lOMoARcPSD|15978022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÁI BÌNH
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
NGÀNH: LUẬT HỌC
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
QUỲNH TRANG, HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
Họ và tên sinh viên:
Nguyễn Thị Dự
Lớp:
DHLT6B
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Hòa Thị Linh
Tháng 09/2022
lOMoARcPSD|15978022
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Do những đặc trưng về thể chất và giới tính nên dù chiếm hơn một phần hai nhân
loại, phụ nữ vẫn thuộc nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội và cần được quan tâm,
bảo vệ một cách đặc biệt. Tuy nhiên, trong một thời gian dài của lịch sử, ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới, không phải lúc nào phụ nữ cũng được hưởng những quyền lợi tốt
đẹp, họ thường bị phân biệt đối xử, bị ngược đãi mà khơng nhận được sự quan tâm, bảo
vệ thích đáng của xã hội. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, ln là vấn đề mang tính tồn cầu, trong đó có Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ơng về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và
gia đình”. Bình đẳng giưới là một vấn đề rất quan trọng được cả xã hội quan tâm. Ở Việt
Nam, xu hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự mở rộng của nền kinh tế thị
trường đã nâng cao đời sống và chất lượng sống cho người dân. Tuy nhiên, vốn đi lên từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ phát triển chưa cao, do vậy phần nào tư tưởng,
quan niệm đặc thù đã làm hạn chế nhận thức của người dân về bình đẳng trong xã hội. Ở
Việt Nam vẫn còn tồn tại tư tưởng “trọng nam khinh nữ” từ thời phong kiến để lại. Hiện
nay trong các chính sách của Đảng và Nhà nước đã chú trọng xây dựng, quy định quyền
của phụ nữ; tuy nhiên điều đó vẫn cịn là một vấn đề mang tính chung chung, chưa thật
sự được áp dụng triệt để. Xã …, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình là một xã thuần nông,
nhân dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa và chăn ni. Với đặc điểm kinh tế nơng
nghiệp, trình độ dân trí chưa cao, cơ hội tiếp cận những nguồn thơng tin mới cịn hạn chế
nên tư tưởng của người dân nơi đây vẫn cịn bị bó buộc bởi nhiều quan điểm xưa cũ, lạc
hậu. Vấn đề này đã bám rễ lâu đời qua các tầng lớp dân cư nên tình trạng bất bình đẳng
giưới ở nới đây vẫn diễn ra phổ biển.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền của phụ nữ trong thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới và mong muốn góp một phần nhỏ vào việc tuyên truyền
pháp luật về bình đẳng giới ở xã …, người viết chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của phụ nữ
trong thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trên địa bàn xã …, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình” cho nội dung báo cáo của mình.
2. Mục đích chọn đề tài
Từ việc nghiên cứu thực trạng về việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới trên địa
bàn xã … hiện nay, báo cáo tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng, những giải pháp đã
được thực hiện tại địa phương. Từ đó vận dụng một số phương pháp, kỹ năng trong công
tác xã hội nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở xã …,
huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
1
lOMoARcPSD|15978022
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Báo cáo tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Khái quát hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền của phụ nữ ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
- Thực trạng bảo đảm quyền của phụ nữ trong việc thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới trong một số lĩnh vực phổ biển trên địa bàn xã …, huyện Quỳnh Phụ, tình Thái
Bình.
- Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong
việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trên địa bàn xã …, huyện Quỳnh Phụ, tình
Thái Bình.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Báo cáo được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là phép biện chứng duy
vật, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, hệ thống quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về con người.
Trên cơ sở phương pháp luận đã nêu, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử
dụng trong luận văn ban gồm: phương pháp phân tích – đối chiếu, phương pháp so sánh,
phương pháp hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp xã hội học.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ BÌNH
ĐẲNG GIỚI.
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC TRÊN ĐỊA BÀN XÃ …, HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH
THÁI BÌNH.
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRÊN ĐỊA BÀN XÃ …,
HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH.
2
lOMoARcPSD|15978022
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. Khái niệm cơ bản về giới và bình đẳng giới
1.1.1. Khái niệm giới
Giới (gender) là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ mơn nhân loại học nghiên
cứu về vai trị, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ bao gồm việc
phân chia lao động, các kiểu phân chia các nguồn và lợi ích. Giới đề cập theo quy tắc,
tiêu chuẩn theo nhóm tập thể chứ khơng theo thực tế cá nhân. Vai trò giới được xác định
theo văn hóa, khơng theo khía cạnh các sự vật học có thể thay đổi theo thời gian, xã hội
và địa vị khác nhau. Khi mới sinh ra chúng ta khơng có sẵn đặc tính giới. Những đặc tính
giới mà chúng ta có được là do chúng ta học từ gia đình, xã hội và nền văn hóa của chúng
ta.
Giới là quan hệ giữa nam nữ và cách thức mối quan hệ đó được xây dựng nên
trong xã hội.
Giới khơng ám chỉ khái niệm nam giới hoặc phụ nữ với tư cách cá nhân mà nói tới
quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ (tính tập thể). Quan hệ này thay đổi theo thời
gian, theo hoàn cảnh kinh tế và xã hội. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự thay đổi quan hệ
giới trong xã hội tùy thuộc vào sự vận động và phát triển của chính các quan hệ xã hội.
Cụ thể là các quan hệ liên quan đến dân tộc, giai cấp, chính trị, tơn giáo, lịch sử, văn hóa,
phong tục tập qn.
1.1.2. Bình đẳng giới
Là khái niệm biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội đối với nam và nữ; là trạng
tháu (hay tình hình) xã hội trong đó phụ nữ và nam giới có vị trí, vai trị ngang nhau.
Được tạo điều kiện và phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của
gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
Bình đẳng giới được đề cập một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tùy vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà lĩnh vực cụ thể nào
đó của bình đẳng giới có thể được nhấn mạnh hơn, nhưng khơng được tách rời và xem
nhẹ những lĩnh vực khác. Các lĩnh vực của bình đẳng gốm: Bình đẳng về chính trị hay
các quyền hợp pháp của phụ nữ với tư cách là công dân và việc tham gia các cơ quan
quản lý, lãnh đạo tại các cấp; bình đẳng về việc làm; bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục;
bình đẳng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe; bình đẳng trong lĩnh vực hơn nhân gia đình.
Ngồi các lĩnh vực trên, bình đẳng giới cịn được xem xét trên một số khía cạnh nhằm
đảm bảo cho những yêu cầu và nguyên tắc bình đẳng được hiểu đầy đủ và thực hiện đúng
3
lOMoARcPSD|15978022
trong cuộc sống: bình đẳng trong đối xử, bình đẳng về cơ hội, bình đẳng về hưởng thụ và
bình đẳng về kiểm sốt nguồn lực.
Bình đẳng giới là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt
Nam trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, được quy định trong các văn bản pháp luật của
nước CHXHCN Việt Nam và trong các Công ước quốc tế (Hiến chương Liên hợp quốc,
Tuyên ngôn nhân quyền thế giới, Công ước về quyền chính trị của phụ nữ, Cơng ước
Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ…) mà Việt Nam đã
tham gia ký kết.
Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định: “Bình đẳng giới là việc
nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của
mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả
của sự phát triển đó.” Hiểu một cách cụ thể là mọi người dù là nam hay nữ với tư cách là
các cá nhân đều có quyền bình đảng và cần được tạo cơ hội như nhau để phát huy tiềm
năng sẵn có cũng như có quyền thụ hưởng bình đẳng trong q trình phát triển chung
như: tiếp cận và sử dụng các nguồn lực, tham gia quyết định những vấn đề liên quan tới
việc sử dụng nguồn lực, tham gia vào các quyết định những vấn đề liên quan tới việc sử
dụng nguồn lực, tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thụ hưởng
những thành tựu của sự phát triển.
1.1.3. Đặc điểm của bình đẳng giới
- Thứ nhất, về tính ngang quyền. Để đạt được bình đẳng giới, phụ nữ cần được tạo
điều kiện và có cơ hội ngang bằng với nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ví dụ, cần có quy định chung cho phụ nữ và nam giới về việc hưởng thụ các quyền và
gánh vác các nghĩa vụ. Đây là các quy định bình đẳng mang tính tối thiểu, khơng thể
thiếu để đảm bảo về mặt pháp lý quyền bình đẳng nam nữ (cơng dân nam và nữ đều có
quyền bầu cử, ứng cử; quyền tự do kinh doanh; quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn,…)
- Thứ hai, về tính ưu đãi. Do đặc điểm sinh học và truyền giống của phụ nữ khác
biệt so với nam giới, để bình đẳng giới được đảm bảo cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến
khích đặc biệt và hợp lý đối với phụ nữ. Ví dụ, phụ nữ phải đảm nhận vai trò tái sản xuất
bao gồm sinh con, chăm sóc, ni dưỡng, vì vậy, pháp luật lao động quy định về chế độ
thai sản đối với lao động nữ trong thời gian nghỉ vẫn được hưởng nguyên lương đồng
thời được trợ cấp thai sản.
- Thứ ba, về tính linh hoạt. Sự đối xử ưu đãi với phụ nữ cần được điều chỉnh linh
hoạt trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khơng mang tính bất biến, được xem xét dựa
trên các đặc điểm về cơ học, yếu tố sức khỏe, yếu tố tâm lý để có những chính sách ưu
tiên thích hợp trong lao động đối với phụ nữ, đặc biệt là những cơng việc mang tính chất
nặng nhọc, trong môi trường độc hại.
4
lOMoARcPSD|15978022
- Thứ tư, về tính phân loại. Bình đẳng giới không chỉ xem xét vị thể của phụ nữ và
nam giới trong xã hội mà còn được xem xét giữa các tầng lớp phụ nữ thuộc các thành
phần xã hội khác nhau trong các vùng lãnh thổ khác nhau, trong phạm vi quốc gia và trên
thế giới.
1.2. Khái niệm pháp luật về bảo đảm quyền của phụ nữ
Bảo vệ quyền con người ln là mục tiêu chính của Nhà nước ta. Nhìn chung, phụ
nữ được coi là nhóm xã hội đặc biệt, do đặc trưng về thể chất và gánh nặng đa vai trò về
giới của họ. Phụ nữ là lực lượng chiếm hơn nửa thế giới nên có vị trí quan trọng trong sự
điều chỉnh của Luật quốc tế về quyền con người. Việt Nam luôn xác định con người là
trung tâm của xã hội, vừa là chủ thể vừa là khách thể của pháp luật. Vì thế, hệ thống pháp
luật nước ta là ngay từ khi mới hình thành đã chú trọng đến việc ghi nhận quyền con
người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng. Với xu hướng một mặt ghi nhân và bảo
đảm các quyền bình đẳng của phụ nữ, mặt khác, pháp luật cũng quy định cho phụ nữ
những quyền mang tính chất ưu tiên. Từ đó, tạo nên một hệ thống qui phạm bảo vệ quyền
của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam.
Để hiểu một các khái quát về bảo đảm quyền của phụ nữ, ta có thể hiểu như sau:
Pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ bảo gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
có tính đến sự ưu tiên dành cho nữ giới và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ ghi nhận các quyền của con
người của phụ nữ mà còn quy định các biện pháp bảo đảm cho các quyền đó được thực
hiện và các biện pháp đảm bảo cho các quyền đó được thực hiện trên thực tế. Do ảnh
hưởng của các yếu tố tôn giáo, định kiến xã hội và sinh lý nên quyền của phụ nữ thường
hay bị xâm phạm và người phụ nữ thường phải chịu sự phân biệt đối xử trong mọi lĩnh
vực. Vì thế, việc ghi nhận và bảo vệ các quyền của phụ nữ bằng cách sử dụng công cụ
pháp luật là hết sức cần thiết, pháp luật là yếu tố đóng vai trị quyết định khả năng thực
hiện các quyền đó trên thực tế bới tính được đảm bảo bằng nhà nước.
1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
Trong cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng và Nhà nước ta
không ngừng xây dựng, hồn thiện pháp luật để tạo ra khn khổ, phạm vi, trách nhiệm
tổ chức thực hiện pháp luật, kịp thời phát hiện, đấu tranh phòng ngừa và xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất. Vì thế, thực hiện pháp luật
là quá trình các chủ thể khi gặp gặp pahir các tình huống, sự kiện mà quy phạm pháp luật
đã dự tính, từ nhận thức, vận dụng sáng tạo chúng vào các tình huống cụ thể đó bằng
hành vi thực tế, hợp pháp của mình. Mặt khác, thực hiện pháp luật cịn là nghĩa cụ của tất
5
lOMoARcPSD|15978022
cả cơ quan, tổ chức, cá nhân và được tiến hành bằng nhiều hình thức với quy trình khác
nhau.
Pháp luật về bình đẳng giới là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh về quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực đời sống xã hội và
gia đình, bảo đảm cho cơng dân nam, nữ có vai trò, cơ hội phát triển như nhau, được
hưởng thụ như nhau những thành quả của sự phát triển, tiến tới bình đẳng giới giữa nam
và nữ.
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới bao gồm nhiều biện pháp tác dộng trong
một q trình nên có tính liên tục, thường xun. Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
giúp chủ thể (nam – nữ) tiếp cận pháp luật, nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trị của họ
trong xã hội, thúc đẩy tiến trình bình đẳng giới sớm đạt mục tiêu mong đợi. Do thuộc tính
điều chỉnh và bắt buộc chung của pháp luật, nên thực hiện pháp luật về bình đẳng giới đối
với nước ta là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó trước hết
và chủ yếu thuộc về Nhà nước mà đại diện là cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức.
Như vậy, có thể hiểu thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là một q trình hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật bình đẳng giới đi vào cuộc
sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thế pháp luật. Hay nói cách
khác, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân được tiến hành theo những hình thức pháp lý nhất định, có mối liên hệ và
quy định lẫn nhau trong một cơ chế phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn lịch sử,
nhằm hiện thực hóa các yêu cầu, nội dung của quy phạm pháp luật về bình đẳng giới, bảo
đảm cho bình đẳng giới được thiết lập và duy trì trong đời sống xã hội và gia đình.
1.3. Qui định của pháp luật Việt Nam về việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong một số
lĩnh vực
Trong lĩnh vực chính trị
Quan điểm “nam - nữ bình quyền” đã được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Quan điểm của Đảng ta về phụ nữ tham chính
cũng được thể hiện rõ qua các văn bản quy phạm pháp luật về công tác cán bộ nữ của qua
các thời kỳ. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ
nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh: xây dựng,
phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu
cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng. Quán
triệt quan điểm của Đảng, nguyên tắc bình đẳng nam nữ được thể chế hóa trong Hiến
pháp và hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam, tạo cơ sở pháp
lý cho phụ nữ tham gia chính trị. Hiến pháp năm 2013 đã có quy định về bình đẳng giới
6
lOMoARcPSD|15978022
và khơng phân biệt đối xử trong lĩnh vực chính trị. Luật Bình đẳng giới và Chiến lược
Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, Chương trình quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011-2015, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020
đã được ban hành. Các cơ quan, tổ chức hoạt động về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của
nữ giới đang từng bước được hồn thiện.
Theo Điều 11 Luật Bình đẳng giới, bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị được
quy định như sau:
“1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã
hội.
2. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước
của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
3. Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan
lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
4. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ
nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
5. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
a) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;
b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà
nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.”
Quyền bình đẳng trong đời sống chính trị là quyền quan trọng để xây dựng một xã
hội công bằng, thể hiện quyền làm chủ của công dân với nhà nước. Bình đẳng giới trong
lĩnh vực chính trị được xem là một trong những nội dung quan trọng, then chốt, tạo cơ
hội cho phụ nữ được nói tiếng nói đại diện cho giới mình, được phát huy trình độ năng
lực, kinh nghiệm, thể hiện quan điểm trong quyết định các chính sách về các lĩnh vực
khác nhau của quốc gia. Có thể nói, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đã tạo ra một bước chuyển biến mới cả về lượng và chất trong việc đảm bảo quyền bình
đẳng của phụ nữ nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi quyền bình đẳng nam nữ
trên thực tế, qua đó, góp phần tạo nên nền tảng vững chắc cho việc thúc đẩy bình đẳng
giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực dân sự
- Khơng phân biệt giới tính trong việc công nhận và bảo vệ quyền nhân thân: Phụ
nữ cũng như nam giới đều có quyền dduwwojc đảm bảo an tồn về tính mạng, sức khỏe,
7
lOMoARcPSD|15978022
thân thể cùng những giá trị nhân thân của họ. Đó là những quyền có từ khi con người
được sinh ra và gắn liên với mỗi cá nhân không phụ thuốc vào hồn cảnh gia đình và
nghề nghiệp, tuổi tác của họ. Ngồi ra, cá nhân cịn có quyền tự do đi lại, lựa chọn nơi cứ
trù cho mình mà khơng một ai có quyền ngăn cản. Phụ nữ có quyền tương tự như vậy và
là một trong những điều kiện để phụ nữ có thể thực hiện được các quyền như: quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh, quyền tự dó cư trú…
- Khơng phân biệt giới tính trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ pháp luật dân sự: Pháp luật thừa nhận và bảo đảm cho người có quyền dân sự có
thể yêu cầu người khác thực hiện những hành vi nhất định để thỏa mãn lợi ích hoặc nhu
cầu của mình, bất kể học là nam hay nữ trong quan hệ pháp luật dân sự. Trong trường
hợp phát sinh tranh chấp thì dù là nam giưới hay nữ giới cũng đều phải chịu trách nhiệm
dân sự đối với bên có quyền.
- Phụ nữ bình đẳng với nam giới trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu về
tài sản: Bất kì người nào dù là nam giới hay nữ giới đều được công nhận là chủ sở hữu
hợp pháp đối với tài sản khi tài sản đó được xác lập dựa trên những căn cứ hợp pháp.
Ngồi ra, sự bình đẳng giới trong việc thực hiện quyền sở hữu còn được biểu hiện ở hành
vi xác lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chống, thừa kế…
Trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình
- Với tư cách là cha mẹ đều phải thực hiện nghĩa vụ đối với các con trong việc
nuôi dưỡng, giáo dục con; không được phân biệt đối xử với các con, ngược đãi, hành hạ,
xúc phạm,… Các con dù là trai hay gái, nam hay nữ đều có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau trong gia đình.
- Tơn trọng và bảo vệ quyền làm mẹ của người phụ nữ, phụ nữ đơn thân được
hưởng các quyên lợi như người phụ nữ có chồng mà không tồn tại sự phân biệt đối xử
nào.
- Nhà nước thừa nhận và thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng bình đẳng trong hơn nhân.
- Vợ chồng bình đẳng khi thực hiện quyền yêu cầu ly hôn và giải quyết ly hôn.
Trong lĩnh vực lao động
Bộ luật Lao động dành một chương quy định riêng về lao động nữ. Theo đó, Nhà
nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ; khuyến khích
người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng
rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao
việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình
độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao
8
lOMoARcPSD|15978022
động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài
hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình. Luật quy định rõ, nghiêm cấm người sử
dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện nguyên tắc bình đẳng
nam, nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động; lao động nữ được
dành thời gian trong thời gian lao động để cho con bú, làm vệ sinh phụ nữ; không được
sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì kết hơn, có
thai, ni con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, thời gian nghỉ thai sản là 6 tháng.
Trong lĩnh vực hình sự
Bộ luật Hình sự có quy định những tội phạm liên quan đến phụ nữ, các điều luật
bảo vệ quyền của phụ nữ: Hành vi phạm tội đối với phụ nữ có thai là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, và cũng là tình tiết tăng nặng định khung; Giết người mà biết là có
thai; ố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ đối với phụ nữ đang có thai; hành hạ
phụ nữ có thai; tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý đối với phụ nữ mà biết là đang có
thai; cưỡng bức, lơi kéo sử dụng trái phép chất ma tuý đối với phụ nữ mà biết là đang có
thai. Trong đó, Bộ luật Hình sự cũng thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo của Đảng và
Nhà nước trong việc xử lý tội phạm là nữ giới; có chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự: người phạm tội là phụ nữ có thai được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự. Chính sách nhân đạo, khoan hồng được thể hiện cả trong việc áp dụng hình phạt và
thi hành án: Khơng áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đối với phụ nữ
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử, khơng thi hành án tử
hình đối với phụ nữ có thai hoặc ni con dưới 36 tháng tuổi được hỗn cho đến khi con
đủ 36 tháng tuổi.
Có thể nói, quyền của phụ nữ Việt Nam trong các bản Hiến pháp và các văn bản
pháp luật đều thể hiện rõ 2 yếu tố căn bản đó là “bình đẳng và ưu tiên”. Có những quyền
được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật nhằm
xố bỏ sự phân biệt đối xử trong cơng việc, trong đời sống chính trị, kinh tế và trong đời
sống gia đình. Cịn quyền ưu tiên (trong việc tuyển dụng, sắp xếp cơng việc, nghỉ hưu...)
có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng
góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội, đồng thời tránh rủi ro trong nghề nghề nghiệp,
trong cuộc sống gia đình và xã hội.
9
lOMoARcPSD|15978022
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG MỘT
SỐ LĨNH VỰC TRÊN ĐỊA BÀN XÃ …, HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI
BÌNH
2.1. Đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới
(học viên bổ sung các thông tin số liệu liên quan đến địa bàn xã …: vị trí địa lý, điều kiện
tự nhiên, dân số, kinh tế, xã hội…)
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bình đẳng giới tại xã …, huyện Quỳnh Phụ,
tỉnh Thái Bình
Bình đẳng giới, khơng có sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hố, xã hội và gia đình được Đảng và Nhà nước cam kết trong các Công
ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như: Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn Nhân
quyền thế giới, Công ước về quyền chính trị của phụ nữ, Cơng ước Liên hợp quốc
CEDAW về xố bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ... Bình đẳng giới cũng
được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946, Điều 9 quy định: “Đàn bà ngang quyền với
đàn ông về mọi phương diện”. tinh thần bình đẳng nam, nữ đã được thể hiện xuyên suốt
trong các bản Hiến pháp của nước ta. Mới nhất là Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh:
“Cơng dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ
hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển tồn
diện, phát huy vai trị của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”(Điều
26).
Bình đẳng giới được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự,
Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Lao động và đặc biệt là Luật Bình đẳng giới năm
2006 với mục tiêu: “Xố bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực
chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” (Điều 4). Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2014 với nhiều nội dung quy định về lồng ghép bình đẳng giới trong xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật đã góp phần khẳng định và nâng cao hơn nữa vai trò,
tầm quan trọng của vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật. Để triển
khai thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 20112020 với mục tiêu: đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và
nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Những tiến bộ về pháp
10
lOMoARcPSD|15978022
luật là một trong những yếu tố quan trọng giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ về bình
đẳng giới và phát huy vai trò của phụ nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục,
lao động,…
Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật
đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là chuyển tải được những nội dung của các văn
bản pháp luật trên giấy tờ thành pháp luật trong hành động của các chủ thể pháp luật một
cách có hiệu quả. Trên địa bàn xã …, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình thời gian qua đã
có những hành động thể hiện trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ.
Trong lĩnh vực chính trị
Những năm qua Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục
quần chúng, đảng viên thực hiện tốt chủ trương bình đẳng giới. Đã có nhiều quy định
hướng dẫn, giao chỉ tiêu nữ cho từng địa phương tuyên truyền, vận động để quần chúng
hiểu và bầu đại biểu nữ vào các cơ quan Đảng, Quốc hội và chính quyền các cấp. Nhờ đó,
tỷ lệ nữ trong các cơ quan Đảng, cơ quan dân cử, đoàn thể quần chúng ngày một tăng
thêm; ngày càng nhiều phụ nữ giữ các trọng trách trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và
được trọng dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
xác định: phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 – 2021 từ 25%
trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 –
2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 – 2021 trên 35%. Đến năm 2015 đạt 80% và đến
năm 2020 đạt trên 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt
100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ
nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động.
Kết quả đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham
gia cấp ủy các cấp cao hơn so với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ cấp ủy viên là nữ cấp xã chiếm
19,69% (tăng 1,59%); cấp huyện đạt 14,3% (tăng 0,3%); cấp tỉnh đạt 13,3% (tăng 1,9%);
cấp Trung ương có 17/180 ủy viên chính thức, đạt 9,4% (tăng 0,8%) và có 3 nữ là ủy viên
Bộ Chính trị chiếm 15,7%. Tuy nhiên, kết quả bầu cử trong đại hội Đảng các cấp nhiệm
kỳ 2016-2021, toàn Đảng không đạt mục tiêu “không dưới 15%” cấp ủy viên nữ. Chính
phủ nhiệm kỳ 2016-2021 có 01 nữ bộ trưởng; ở địa phương có 8/126 nữ là chủ tịch
HĐND và chủ tịch UBND cấp tỉnh. Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 20152020 cấp tỉnh là 25,17%, cấp huyện là 24,62% và cấp xã là 21,17%... Những con số trên
cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp so với mục tiêu
của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 vẫn còn một khoảng cách
11
lOMoARcPSD|15978022
xa, chưa tương xứng với vị thế và vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Sự thiếu hụt cán bộ nữ trong một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc hoạch định kế
hoạch, chính sách chưa có nhiều đại diện là phụ nữ, làm cản trở hoạt động thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới.
Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 có 01 nữ bộ trưởng; ở địa phương có 8/126 nữ là
chủ tịch HĐND và chủ tịch UBND cấp tỉnh. Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm
kỳ 2015-2020 cấp tỉnh là 25,17%, cấp huyện là 24,62% và cấp xã là 21,17%... Những
con số trên cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp so với
mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 vẫn còn một
khoảng cách xa, chưa tương xứng với vị thế và vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đổi
mới đất nước. Sự thiếu hụt cán bộ nữ trong một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc
hoạch định kế hoạch, chính sách chưa có nhiều đại diện là phụ nữ, làm cản trở hoạt động
thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.
Đối với thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, tại xã … đã
có những kết quả nhất định. Đội ngũ tham gia bộ máy làm cơng tác bình đẳng giới trong
lĩnh vực chính trị là các lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở, có năng lực, trình độ chuyên môn.
Công tác tuyên truyền được chú trọng và đẩy mạnh hơn, đạt hiệu quả cao. Bên cạnh
những kết quả thì vẫn cịn tồn tại một số hạn chế nhất định. Sự tham gia của phụ nữ trong
lĩnh vực chính trị còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản
lý, lãnh đạo cịn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung và so với sự gia tăng
của lực lượng lao động nữ. Định kiến giới truyền thống về vai trò của phụ nữ, gắn phụ nữ
với cơng việc chăm sóc gia đình và nam giới với việc kiếm tiền giúp gia đình vẫn cịn tồn
tại. Chính sách, cơ chế công tác cán bộ nữ chưa triển khai đồng bộ, thiếu một lộ trình tạo
nguồn cán bộ cụ thể. Hiện nay, tại xã có … phụ nữ tham gia vào công tác quản lý, … phụ
nữ nắm giữ các vị trí vào trị lãnh đạo trong hệ thống. (học viên bổ sung sổ lượng, vị trí
cơng việc cụ thể tùy theo tình hình thực tế của địa phương. Ví dụ bao nhiêu phụ nữ làm
cấp bậc lãnh đạo, quản lý, vị trí như thế nào…)
Trong lĩnh vực lao động và việc làm
Mục tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là giảm khoảng cách
giới trong các lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ
nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị
trường lao động. Hàng năm, trong tổng số người được tạo việc làm mới, bảo đảm ít nhất
40% cho mỗi giới (nam và nữ). Tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đạt 30% vào năm 2015 và
từ 35% trở lên vào năm 2020. Tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo
nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 25% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020. Theo số liệu
của Tổng cục Thống kê năm 2015: trong tổng số 52,4 triệu lao động có việc làm của cả
12
lOMoARcPSD|15978022
nước lao động nữ chiếm khoảng 48,2% (tương ứng gần 25,3 triệu người). Việc làm của
lao động nữ bấp bênh, năm 2014, tỷ lệ lao động nữ khơng có hợp đồng lao động là 49%,
cao hơn so với nam giới là 36%(3). Tuy nhiên, phụ nữ thường tham gia vào các cơng việc
khơng chính thức và dễ bị tổn thương. Theo điều tra về nhà ở và mức sống hộ gia đình
năm 2008, chỉ có 24,22% phụ nữ làm các công việc phi nông nghiệp, trong khi tỷ lệ này
ở nam giới là 35,5%. Nhiều người trong số các chị em phụ nữ phải tự tạo việc làm hoặc
làm việc trong gia đình. Phụ nữ làm việc trong các khu vực khơng chính thức có tiền
cơng thấp hơn, tay nghề thấp hơn và ít cơ hội nâng cao tay nghề và đào tạo hơn nam giới.
Vai trò kép của người phụ nữ vừa chăm sóc con cái vừa làm nội trợ cũng như tạo thu
nhập cản trở người phụ nữ tham gia vào các công việc được trả công, đặc biệt cơng việc
trong khu vực chính thức.
Trên địa bàn xã …, nhìn chung nam nữ bình đẳng trong việc tự do lựa chọn nghề
nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những định kiến về việc phụ nữ đi làm và lao động.
NSDLĐ có xu hướng tuyển dụng nam giới nhiều hơn nữ giới. Phân chia theo nghề
nghiệp thì chủ yếu NSDLĐ có nhu cầu tuyển nữ giới vào các ngành nghề như: may –
giày da – dệt – nhuộm – thiết kế thời trang; nhà hàng – khách sạn – du lịch hay lĩnh vực
giáo dục. Trong khi đó, những ngành nghề như: luật – bảo hiểm – tư vấn – bảo vệ – vận
tải … lại chủ yếu là tuyển dụng nam giới. Thậm chí, ngành nghề: nơng nghiệp – lâm
nghiệp tưởng như rất phù hợp với nữ giới nhưng thực tế NSDLĐ lại có mong muốn tuyển
dụng nam giới nhiều hơn. Chất lượng việc làm cũng chưa ổn định và thiếu bền vững. Phụ
nữ thường làm việc trong các ngành, lĩnh vực chuyên môn không cao như dệt may, da
giày,... Từ đó dẫn đến thu nhập bấp bênh và không được hưởng BHYT, BHXH.
Vấn đề đảm bảo điều kiện làm việc cho người lao động cũng xảy ra tình trạng vi
phạm quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngời, an toàn vệ sinh lao động. Các
doanh nghiệp hoạt động ngành nghề may mặc, xuất khẩu thường bị động về thời gian,
thường xuyên tăng ca. Bên cạnh đó, họ cùng cần dành thời gian chăm sóc gia đình. Các
gánh nặng chồng chất có thể dẫn đến sự suy giảm về sức khỏe ở phụ nữ.
Trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đề ra mục tiêu: bảo đảm bình đẳng giới
trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới. Rút ngắn khoảng cách
về thời gian tham gia cơng việc gia đình của nữ so với nam xuống 2 lần vào năm 2015 và
xuống 1,5 lần vào năm 2020. Đến năm 2015 đạt 40% và đến năm 2020 đạt 50% số nạn
nhân của bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn về pháp lý và sức khỏe, được hỗ
trợ và chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình. Đến năm 2015 đạt 70%
và đến năm 2020 đạt 85% số người gây bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn tại
các cơ sở tư vấn về phịng, chống bạo lực gia đình.
13
lOMoARcPSD|15978022
Trong mọi xã hội, gia đình được tạo ra mang lại nhiều lợi thế cho nam giới. Sự
phân công lao động truyền thống theo giới: người chồng là trụ cột trong gia đình và đem
lại thu nhập chính, cịn người vợ làm các công việc nội trợ và nuôi nấng con cái. Ngày
nay, phong trào giải phóng phụ nữ, bình đẳng giới phát triển làm thay đổi đáng kể vai trị
giới trong gia đình và bên ngồi xã hội. Vị thế người phụ nữ ngày một nâng cao trong xã
hội. Sự tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội làm thay đổi vị thế độc
tôn gia trưởng của nam giới. Nhưng các kết quả nghiên cứu xã hội học về phân công lao
động trong gia đình trong những năm gần đây ở các địa phương, các nhóm xã hội thuộc
các lĩnh vực nghề nghiệp, trình độ học vấn khác nhau đều cho thấy phụ nữ vẫn là những
người đảm nhiệm phần lớn các công việc gia đình. Ngay cả những phụ nữ đi làm có thu
nhập cao vẫn là người phải chịu trách nhiệm chính về việc nhà.
Mặt khác, bạo lực đối với phụ nữ là một trong các vấn đề nổi cộm hiện nay trong
xã hội. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại, thể hiện qua việc các cặp vợ chồng
thích sinh con trai, làm gia tăng mất cân đối tỷ số giới tính khi sinh (hiện nay là 113 trẻ
em trai trên 100 trẻ em gái). Việc lựa chọn giới tính ngày càng phổ biến làm cho sự mất
cân bằng giới tính càng trở nên trầm trọng. Nếu xu hướng này khơng có sự cải thiện thì
khoảng hai thập niên tiếp theo sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa nam giới so với phụ nữ cùng
độ tuổi.
Hiện nay, việc thực hiện pháp luật trong bình đẳng giới ở xã … đã có được những
kết quả nhất định. Trong gia đình, hầu hết vai trị của người chồng và người vợ được
phân chia bình đẳng, có sự thống nhất và cố gắng giữa hai bên. Các gia đình có sự u
thương, tơn trọng lẫn nhau, có mỗi quan hệ tốt giữa vợ chồng, bố mẹ với con cái, giữa
các thành viên trong gia đình, khơng có sự phân biệt đối xử gay gắt. Phụ nữ được thể
hiện vai trò quan trọng trong gia đình, qn xuyến cơng việc trong gia đình và xã hội.
Bên cạnh đó, cũng tồn tại một số hạn chế nhất định.
Thứ nhất, áp lực sinh con trai nối dõi vẫn còn tồn tại trong xã hội từ rất lâu. Ngày
nay, mặc dù đã được tiếp cận với những tư tưởng hiện đại về bình đẳng giới nhưng bên
trong mỗi mãi ấm vẫn luôn tồn tại một đợt sóng ngầm đến từ bố mẹ chồng, từ người
chồng của mình. Áp lực ấy tác động đến cuộc sống của người phụ nữ.
Thứ hai, về sự phân công lao động trong gia đình giữa người vợ và người chồng.
Hiện nay trong gia đình, đa số người phụ nữ phải làm việc nhiều hơn nam giới.
Thứ ba, về vấn đề đóng góp kinh tế trong gia đình. Trong gia đình vẫn có quan
niệm người đàn ơng là trụ cột kinh tế. Vì vậy, nhiều trường hợp, người vợ ở nhà nội trợ bị
coi là ăn bám, khơng có tiếng nói trong gia đình. Nhưng ngược lại, cũng có nhiều trường
14
lOMoARcPSD|15978022
hợp chính người phụ nữ phải tự bươn chải, lo toan cuộc sống gia đình. Vấn đề kinh tế
cũng là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong gia đình.
Thứ tư, về vấn đề duy trì hạnh phúc, chống bạo hành trong gia đình. Bởi ngày nay
đa số các cặp vợ chồng trẻ sống riêng, tự lập. Chính mơi trường tự lập, tạo cho sự thoải
mái nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho người phụ nữ: vấn đề làm thế nào để duy trì
hạnh phúc, vấn đề bạo lực gia đình. Bởi, thực tế cho thấy, hiện nay, gia đình trẻ có chiều
hướng ly hơn khá tăng.
2.3. Ngun nhân tồn tại hạn chế
Trong lĩnh vực chính trị
Có thể nói, trên thực tế người phụ nữ thực sự vẫn chưa có nhiều điều kiện để phát
huy hết năng lực của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có nhiều ngun
nhân để lí giải cho tình trạng nói trên. Một mặt do phụ nữ phải thực hiện nhiều chức
năng: làm vợ, làm mẹ và đảm nhiệm cơng việc xã hội, nên khơng có nhiều điều kiện
thuận lợi để học tập và nâng cao trình độ chuyên mơn nghiệp vụ. Vì thế, trong nhiều
trường hợp họ khơng đáp ứng yêu cầu của việc bổ nhiệm vào những vị trí nhất định. Mặt
khác, do tàn dư của xã hội cũ với những tư tưởng mang tính định kiến giưới, cùng với
mặc cảm tư ti của người phụ nữ, làm cho việc đánh giá vị trí và vai trị của người phụ nữ
trong xã hội chưa đảm bảo yếu tố khách quan.
Bên cạnh đó, sự hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành cũng là một trong
những nguyên nhân tác động không nhỏ đến việc đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và
nữ trong lĩnh vực chính trị. Cụ thể:
- Chủ trương đề bạt cán bộ của Đảng về quy hoạch phát triển cán bộ nữ trong
phạm vi tổng thể tồn quốc chưa được thể chế hóa kịp thời trong pháp luật của Nhà nước,
đưa đến hệ quả tồn tại sự khơng thống nhất giữa chính sách và pháp luật hiện hành trong
lĩnh vực này.
- Các chủ trương tang cường công tác cán bộ nữ của Đảng tương đối rõ rang và
vấn đề nâng cao vai trò, vị trí của phụ nữ trong việc tham gia bộ máy lãnh đạo và ra quyết
định đã được đưa vào Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng
những chủ trương và kế hoạch này nhìn chung chưa được thể hiện bằng văn bản quy
phạm pháp luật của các Bộ, ngành, địa phương. Phần lớn các chương trình, quy hoạch
cán bộ và cơng tác đào tạo cán bộ ở địa phương đều khơng có bất cứ sự ưu tiên nào đối
với cán bộ nữ.
Trong lĩnh vực lao động
- Những quy định đối với lao động nữ của Bộ luật lao động chưa đi vào cuộc sống,
địa vị pháp lí của người phụ nữ chưa thực sự bình đẳng trên thực tế. Một phần do nền
15
lOMoARcPSD|15978022
kinh tế nước ta đang trong công cuộc đối mới, các doanh nghiệp có quy mơ nhỏ, nguồn
tài chính eo hẹp không đủ khả năng chi trả phúc lợi.
- Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa tác động hiệu quả đến ý thức pháp
luật của người sử dụng lao động cũng như người lao động. Người sử dụng lao động do
chạy theo lợi nhuận mà ln tìm cách “lách luật”, người lao động chưa có ý thức sử dụng
pháp luật làm cơng cụ để bảo vệ mình.
- Hiện tượng thất nghiệp gia tang làm cho sự cạnh tranh trên thị trường lao động
rất khốc liệt. lao động nữ do sức cạnh tranh kém hơn nên thường phải chấp nhận những
điều kiện làm việc không thỏa đáng.
- Hoạt động của các cơ quan thanh tra và các tổ chức công đoàn chưa thực sự hiệu
quả, nên quyền lợi của lao động nữ chưa được bảo vệ một cách hữu hiệu.
Trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình
Sự bất bỉnh đảng nam nữ trong gia đình xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau:
Trước hết, là nguyên nhân mang tính lịch sử, Đó là sự tồn tại những tư tưởng vốn
là tàn sư của chế độ phong kiến: chế độ đa thê, phân biệt đẳng cấp, quyền gia trưởng, sự
lệ thuộc của phụ nữ vào đàn ông cũng như sự phân biệt giới tính.
Thứ hai, một mặt do sự giáo dục sai lệch về giới trong gia đình. Mặt khác chính
người phụ nữ quen với nếp nghĩ sai lệch về giới nên trong khi họ tận tâm, tận lực chăm lo
cho gia đình vè tự hào về điều đó thì lại qn đi chính bản thân mình, họ thường nhường
cho chồng quyết định những vấn đề quan trọng, dù trong khả năng họ có thể quyết định
được.
Thứ ba, những quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành chưa hồn
thiện, pháp luật vẫn thiếu những chế tài cần thiết để xử lí những hành vi xâm phạm đến
quan hệ hôn nhân.
Thứ tư, các tổ chức chính trị xã hội chưa phát huy hết trách nhiệm của mình trong
cơng tác hịa giải ở cơ sở, hoạt động của họ đơi khi mang tính chất hình thức nên hiệu quả
chưa cao.
Thứ năm, nền kinh tế thị trường có những ảnh hưởng nhất định đến đời sống gia
đình, làm cho nó đổi mới theo xu hướng tích cực, tiến bộ hơn. Tuy nhiên, nó cũng du
nhập vào nước ta lối sống phương Tây trong quan hệ nam nữ. Sự tự do quá mức dẫn đến
không tuân thủ các quy định của pháp luật, xâm hại đến quyền lợi của phụ nữ.
16
lOMoARcPSD|15978022
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRÊN ĐỊA BÀN XÃ …, HUYỆN
QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
3.1. Những giải pháp hồn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền của
phụ nữ về bình đẳng giới
Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật hiện hành có
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, nâng cao tính khả thi của pháp luật
ngay từ khi xây dựng và ban hành, rút ngắn khoảng cách từ chủ trường chính sách của
Đảng đến sự thế chế hóa thành pháp luật.
Thứ hai, cần rà soát các chế định và các quy phạm pháp luật hiện hành về bảo vệ
quyền của phụ nữ thuộc các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hơn nhân và gia
đình… thống nhất lại các quy định, sửa đổi các qui định khơng cịn phù hợp, bất khả thi
trên thực tế; đồng thời, chế định thêm những quy định mới, nhằm đảm bảo tính bao quát,
đầy đủ mọi mặt của vấn đề về bình đẳng giới, trong đó có tính đến những khác biệt về
giới của phụ nữ và nam giới để đưa ra những quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của phụ nữ.
Thứ ba, đẩy mạnh hơn việc xây dựng các chính sách ưu tiên, chính sách bảo vệ và
hỗ trợ một cách thiết thực đối với phụ nữ, nhất là phụ nữ ở nông thôn, phụ nữ ở các vùng
đặc biệt khó khan. Bởi so với nhóm phụ nữ khác thì lực lượng phụ nữ ở nơng thôn chiếm
số lượng lớn những lại phải chịu nhiều thiệt thòi nhất. Cho nên, nội dung các quy định về
bảo vệ quyền phụ nữ cần phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề này và phải đảm bảo tính
khả thi của chúng trên thực tế.
Thứ tư, hiện nay trên thế giới có nhiều nước thừa nhận bạo lực đối với phụ nữ là
vấn đề liên quan đến quyền con người, cho dù xảy ra ở ngoài xã hội hay trong gia đình.
Những bạo lực đối với phụ nữ là vi phạm nhân quyền, là một biểu hiện của sự phân biệt
đối xử với phụ nữ. Cho nên vấn đề bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực trong gia đình bằng công
cụ pháp luật là một nhu cầu cấp thiết. Thực tế ở nước ta, đặc biệt là các vùng nông thơn,
tình trạng bạo lực trong gia đình vẫn cịn tồn tại rất nhiều. Mặc dù đã có một số quy phạm
pháp luật hơn nhân gia đình, hành chính và hình sự nhằm ngăn chặn và xử lí, nhưng nhìn
chúng việc áp dụng chưa triệt để, các nội dung quy phạm chưa bao quát được mọi mặt
thực tiễn.
Thứ năm, cần chú trọng hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động
của hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lí khoa học cho việc củng cố
và hoàn chỉnh đội ngữ Kiếm tra viên, Điều tra viên, Hội thẩm nhân dân chuyên trách, đào
17
lOMoARcPSD|15978022
tạo có hệ thống, được trang bị những kiến thực về tâm lí học, về vấn đề giới để có thái độ
đúng mực khi tiến hành tố tụng hình sự, đảm bảo được quyền lợi của phụ nữ.
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ
về bình đẳng giới tại xã …
Thứ nhất, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về bình đẳng giới
giúp phụ nữ biết, hiểu và thực hiện các quy định của pháp luật, góp phần nâng cao vị thế,
vai trị của mình trong gia đình và ngồi xã hội. Tun truyền, giáo dục về bình đẳng giới
thơng qua nhiều hình thức giúp cho phụ nữ thấy rõ thực trạng của vấn đề bất bình đẳng
giới đang ngăn cản sự phát triển xã hội. Qua đó làm thay đổi nhận thức và hành vi của
phụ nữ về giới và bình đẳng giới theo hướng tiến bộ, giúp họ khẳng định được bản thân
trong gia đình và xã hội. Thông qua các cuộc họp, hội thảo, hội nghị cần phát huy vai trò
của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
bình đẳng giới với nhiều hình thức phong phú, đa dạng như: phát thanh, truyền hình, tạp
chí, tờ rơi, hội thi... Tiến hành lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong nhiều hoạt động
chuyên đề của từng cơ quan và trong nhiều chương trình, dự án kinh tế - xã hội khác ở
các cấp, các ngành, các địa phương.
Thứ hai, thay đổi nhận thức của phụ nữ về vai trị và vị thế của nữ giới trong gia
đình và ngoài xã hội. Trong thực tế, vị thế và vai trò của người phụ nữ chịu nhiều tác
động từ các yếu tố truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, với tiềm thức dành nhiều
sự ưu tiên cho nam giới. Quyền của nam giới trong hôn nhân được coi là chính đáng và
đúng với trật tự. Đó là một sự cản trở lớn đối với việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới
ở nước ta. Muốn thực hiện được quyền bình đẳng, phụ nữ phải là người chủ động trong
lựa chọn bạn đời, thỏa thuận rõ ràng việc phân cơng lao động trong gia đình, ni dạy
con… cởi bỏ sợi dây ràng buộc vào công việc nội trợ được viện vào việc nó kết bằng
những giá trị của tình u thương và gắn bó chặt chẽ, xây dựng mơ hình gia đình đối
xứng. Để thực hiện được mục tiêu bình đẳng giới mang tính bền vững, ngành giáo dục
phải xây dựng chương trình hành động nhằm định hướng và thay đổi hành vi của nam, nữ
từ giáo dục mầm non, tiểu học. Thay đổi quan điểm cho rằng chăm sóc gia đình là trách
nhiệm của phụ nữ, giáo dục con cái, chăm lo gia đình là trách nhiệm của phụ nữ.
Thứ ba, tích cực nâng cao trình độ văn hóa, trình độ tay nghề để nâng cao vị thế và
vai trò của phụ nữ trong xã hội. Người phụ nữ phải ý thức được đầy đủ vai trò của mình
trong xã hội mới có thể nắm bắt được những cơ hội, khẳng định vị thế trong xã hội. Để
thực hiện được sự bình đẳng với nam giới, phụ nữ phải thường xuyên trau dồi trình độ
học vấn ngang bằng với nam giới. Lao động nữ trình độ văn hóa tối thiểu phải hết phổ
thơng trung học để có thể tham gia vào các lĩnh vực sản xuất được cơ giới hóa, tự động
hóa và sử dụng mạng lưới thơng tin điện tử. Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế tri
18
lOMoARcPSD|15978022
thức địi hỏi họ có trình độ chun ngành như cao đẳng, đại học, sau đại học, đồng thời
có kiến thức liên ngành, đa ngành bởi vì hoạt động sản xuất ngày nay thường là sự tiếp
cận liên ngành.
Thứ tư, thực hiện tốt các quy định pháp luật về bình đẳng giới tại các cơ quan, đơn
vị, địa phương tạo cơ hội nâng cao vị thế, vai trò cho phụ nữ. Các quy định của pháp luật
hiện hành quan tâm tới phụ nữ, nhưng mới chỉ ở trên giấy tờ. Việc áp dụng pháp luật ở
các cơ quan khác nhau, trong bối cảnh cụ thể, phụ thuộc nhiều vào cách thức người đứng
đầu cơ quan phát huy năng lực của phụ nữ, tạo ra các cơ hội cho sự phát triển của lãnh
đạo nữ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, phụ nữ bị đánh giá khắt khe hơn nam giới. Sự khác
biệt về kỳ vọng có nghĩa, lãnh đạo nữ được trơng đợi thể hiện cả phẩm chất “nam” và
“nữ”. Ví dụ, người ta mong đợi lãnh đạo nữ kết hợp các kỹ năng quản lý với phẩm chất
mềm mại và cảm tính. Tuy nhiên, quá nhiều đức tính nam giới sẽ bị coi là khơng nữ tính
và q quyết đốn. Rà soát các kết quả nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của giải
quyết quan niệm của cả nam và nữ như là bước đi chủ chốt phá bỏ rào cản. Cần có những
chính sách cụ thể trong chiến lược xây dựng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề
bạt cán bộ nữ và chính sách giúp giảm gánh nặng gia đình cho phụ nữ.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ở cấp cơ sở. Thường xuyên tiến
hành tuyên truyền giáo dục về quyền bình đẳng nam nữ cho các tầng lớp nhân dân nhất là
thanh thiếu niên nam nữ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Các tổ chức đoàn thể ở các địa
phương phải tích cực tiến hành các hoạt động phổ biến kiến thức về bình đẳng giới, lên
án và kịp thời đưa ra kiểm điểm trước dân những người không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ quy định của pháp luật về bình đẳng giới. Kết quả xử lí của
cac cơ quan có thẩm quyền cần được cơng bố rộng rãi trên cac phương tiện thông tin đại
chúng, thông báo đến cơ quan đơn vị của người vi phạm nhằm phát huy hiệu quả của
công tác giáo dục pháp luật trên diện rộng.
19