Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thực chất của quá trình đổi mới ở việt nam những thành tựu và bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.89 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM........................................................2
1.1. Lý luận về đổi mới............................................................................2
1.1.1. Khái niệm đổi mới.......................................................................2
1.1.2. Tiền đề đổi mới theo quan điểm của Lenin.................................2
1.2. Đổi mới kinh tế và quá trình đổi mới kinh tế tại Việt Nam..........5
1.2.1. Đổi mới kinh tế............................................................................5
1.2.2. Quá trình đổi mới kinh tế tại Việt Nam.......................................6
1.3. Đổi mới chính trị............................................................................10
1.3.1. Khái niệm đổi mới chính trị......................................................10
1.3.2. Qua điểm đổi mới chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam.......10
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH 35 NĂM ĐỔI MỚI TẠI
VIỆT NAM.................................................................................................11
2.1. Bản chất, nhiệm vụ và cơ sở của công cuộc đổi mới tại Việt Nam
.................................................................................................................11
2.1.1. Bản chất và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới tại Việt Nam.....11
2.1.2. Động lực của quá trình đổi mới.................................................13
2.2. Một số thành tựu và bài học kinh nghiệm của quá trình đổi mới
tại Việt Nam...........................................................................................15
2.2.1. Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới đất nước............15
2.2.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình đổi mới tại
Việt Nam.............................................................................................19
i


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ĐỔI MỚI VÀ ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. .22
3.1. Đối với đổi mới kinh tế...................................................................22
3.2. Đối với ổn định chính trị:..............................................................23


PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................27

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới ở nước ta thực chất là một cuộc cách mạng mới, sâu
sắc, tồn diện; trong đó, đồng thời với đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị với
bước đi, hình thức phù hợp và đã đem lại hiệu quả thiết thực. Nhưng, để thực
hiện mưu đồ chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực cơ hội, thù địch,
họ cố tình khơng thừa nhận và ra sức xun tạc về cái gọi là “đổi mới kinh tế
đến mức không thể khơng thay đổi chế độ chính trị”. Luận điệu đó cần được
nhận diện rõ và kiên quyết đấu tranh.
Để thực hiện âm mưu chống phá, các thế lực cơ hội, thù địch tập trung
vào những vấn đề mang tính ý thức hệ, điển hình là quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Họ viện dẫn lý luận Mác - Lênin: quan hệ
sản xuất chịu sự chi phối, quyết định của lực lượng sản xuất, khi lực lượng
sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất tất yếu phải đổi mới cho phù hợp.
Theo đó, sau 35 năm đổi mới kinh tế, quan hệ sản xuất tại Việt Nam đã thay
đổi tới mức “không thể không thay đổi chế độ chính trị”; vì vậy, cần thay đổi
chế độ chính trị hiện nay bằng một chế độ chính trị khác. Cho nên, họ đã
xuyên tạc về chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta bằng luận điệu: đã chấp nhận kinh tế thị trường thì phải vận
hành và tuân thủ theo quy luật của thị trường, nhưng kinh tế thị trường Việt
Nam lại bị kìm kẹp bởi “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Do đó, qua q trình
học tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Thực chất của quá trình đổi
mới ở Việt Nam. Những thành tựu và bài học kinh nghiệm” để làm rõ luận
điểm này.


1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Lý luận về đổi mới
1.1.1. Khái niệm đổi mới
Đổi Mới là một chương trình cải cách tồn diện bao gồm kinh tế và
nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi mới được chính thức thực hiện từ
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986.
Đổi mới về kinh tế được thực hiện song song với Đổi mới trên các mặt
khác như hành chính, chính trị, văn hóa, giáo dục... Tuy nhiên chính trị Việt
Nam chỉ có những thay đổi rất nhỏ và chưa nhanh chóng so với nền kinh tế
mà nó vẫn giữ ngun mơ hình chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản theo
chủ nghĩa Marx-Lenin.
Đổi mới ở Việt Nam tương tự chính sách kinh tế mới của Liên Xơ giai
đoạn Lenin lãnh đạo (1921-1924), Cải Cách Khai Phóng ở Trung Quốc và
Đổi mới ở Lào. Công cuộc Đổi mới tại Việt Nam sau năm 1986 được xem là
sự áp dụng lại mơ hình NEP của Lenin.
Các quan điểm về Đổi mới kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc dựa
chủ yếu trên các kinh nghiệm cải cách của các nước Đơng Âu, nhưng ở Việt
Nam và Trung Quốc thì Đổi mới xuất phát từ lĩnh vực kinh tế, không đi kèm
với những biến động lớn về mặt chính trị - ý thức hệ và xã hội
1.1.2. Tiền đề đổi mới theo quan điểm của Lenin
Theo lý luận của Lenin thì chủ nghĩa xã hội là bước chuyển giữa chủ
nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Để khôi phục nền kinh tế Nga sau
nội chiến, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP) là một mơ hình kinh
tế hỗn hợp, đan xen giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với kinh tế tư bản

tư nhân. Theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các
2


ngành cơng nghiệp nhà nước đó sẽ hồn tồn tự do đưa ra các quyết định kinh
tế của mình. Đồng thời Lenin cũng đưa ra ý tưởng về việc áp dụng chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước vào nước Nga mà theo ông "Chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là
phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội" và "chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có
tính chất tập trung, được tính tốn, được kiểm soát và được xã hội hoá".
Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mơ hình kinh tế
chỉ huy dựa trên ý tưởng của Lenin. Những người theo chủ nghĩa Stalin
(không nhầm lẫn với chủ nghĩa Marx nguyên bản) nhiều lần nhấn mạnh rằng
cơ chế thị trường là một cơ chế hoạt động kém, cần phải được thay bằng cơ
chế kế hoạch hóa có ý thức.
Ngồi Lenin và những người kế thừa ơng, nhiều nhà kinh tế cũng quan
tâm đến kế hoạch hóa nền kinh tế và việc kết hợp giữa thị trường và kế hoạch.
Năm 1901, Vilfredo Pareto xuất bản tác phẩm Sistemi Socialisti xem xét các
mơ hình đáp ứng các u cầu kinh tế - xã hội mang tính xã hội chủ nghĩa của
ông. Những lý luận đầu tiên về chủ nghĩa xã hội thị trường được nhà kinh tế
Enrico Barone người Ý nêu ra vào năm 1908 trong tác phẩm "Il Ministro
della Produzione nello Stato Collettivista", tạp chí Giornale degli Economisti,
số 2, tháng Chín-Mười, trang 267-293. Barone đã đưa ra một mơ hình tốn về
một nền kinh tế tập thể, theo đó các quan hệ tiền tệ hàng hóa trong nền kinh tế
đều có thể tính tốn được và từ đó có thể điều chỉnh để sao cho phúc lợi tập
thể đạt mức tối ưu. Năm 1929, Fred Manville Taylor người Mỹ trong cơng
trình "The Guidance of Production in a Socialist State" đã nêu ra những điều
kiện để nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể, về mặt lý thuyết, đạt được hiệu
quả trong phân phối nguồn lực.
Trên cơ sở mô hình của Barone, vào năm 1936 nhà kinh tế người Ba

Lan Oskar Ryszard Lange đã công bố cuốn sách của mình mang tên Lý thuyết
kinh tế về chủ nghĩa xã hội trong đó ơng kết hợp kinh tế học Marxist với kinh
3


tế học tân cổ điển. Lange ủng hộ việc sử dụng các công cụ thị trường (giá cả)
và đồng thời ủng hộ việc kế hoạch hóa. Lange cho rằng các nhà làm kế hoạch
có thể tính tốn và đặt ra các mức giá và chờ đợi phản ứng của thị trường để
điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy nền kinh tế sẽ có hiệu quả cao hơn thay vì
để cho thị trường quyết định hoàn toàn. Lange đã phác họa một nền kinh tế
mà các công ty sở hữu công cộng có thể tối đa hóa lợi nhuận của mình hoặc
hoạt động theo cơng thức tối ưu hóa gần như thế. Cơ quan kế hoạch trung
ương cố gắng thiết lập các giá cả cân bằng và làm trong sạch thị trường bằng
cách mô phỏng cơ chế thị trường: khi thấy nhu cầu tăng, nó tăng giá lên và
khi thấy nhu cầu giảm, nó giảm giá xuống. Ơng khẳng định rằng một hệ thống
như vậy có khả năng cân bằng giữa cung và cầu.
Tuy nhiên, Friedrich von Hayek đã bác bỏ tư tưởng trên của Lange
bằng lập luận: vấn đề lớn thực sự của chủ nghĩa xã hội không phải là việc liệu
nó có thiết lập được giá cả cân bằng hay khơng mà là vấn đề có những động
cơ khuyến khích gì để thu thập và áp dụng nhanh chóng những thông tin nhất
thiết là tản mạn, lẫn lộn ở nhiều chỗ khác nhau. Những thơng tin tản mạn đó
được Hayek gọi là tri thức riêng phần, những tri thức được sở hữu và chỉ được
sử dụng tốt nhất bởi mỗi cá nhân. Trong bài luận "Sử dụng tri thức trong xã
hội" (The Use of Knowledge in Society) đăng trên chuyên san American
Economic Review năm 1945, Hayek cho thấy rằng kế hoạch hóa kinh tế tỏ ra
kém hiệu quả hơn so với tự do hóa kinh tế bởi vì kế hoạch hóa khơng thể giải
được bài tốn của hệ thống giá cả là một hệ thống tự phát giúp con người
truyền tải tri thức cần thiết từ người này sang người khác để phối hợp với kế
hoạch cá nhân riêng rẽ. Giá cả có thể xem như là một hệ thống thông tin tự
nhiên điều chỉnh hành vi của các cá nhân và tổ chức tham gia vào nền kinh tế

từ đó dẫn đến sự cân bằng cung cầu. Đây là điều chưa có cơ quan kế hoạch
hóa kinh tế nào làm nổi. Chính vì thế, Hayek chủ trương rằng cần phải để nền
kinh tế hoạt động tự do trên nguyên tắc của cơ chế thị trường.
4


Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy Chủ
nghĩa xã hội kết hợp với yếu tố thị trường còn được gọi là Con đường thứ ba
để phân biệt với hai con đường khác là kinh tế thị trường tự do (hay kinh tế tư
bản chủ nghĩa) và kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các nước Đông Âu và Liên
Xô cũ đã rời bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa để chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự can thiệp của nhà nước. Các nước tư bản phát triển như Mỹ,
Anh, Đức, Pháp và Nhật trong thế kỷ XX cũng điều chỉnh mơ hình kinh tế
theo hướng tăng cường sự can thiệp của bộ máy nhà nước (kinh tế hỗn hợp).
Nước Mỹ ngày nay, một tượng đài của chủ nghĩa tư bản, cũng khơng cịn là
Kinh tế thị trường tự do như trước mà là một nền kinh tế hỗn hợp trong đó
nhà nước "đưa ra những ưu đãi hoặc ngăn cản chẳng với một nguyên tắc rõ
ràng và nhất quán nào". Chủ nghĩa xã hội thị trường là đường lối phát triển
kinh tế chủ đạo của một số nước phát triển tại Bắc Âu như Thụy Điển, Phần
Lan, Đan Mạch...
1.2. Đổi mới kinh tế và quá trình đổi mới kinh tế tại Việt Nam
1.2.1. Đổi mới kinh tế
Quan điểm Đổi mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình
thực hiện. Ngày nay, Đổi mới về kinh tế được Nhà nước Việt Nam định nghĩa
là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm
Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành
phần kinh tế (Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX quy

định có 6 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi), nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở

5


hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp). Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò
chủ đạo.
Cơ chế kinh tế là kinh tế thị trường xã hội, một trường phái kinh tế học
mà đại biểu tiêu biểu của nó là Paul Samuelson- Nobel kinh tế năm 1970- với
lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp. Luận điểm của nó là nền kinh tế thị trường
nhưng có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi hai bàn
tay: thị trường và Nhà nước. Điều này có ưu điểm là nó phát huy tính tối ưu
trong phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa hóa lợi nhuận thông qua cạnh tranh,
mặt khác, sự quản lý của Nhà nước giúp tránh được những thất bại của thị
trường như lạm phát, phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế...
Định hướng xã hội chủ nghĩa: Theo quan điểm trước Đổi mới, Nhà
nước Việt Nam cho rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản
và hoạt động không tốt. Sau Đổi mới, quan điểm của Nhà nước Việt Nam là
kinh tế thị trường là thành tựu của lồi người, khơng mâu thuẫn với chủ nghĩa
xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là vẫn giữ vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế, vì theo quan điểm của chủ nghĩa Marx về
chủ nghĩa xã hội thì mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu toàn dân và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước đại diện cho nhân dân.
1.2.2. Quá trình đổi mới kinh tế tại Việt Nam
Số doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước ở Việt Nam từ chỗ có hơn
12.000, đến năm 2001 giảm xuống cịn 5.655 doanh nghiệp, và đến thời điểm
tháng 10 năm 2016 chỉ cịn 718 doanh nghiệp[12]. Theo kế hoạch của chính
phủ Việt Nam, đến năm 2020, Việt Nam chỉ còn 103 doanh nghiệp 100% vốn

Nhà nước chủ yếu ở các ngành cơng nghiệp quốc phịng, xuất bản, thủy lợi,
dịch vụ cơng cộng và một số tập đoàn lớn quan trọng đối với nền kinh tế chủ
yếu thuộc các ngành độc quyền tự nhiên như Dầu khí, Điện lực và Viễn
thơng.
6


Bước đột phá đầu tiên là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IV (8/1979) với chủ trương động viên, khuyến khích
mọi người lao động, mọi năng lực sản xuất và thành phần kinh tế. Chỉ thị số
100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/1/1981 về khốn sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã tạo ra bước phát
triển to lớn trong sản xuất nông nghiệp. Quyết định 25-CP và 26-CP ngày
21/1/1981 của Chính phủ cho phép các đơn vị kinh tế quốc doanh xây dựng
và thực hiện 3 kế hoạch đã tạo bước chuyển biến trong sản xuất công nghiệp
Giai đoạn, đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội nổ ra, lạm
phát tăng lên mức phi mã đặc biệt sau hai cuộc tổng điều chỉnh giá-lươngtiền.
Từ 12 đến 19 tháng 7 năm 1983, lúc Lê Duẩn đi nghỉ ở Liên Xô cũ; ba
vị lãnh đạo cấp cao của Việt Nam là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ
Chí Cơng đang nghỉ ở Đà Lạt, Nguyễn Văn Linh (lúc đó là Bí thư Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh) đã tổ chức "Hội nghị Đà Lạt" - Ông và một số
Giám đốc các cơ sở kinh doanh sản xuất làm ăn có lãi đã trực tiếp gặp gỡ các
vị lãnh đạo cấp cao (từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 7) để báo cáo tình hình sản
xuất, kinh doanh và đề đạt nguyện vọng. Ngày 17 tháng 7, Nguyễn Văn Linh
mời các vị lãnh đạo thăm cơ sở chế biến tơ tằm và xí nghiệp chè của Thành
phố Hồ Chí Minh tại Bảo Lộc. Ngày 19 tháng 7, Nguyễn Văn Linh có buổi
làm việc riêng với các vị lãnh đạo này, ông đã báo cáo tất cả tâm tư mà cá
nhân mình đang nung nấu. "Hội nghị Đà Lạt" diễn ra trong thời gian vừa
đúng một tuần lễ. Nội dung tư tưởng của các cuộc gặp trong sự kiện này đã
được Nguyễn Văn Linh vận dụng vào việc chuẩn bị văn kiện Đại hội Đảng VI

của Đảng Cộng sản Việt Nam - Khởi xướng công cuộc Đổi mới của Việt
Nam.
1986: Sau khi Lê Duẩn qua đời, Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư
chính thức phát động cơng cuộc Đổi mới. Đại hội đại biểu tồn quốc lần VI
7


của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức thực hiện Đổi mới, bắt đầu thực
hiện cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa.
1/3/1987: giải thể các trạm kiểm sốt hàng hóa trên các tuyến đường
nhằm thúc đẩy lưu thơng hàng hóa.
18/5/1987: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Đỗ Mười sang thăm Liên Xô. Gorbachyov giục Việt Nam cải cách kể
cả thông thương với các nước tư bản.
29/12/1987: Nhà nước Việt Nam ban hành Luật đầu tư nước ngồi tại
Việt Nam[16]
5/4/1988: Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ về Đổi mới quản lý kinh tế
nơng nghiệp (hay cịn gọi là Khốn 10).
24/5/1988: 19 tỉnh miền Bắc đói to. Chính quyền chính thức yêu cầu
Liên Hợp Quốc viện trợ nhân đạo khẩn cấp.
12/6/1988: Nghị quyết bỏ hẳn chính sách hợp tác hóa nơng nghiệp để
tăng gia sản xuất.
1989 Việt Nam đã xuất khấu gạo đứng thứ 3 thế giới (sau Thái Lan và
Hoa Kỳ)
1989: Trung Quốc xảy ra sự kiện Thiên An Môn. Năm 1991, Liên Xô
sụp đổ. Tuy nhiên, sau khi đánh giá về các sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt
Nam quyết định tiếp tục Đổi mới theo con đường đã chọn và vẫn thực hiện
chủ nghĩa xã hội.
1990: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời nhằm thể chế
hóa chính thức và đầy đủ hơn chủ trương phát triển kinh tế tư nhân. Bắt đầu

có chủ trương thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Tháng 5 năm 1990: pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp
lệnh ngân hàng chính thức chuyển ngân hàng từ một cấp sang hai cấp.
8


1990: Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
1993: Bình thường hóa quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính quốc
tế.
1995: Bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ.
1995: Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
2000: Luật Doanh nghiệp ra đời.
2001: ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ký kết Hiệp định
Thương mại Việt-Mỹ.
2002: tự do hóa lãi suất cho vay VNĐ cho các tổ chức tín dụng.
2005: Luật Cạnh tranh chính thức có hiệu lực.
2006: Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt
Nam chấp nhận cho đảng viên làm kinh tế tư nhân.
7/11/2006: Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 (năm 2016)
quyết định thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối
với doanh nghiệp nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà
nước và chức năng quản lý nhà nước; sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở
hữu nhà nước của các Bộ, Ủy ban Nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại
các doanh nghiệp.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2016) nêu
"Hồn thiện cơ chế, chính sách để tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư
nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế. Hồn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp

nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn
9


kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đồn kinh tế nhà
nước, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế".
Năm 2017, Quân đội Nhân dân Việt Nam có kế hoạch sắp xếp lại hệ
thống doanh nghiệp do quân đội sở hữu chỉ còn 17 doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước, 12 cơng ty cổ phần có vốn nhà nước do Bộ Quốc phòng quản lý
(nhà nước giữ trên 51% cổ phần đến năm 2019); thực sự là các doanh nghiệp
cần thiết cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
1.3. Đổi mới chính trị
1.3.1. Khái niệm đổi mới chính trị
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
đổi mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận
hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ
vững ổn đinh chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh;
thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển
kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.3.2. Qua điểm đổi mới chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam
Trong quá trình Đổi mới Việt Nam luôn đưa mục tiêu giữ vững độc lập,
tự chủ và ổn định chính trị lên hàng đầu để bảo đảm sự thành công của Đổi
mới. Việt Nam vẫn chưa chấp nhận nền dân chủ theo mơ hình phương Tây và
vẫn đàn áp các cá nhân chỉ trích nhà nước hoặc đòi đa nguyên đa đảng tuy
rằng những cá nhân này chưa chứng tỏ được họ đủ năng lực thay đổi bất cứ
điều gì hoặc có thể làm tốt hơn nhà nước hiện nay. Mặc dù vậy ngay trong nội
bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đã xuất hiện tình trạng "phai nhạt lý tưởng cách
mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
10


Minh. Xa rời tơn chỉ, mục đích của Đảng; khơng kiên định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái."
Nhìn chung nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách chính trị và
dân chủ hóa đất nước ở mức không đe dọa tới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì Đổi mới khơng phải
là từ bỏ việc thực hiện chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ
quyền lãnh đạo duy nhất. Đổi mới chỉ là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp tác
với các nước xã hội chủ nghĩa sang chú trọng quan hệ hợp tác đa phương, làm
bạn với tất cả các nước, trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, khơng can
thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ
với Mỹ, gia nhập các tổ chức khu vực ASEAN, APEC, WTO...
Năm 1994 bắt đầu thực hiện chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với
các thành viên Chính phủ.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Chỉ
thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đại hội Đảng lần X lần đầu tiên lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các
tầng lớp nhân dân, lần đầu tiên cho phép Đảng viên tự ứng cử vào Ban Chấp
hành Trung ương Đảng.
Năm 2013, nhà nước Việt Nam lần đầu tiên lấy ý kiến nhân dân về dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

11



CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH 35 NĂM ĐỔI MỚI
TẠI VIỆT NAM
2.1. Bản chất, nhiệm vụ và cơ sở của công cuộc đổi mới tại Việt Nam
2.1.1. Bản chất và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới tại Việt Nam
Đổi mới là một cuộc vận động mang tính cách mạng không ngừng để
thay cái cũ bằng cái mới tốt hơn. Khơng phải bây giờ mà trong q trình cách
mạng, chúng ta luôn thực hiện sự đổi mới. Công cuộc đổi mới lần này mang
tính tồn diện, tổng thể, sâu sắc, liên tục và được chuẩn bị có bài bản. Đổi
mới là công việc của chúng ta, theo cách thức và bước đi của ta. Đổi mới là
công cuộc sáng tạo mang tính tất yếu. Cơng cuộc đó phải được triển khai một
cách sâu rộng và đồng bộ, nhưng phải cân nhắc từng đường đi nước bước cụ
thể, chắc chắn.
Đổi mới vừa là sự thay thế cái cũ, vừa là sự chọn lựa cái cũ, cái hiện
đang còn tác dụng để cải biến cho nó trở nên thích dụng hơn. Đổi mới có thể
coi là một sự phủ định biện chứng: Không bao giờ phủ định sạch trơn và
không bao giờ quay lại cái cũ. Đổi mới đồng bộ, hài hòa giữa kinh tế và chính
trị với mục tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đổi mới để phát triển, đồng nghĩa với phát triển, nhưng là sự phát triển
trong thế ổn định, sự phát triển theo đúng định hướng và con đường mà chúng
ta đã chọn. Có người khuyên ta: cần tư nhân hóa nhanh hơn, hội nhập thương
mại nhanh hơn, phá giá đồng tiền mạnh hơn. Lời khuyên đó dẫu có chân
thành thì chúng ta cũng khơng thể làm như thế. Bởi vì, hơn ai hết, chúng ta
hiểu rõ tình hình thực tế của đất nước mình, và đặc biệt quan trọng là chúng ta
thực hiện đổi mới nhưng có ngun tắc, đổi mới nhưng khơng thay đổi bản
chất chế độ xã hội. Đổi mới là thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, nhưng trong khi thực hiện cơ chế
thị trường, Nhà nước phải quản lý và điều hành theo định hướng xã hội chủ
12



nghĩa, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường; đổi mới để phát triển kinh tế,
nhưng sự phát triển đó phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục
tình trạng phân hóa giàu nghèo. Đổi mới có yêu cầu và gắn với mở cửa, hội
nhập. Đổi mới có u cầu và gắn với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Tồn bộ cơng cuộc hội nhập, mở cửa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước là để thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền
vững; là để xây dựng và tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; là để nâng tầm đất nước lên trình độ mới,
tầm cao mới. Vậy nên đổi mới chính là để hướng tới chủ nghĩa xã hội, để hiện
thực quá độ lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác lập rõ ràng hơn.
Đổi mới và cải cách có cùng nội dung hướng tới cái mới, cái tốt đẹp
hơn. Nhưng cải cách thường được hiểu là những hành động nhất định, những
cuộc vận động nhất định nhằm những mục tiêu nhất định. Khi những hành
động cải cách ấy, những cuộc vận động, cải cách ấy đã đạt tới mục tiêu đề ra
thì phải có hành động cải cách mới, cuộc vận động, cải cách mới. Còn đổi
mới, theo cách hiểu của chúng ta, tuy cũng nhằm những mục tiêu nhất định
trong những thời kỳ nhất định, song do bản chất và tính tất yếu của nó, lại là
một quá trình lâu dài. Đổi mới như một dòng chảy liên tục, vận động liên tục
của cả guồng máy xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, phát động
và lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Các Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và XIII
của Đảng đều khẳng định tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới để đưa đất
nước đi lên. Lời hiệu triệu đó rất phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và ý
nguyện của nhân dân.
2.1.2. Động lực của quá trình đổi mới.
Nếu quan niệm động lực, nguồn là những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc
đẩy sự phát triển, thì động lực của đổi mới bao gồm nhiều yếu tố tiềm ẩn và
hiển hiện có thể nhận biết được.


13


Một là, yếu tố khơi nguồn động lực của đổi mới chính là việc định
hướng đúng, phát động đúng thời điểm. Chúng ta xác định đổi mới phải theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng đúng đắn cho sự nghiệp đổi mới
vừa hợp thời, hợp quy luật, hợp lòng dân, vừa có sự chắc chắn, vững tin.
Chuẩn bị kỹ và phát động đổi mới đúng lúc, đồng thời với mở cửa hội nhập
nên chúng ta có thể chủ động và sáng tạo trong mọi tình huống, đã đứng vững
và phát triển trong khi cải tổ, cải cách ở Liên Xô và Đông Âu bị thất bại.
Hai là, những thành quả của đổi mới lại tiếp thêm luồng sinh khí mới,
tăng thêm động lực cho nó, tạo cho đất nước ta thế mới, lực mới, gia tốc mới.
Thế mới và lực mới là tổng hợp những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, là
kết quả của việc phát triển mọi mặt với sự thơng thống trong nước và mở
rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài. Gia tốc mới là khả năng vượt trội, là độ
tăng trưởng liên tục ở mức khá cao tạo đà cho giai đoạn kế tiếp. Thế mới, lực
mới, gia tốc mới tạo ra tầm vóc và khả năng mới của đất nước. Đó khơng chỉ
là khả năng đất nước vươn tầm mà còn là năng lực mới mạnh mẽ để tiếp tục
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển. Đổi mới được nạp thêm năng lượng
mới.
Ba là, yếu tố quyết định là động lực và những nguồn lực trong nước.
Động lực quan trọng phục vụ và thúc đẩy công cuộc đổi mới là tổng hợp các
nguồn lực trong nước, bao gồm không chỉ có vốn, tài sản đã tích lũy được mà
cịn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, là lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị
và quan trọng hơn hết là nguồn lực con người, bao gồm cả sức lao động trí tuệ
và tinh thần gắn với truyền thống văn hóa của dân tộc ta. Trong các nguồn lực
đó, nguồn lực về tài nguyên là khá phong phú; nguồn lực về đất đai, vị trí địa
lý là khá thuận lợi; nguồn lực về truyền thống là sâu sắc, đặc thù; nguồn lực
về con người và trí tuệ vơ cùng to lớn.
Bốn là, những nguồn lực từ bên ngoài. Đây là một yếu tố quan trọng,

nếu biết cách tranh thủ cũng sẽ tạo nên động lực cho công cuộc đổi mới đất
14


nước. Nguồn lực bên ngoài bao gồm: vốn, kỹ thuật - công nghệ, kinh nghiệm
quản lý, chất xám, tinh hoa văn hóa nhân loại. Trên cơ sở phát huy mọi nguồn
lực trong nước, chúng ta có đầy đủ điều kiện để có thể thu hút nguồn lực bên
ngồi. Với việc mở rộng nhiều hình thức, có bước đi, biện pháp và chính sách
ưu đãi thích hợp, chúng ta nhất định khuyến khích mạnh mẽ việc hợp tác về
kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ; đặc biệt là thu hút đầu tư trực
tiếp của nước ngoài vào nước ta trên cơ sở đơi bên cùng có lợi.
Năm là, sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân. Đây là động lực mang
tính quyết định đối với sự nghiệp đổi mới. Động lực đó bắt nguồn từ năng lực
sáng tạo, bản lĩnh trí tuệ của Đảng ta và của nhân dân ta, thể hiện ở trình độ
đốn định, nắm bắt những yếu tố và những vấn đề của thời cuộc, dự kiến
đúng tình huống, xác định đường đi nước bước rõ ràng, sẵn sàng tạo lập và
nắm bắt thời cơ, khắc phục nguy cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước đi lên.
Do đổi mới là sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân nên khi Đảng ta phát động
nhân dân nhiệt tình hưởng ứng tạo thành động lực to lớn thực hiện có hiệu
quả sự nghiệp đổi mới đất nước.
Rõ ràng là công cuộc đổi mới của chúng ta không chỉ đạt được những
thành tựu to lớn qua 35 năm thực hiện, mà còn tiếp tục được đẩy mạnh với
những nguồn lực phong phú và hết sức to lớn, trong đó có những nguồn lực
khơng bao giờ cạn. Hành trình đổi mới với sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng
dân đã và đang kết hợp nhuần nhuyễn ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hịa.
Đó là động lực lớn nhất, là yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng thành công
của sự nghiệp cao cả trọng đại: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Một số thành tựu và bài học kinh nghiệm của quá trình đổi mới tại
Việt Nam

2.2.1. Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới đất nước
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh
15


Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá
ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng
trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995,
GDP bình qn đã tăng gấp đơi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có
mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%.
Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19
nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng
cao nhất khu vực, thế giới.
Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt
6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình
quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng
2.750 USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư
liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho
phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện
theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm
2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin
cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt
Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát
triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công
nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các
vùng chun mơn hóa cây trồng, vật ni gắn với chế biến cơng nghiệp...
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh

mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những
nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều
16


mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm
từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước
tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19
khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng
5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp
xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa
Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu,
đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội
Trong suốt q trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ
bản gắn kết hài hịa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi
đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần
chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế
và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự
phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp
đi đơi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Cơng tác giảm nghèo của Việt Nam
đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm
từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và
còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng
cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều

chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực,
như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực
ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hồn thành chương trình tiểu
học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
17


Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng
xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới,
tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại
học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là
điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần
đây.
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ
đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở
vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có
hệ thống y tế hồn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được
nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan,
thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ
động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin
phịng Covid-19...
Bên cạnh đó, cơng tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà
nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội
ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 25
năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người
hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Từ năm 2003 - 2018, ngành Bảo hiểm xã
hội phối hợp với ngành Y tế đã đảm bảo quyền lợi cho trên 1.748 triệu lượt
người tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, bình qn mỗi năm có trên

109 triệu lượt người thanh tốn chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Ngồi ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,”
“Uống nước nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các
doanh nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong
18



×