
Tác động chính của về phân phối lại của lạm phát xảy ra thông qua ảnh
hưởng của nó đối với giá trị thực trên của cải của mọi người. Nhìn chung “ lạm


phát khơng dự kiến được thường có xu hướng chuyển của cải từ tay người chủ nợ
sang tay con nợ, giúp người đi vay và làm thiệt người cho vay. Trong trường hợp
lạm phát giảm xuống không lường trước được thì sẽ có ảnh hưởng ngược lại. Tuy

nhiên lạm phát chỉ làm xáo trộn thu nhập và tài sản, phân phối lại thu nhập giữa
các nhóm dân cư một cách ngẫu nhiên với ảnh hưởng hầu như không đáng kế i
vi bt k mt nhúm riờng l no
Thông thờng đối tợng đi vay là các nhà kinh doanh . Thành phần cho vay cuối cùng
là nhân dân với các khoản tiền tiết kiệm nhỏ bé . Lạm phát làm cho các nhà kinh
doanh có đợc phần thu nhập tăng thêm do thiệt hại của các thành phần nhân
nghèo . Đời sống nhân dân lao động đà khó lại càng thêm khốn khó . Những ngời
thừa tiền và giàu có thì đầu cơ tài sản và hàng hoá , trong khi dân ngheò không đủ
khả năng để mua sắm hàng tiêu dùng cho một tháng thì họ có thể mua hàng núi
hàng để dự trữ , chờ giá lên tùng ra bán . Chính sự đầu cơ này càng làm cho cung
hàng hoá khan hiếm và giá cả càng lên cơn sốt . Cuối cùng là dân lao động không
mua nổi ngay cả hàng tiêu dùng cần thiết để sống , trong khi những kẻ đầu cơ bán
ra hàng hoá với giá cao và càng trở nên giàu có hơn . Lạm phát nh thế có thể dẫn
đến rối loạn kinh tế và làm cho hố ngăn cách thu nhập giữa ngời giàu và ngời nghèo
thêm lớn hơn . Quá trình phân phối lại thu nhập , do lạm phát thờng là không hợp lý
và làm tăng thêm sự bất bình đẳng.

4.3.3.nh hng ti cỏn cõn thanh toỏn quc t
Lạm phát làm cho chính phủ đợc lợi nhiều hơn từ thuế thu nhập đánh vào
nhân dân . Chính phần thu nhập thực tế mà nhân dân mất đi đà chạy vào ngân sách
của chính phủ , thì ngợc lại , trong quan hệ kinh tế đối ngoại , những khoản nợ quốc
gia của chính phủ đối với các nớc sẽ trở nên trầm trọng hơn . Chính phủ đợc lợi
trong nớc nhng lại bị thiệt đối với nợ nớc ngoài . Vì lạm phát làm tỉ giá hối đoái
tăng và đồng tiền trong nớc trở nên mất giá nhanh hơn so víi tiền tƯ níc ngoµi tÝnh


trên các khoản nợ . Nếu lạm phát trong nớc không đổi , lạm phát ở nớc ngoài tăng
cao . Tình trạng đó sẽ làm cho đồng tiền nội địa lên giá và chính phủ sẽ vui mừng
vì các khoản nợ nớc ngoài nhỏ lại . Tuy nhiên ,cái lợi từ việc giảm các khoản nợ
không thể bù đợc các khoản thiệt hại xuất khẩu và sản lợng .


4.3.4Lm phỏt v thu nhp thc t
Lạm phát không chỉ làm hao mòn giá trị của tài sản không có lÃi tức
tiền mặt ,nó còn làm hao mòn cả những tài sản có lÃi .Thuế thì đợc ấn định cho một
năm hoặc nhiều năm . Nên trong thời hạn ngắn hạn nó rất khó điều chỉnh . Trong
khi lạm phát có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào . Vì vậy vô hình chung , khi lạm phát


xảy ra càng chất thêm gánh nặng thuế thu nhập và các loại thuế khác lên ngời lao
động . Kết quả là lạm phát càng cao , thu nhập thực tế của nhân dân càng giảm .
Đời sống của họ càng khó khăn hơn . Ngay cả khi lÃi suất và tiền lơng đợc điều
chỉnh theo cùng tỉ lệ lạm ph¸t .
4.3.5Lạm phát và thất nghiệp
Ngày nay, khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, người ta
thường sử dụng đường cong Phillip, tên nhà kinh tế học người New Zealand, người
đặt nền móng cho việc nghiên cứu mối quan hệ này từ năm 1958. Tuy nhiên,
đường cong Phillip hiện đại khác với đường Phillip ban đầu ở chỗ: đường Phillip
hiện đại phản ánh quan hệ giữa lạm phát giá cả và thất nghiệp chứ không phải giữa
lạm phát tiền lương và thất nghiệp; đường Phillip hiện đại có tính đến tỷ lệ lạm
phát dự kiến cũng như cú sốc cung. Trong phân tích sau đây, chúng ta sẽ sử dụng
đường cong Phillip hiện đại cho phù hợp với thực tiễn kinh tế các nước.
Trong ngắn hạn
Đường cong Phillip trong ngắn hạn cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và
thất nghiệp khi tỷ lệ lạm phát dự kiến của nền kinh tế ở một mức nhất định. Đến
đây, cần nói qua về khái niệm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Đó là tỷ lệ thất nghiệp khi
thị trường lao động ở trạng thái cân bằng. Số người thất nghiệp lúc đó bằng tổng số
người thất nghiệp tự nguyện. Trong ngắn hạn, quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
là tỷ lệ nghịch, tức là có thể đánh đổi lạm phát cao để lấy thất nghiệp thấp. Nếu
lạm phát tăng cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (ei) thì thất nghiệp sẽ giảm xuống
thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (UN) và ngược lại. Đường Phillip ngắn hạn sẽ

dịch chuyển khi một trong hai yếu tố tỷ lệ lạm phát dự kiến hoặc tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên thay đổi. Khi tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng từ U N đến UN1 thì đường
Phillip mới là là đường (P1). Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm xuống
ei’, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên khơng đổi thì đường Phillip dịch chuyển sang (P')
(xem hình 4).


Đường Phillip ngắn hạn chỉ thể hiện sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm
phát khi có các cơn sốt cầu (cầu tăng dẫn đến giá tăng cao, sản xuất tăng và thất
nghiệp giảm); còn khi xuất hiện các cơn sốt cung, chi phí sản xuất tăng, sản xuất bị
thu hẹp làm cho giá cả tăng và thất nghiệp cũng tăng.

Tỷ lệ lạm phát
Hình 4: Đường Phillip ngắn hạn và dài hạn
UN
UN1
Tỷ lệ thất nghiệp
ei'
ei
(P)
(P1)
Đường Phillip dài hạn
(P')
Đường Phillip ngắn hạn


Dựa vào đường Phillip ngắn hạn, các nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn
chính sách kinh tế vĩ mơ (nhất là chính sách tài chính, tiền tệ). Chẳng hạn, khi nền
kinh tế gặp phải lạm phát cao, chính phủ theo đuổi mục tiêu giảm lạm phát sẽ thắt
chặt chính sách tiền tệ (tăng lãi suất, giảm chi tiêu chính phủ...) và thất nghiệp sẽ

gia tăng. Ngược lại, nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng thì
chính phủ lại kích cầu đầu tư và tiêu dùng để giảm thất nghiệp nhưng phải chấp
nhận lạm phát cao.
Trong dài hạn
Đường Phillip dài hạn là một đường thẳng song song với trục biểu diễn tỷ lệ
lạm phát và cắt trục hồnh tại điểm có tỷ lệ lạm phát tự nhiên (U N). Về lâu dài, tỷ
lệ thất nghiệp thực tế bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên do tác động của các chính
sách tài khóa, tiền tệ, dù tỷ lệ lạm phát thay đổi ra sao. Như vậy, không tồn tại mối
quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn.
Mối tương quan nghịch giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp cho thấy nền kinh
tế luôn phải đối mặt với sự hi sinh, đánh đổi giữa hai chỉ tiêu này.Việc đạt được cả
hai chỉ tiêu đều thấp có thể nói là điều khơng tưởng.Tuy nhiên có một điều đáng
lưu tâm là tình trạng “lạm phát đi kèm suy thối”. Thơng thường đó là do các cú
sốc cung trực tiếp tác động lên chi phí sản xuất của hàng hoá, dịch vụ. Xét cú sốc
cung bất lợi, chi phí tăng lên làm đẩy tổng cung dịch trái đồng nghĩa giá cả tăng và
sản lượng giảm. Tình trạng này chính là lạm phát gia tăng nhưng thất nghiệp cũng
gia tăng. Chúng ta phải chấp nhận mức lạm phát cao hơn ở mỗi mức thất nghiệp
như trước.Khi này nền kinh tế rơi vào tình trạng “tiến thối lưỡng nan”.Lúc này
nếu cắt giảm tổng cầu để chống lạm phát sẽ đẩy nền kinh tế lún sâu vào lạm phát


và thất nghiệp. Nhưng sử dụng biện pháp kích cầu để cắt giảm thất nghiệp thì sẽ
đẩy lạm phát tiếp tục tăng lên.
5. Nguyên nhân của lạm phát

Điều gì gây ra lạm phát là một câu hỏi phổ biến, song các nhà kinh tế vẫn cịn
những bất đồng. Có nhiều lý thuyết giải thích về nguyên nhân gây ra lạm phát mà
dưới đây chúng ta sẽgiới thiệu những lý thuyết chính.
5.1. Lạm phát do cầu kéo
 Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc

vượt quá mức tự nhiên. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa
vào nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một mức
cầu quá cao. Theo lý thuyết này nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích
do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Tuy nhiên để cho định nghĩa
này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao chi tiêu lại liên tục lớn hơn
mức sản xuất. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các thành tố của tổng cầu.
o AD tăng có thể do các yếu tố sau tăng:
Tiêu dùng tăng cao (C)
Đầu tư tăng cao (I)
Chi tiêu chính phủ tăng cao (G)
Xuất khẩu tăng cao (NX)
• Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu
dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh
tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và
ngược lại. Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu
tư: sự lạc quan của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá
tăng lên. Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá
mức trong các chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng
chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng.
Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương trình chi tiêu cơng cộng,
hoặc các cơng trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm.


×