Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận môn luật biển vụ án “tomimaru”nhật bản và liên bang nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.93 KB, 15 trang )

lOMoARcPSD|15978022

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC

MƠN: LUẬT BIỂN
LỚP: HC45B1
ĐỀ BÀI: VỤ ÁN “TOMIMARU” – NHẬT BẢN VÀ LIÊN BANG NGA
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Họ Tên
Võ Thị Trinh Nữ
Nguyễn Ngọc Yến Nhi
Bùi Thị Ngọc Như
Đinh Thị Nữ
Nguyễn Thị Yến Oanh
Lê Thị Kim Phượng
Lê Văn Qúy
Trần Thị Khánh Quyên


Lê Nguyễn Như Quỳnh
Phan Nguyễn Kim Thảo
Trần Tiểu Thư

MSSV
2053801014206 - Nhóm trưởng
2053801014185
2053801014192
2053801014205
2053801014207
2053801014219
2053801014224
2053801014226
2053801014227
2053801014247
2053801014261


lOMoARcPSD|15978022

Mục lục
1. Tóm tắt vụ án...........................................................................................................1
1.1. Tóm tắt vụ việc....................................................................................................1
1.2. Lập luận của các bên...........................................................................................2
1.2.1. Lập luận của nguyên đơn (Nhật Bản)............................................................2
1.2.2. Lập luận của bị đơn (Liên Bang Nga)...........................................................4
1.3. Lập luận và pháp quyết của Tòa án.....................................................................5
1.3.1. Lập luận của Tòa án......................................................................................5
1.3.2. Tòa án đưa ra phán quyết về vụ tranh chấp...................................................7
2. Trình bày quan điểm của nhóm..............................................................................7

2.1. Quan điểm của các học giả về vụ án....................................................................7
2.2. Quan điểm của Tòa án hoặc đương sự về vụ việc tương tự.................................8
2.2.1. Phán quyết của cơ quan tài phán và vụ việc có liên quan..............................8
2.2.2. Lập luận của các bên.....................................................................................9
2.2.3. Phán quyết của Tịa án...................................................................................9
2.3. Quan điểm của nhóm.........................................................................................10
2.4. Bài học kinh nghiệm..........................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................13


lOMoARcPSD|15978022

1. Tóm tắt vụ án
1.1. Tóm tắt vụ việc
Năm 1984, Hiệp định giữa Chính phủ Liên Xơ và Chính phủ Nhật Bản về quan
hệ tương hỗ trong lĩnh vực đánh bắt cá ngoài khơi bờ biển (giữa) hai nước đã được ký
kết (sau đây gọi là "Hiệp định 1984"). Theo khoản 1 Điều 4 của Hiệp định này, mỗi
bên sẽ thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng cơng dân và tàu cá của
mình, tiến hành đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của bên kia, tuân thủ các
biện pháp bảo tồn tài nguyên sống và các điều khoản và điều kiện khác được thiết lập
trong luật pháp và quy định của bên đó.
Vụ bắt giữ Tomimaru xảy ra vào ngày 31/10/2006. Tàu cá Tomimaru (mang quốc
tịch Nhật Bản) khi đang đánh bắt ở vùng phía tây biển Bering (thuộc vùng đặc quyền
kinh tế của Nga) thì đã bị chính quyền ở đây bắt giữ.
Phía Nga đã chỉ ra nguyên nhân tàu bị bắt là vì lý do: số lượng cá thực tế trên tàu
khác với số liệu cá được ghi chép trong bảng kê khác. Con tàu bị buộc tội với các tang
vật được tìm thấy trên tàu theo Điều 82 của Bộ luật tố tụng Hình sự Liên bang Nga.
Theo đó, Nhật Bản đã không tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết, với nghĩa vụ
của một quốc gia có cờ theo luật pháp quốc tế.
Nga đã tiến hành thủ tục tố tụng hình sự chống lại thuyền trưởng con tàu (theo

khoản 2 của Điều 253 và khoản 2 của Điều 201 Bộ luật Hình sự của Liên bang Nga),
nhằm yêu cầu phía Nhật Bản trả khoảng tiền phạt và bồi thường thiệt hại cho những
tổn thất từ việc đánh bắt vượt quá số lượng cho phép. Đồng thời, cũng tiến hành các
thủ tục hành chính dựa trên cáo buộc vi phạm khoản 2 của Điều 817 của Bộ luật Vi
phạm Hành chính của Liên bang Nga (Vi phạm các quy tắc (tiêu chuẩn, định mức)
điều chỉnh các hoạt động trong vùng biển nội địa, lãnh hải, thềm lục địa và (hoặc)
vùng đặc quyền kinh tế của Liên bang Nga và các điều kiện cho phép), tiến hành tịch
thu con tàu đối với chủ sở hữu của nó.
Chủ sở hữu con tàu đã nhiều lần kháng cáo lên Tòa án tối cao Liên bang về hình
phạt nhưng hơn 08 tháng trôi qua kể từ thời điểm con tàu bị bắt thì chưa có một trái
phiếu hợp lý nào được đưa ra hoặc biện pháp bảo đảm hợp lý nào được ban hành và
con tàu vẫn chưa được trả tự do.
Trái phiếu: nghĩa vụ mà bên phái bị can ký cam kết đảm bảo sự có mặt trong
phiên tịa và thường được gọi đơn giản là trái phiếu.
Từ thời điểm bị bắt giữ cho đến thời điểm nộp đơn khởi kiện thì tàu Tomimaru
vẫn mang quốc tịch Nhật Bản.
Nhật Bản cho rằng Nga đã không thực hiện đúng nghĩa vụ mà mình đã cam kết.
Cụ thể, phía Nga đã vi phạm theo Điều 292 của Công ước Luật biển quy định về Giải
phóng ngay cho tàu thuyền bị cầm giữ hay trả tự do cho đồn thủy thủ của nó và Điều
73 của Công ước Luật biển quy định thực thi pháp luật và các quy định của Quốc gia
ven biển.
1


lOMoARcPSD|15978022

Ngược lại, Nga đã chỉ ra rằng Nhật Bản đã khơng thanh tốn các khoản tiền phạt
được u cầu và Nga cũng đã thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo khoản 2 Điều 73 của
Công ước. Đồng thời, theo Điều 292 của Cơng ước thì các lý do Nhật Bản đưa ra là
mơ hồ và chung chung nên Nga đã không thực hiện.

1.2. Lập luận của các bên
1.2.1. Lập luận của nguyên đơn (Nhật Bản)
Thứ nhất, có sự thiếu nhất quán trong việc giải quyết các thủ tục tố tụng hình sự
và thủ tục tố tụng hành chính giữa các cơ quan ở Liên bang Nga đã ngăn chặn việc giải
phóng tàu Tomimaru nhanh chóng
Vào tháng 10 năm 2006, phía Nga cụ thể là Văn phịng Bảo vệ Thiên nhiên của
Công tố viên Liên quận ở Kamchatka đã đặt ra các thủ tục hành chính đối với chủ sở
hữu của Tomimaru cịn thủ tục tố tụng hình sự đối với thuyền trưởng của con tàu này
đã được đặt ra bởi Tổng cục Cảnh sát biển Biên giới Đông Bắc của Cơ quan An ninh
Liên bang.
Cụ thể, trong lá thư vào ngày 12 tháng 12 năm 2006 Văn phòng Bảo vệ Thiên
nhiên của Công tố viên Liên quận ở Kamchatka đã đề cập rằng ngày 8 tháng 11 năm
2006, Văn phịng Cơng tố viên Liên quận Kamchatka về Bảo vệ Thiên nhiên đã đệ đơn
kiện hình sự số 640571 chống lại thuyền trưởng Takagiwa Matsuo của tàu Tomimaru
thứ 53, cáo buộc anh ta phạm tội theo Điều 253, Phần 2 của Bộ luật Hình sự Liên bang
Nga. Trong bức thư này, khơng có một từ đề cập đến về bất kỳ hành vi phạm tội nào
của chủ sở hữu hoặc bất kỳ cáo buộc nào chống lại chủ sở hữu, hoặc bất kỳ trách
nhiệm pháp lý nào của chủ sở hữu. Mà thay vào đó trong Phụ lục 7 của bị đơn. Một tài
liệu khác cũng được đề ra ngày 12 tháng 12 năm 2006, là công cụ pháp lý thực tế đưa
ra quyết định của Văn phịng Cơng tố viên về bảo vệ thiên nhiên đối với đơn yêu cầu
của chủ sở hữu. Tài liệu này mở đầu bằng dịng chữ "Điều tra viên chính của Văn
phịng Cơng tố viên Liên quận Kamchatka về Bảo vệ Thiên nhiên, Luật sư,
Kabychenko VA, đã xem xét đơn kiến nghị của Người đứng đầu Cơng ty Kanai Gyogyo
đối với vụ án hình sự số 640571” sau đó quyết định cuối cùng được đưa ra trong tài
liệu này là "Dựa trên những điều trên và theo các Điều 38, 122 và 159 của Bộ luật
Hình sự Liên bang Nga, tơi đưa ra quyết định để đáp ứng kiến nghị của Người đứng
đầu Công ty Kanai Gyogyov - chủ sở hữu liên quan đến việc đánh giá mức độ thiệt hại
do thuyền trưởng của tà Tomimaru số 53 gây ra cho Liên bang Nga với mục đích bồi
thường tự nguyện của nó." Tuy nhiên quyết định này cũng không đề cập rõ ràng rằng
đây có phải là trách nhiệm hành chính mà chủ sở hữu của Tomimaru phải chịu để được

thả con tàu hay không. Trong lá thư này chỉ đặt ra số tiền 8.800.000 rúp, tức là khoảng
350.000 đô la Mỹ để yêu cầu phía thuyền trưởng bồi thưởng thiệt hại sinh thái trong
một lá thư có số hiệu là 1-640571-06. Sau đó chủ sở hữu đã kiến nghị lên Tổng cục
Cảnh sát biển Biên giới Đông Bắc để ấn định một trái phiếu cho phép Tomimaru rời
khỏi Nhật tuy nhiên đã không được chấp nhận, sau này khi chủ sở hữu trình bày kiến
nghị này lên cho Tòa án thành phố Petropavlovsk-Kamchatskii cũng không được chấp
2


lOMoARcPSD|15978022

nhận với lý do là: "các quy định của Bộ luật vi phạm hành chính của Liên bang Nga
khơng quy định là có khả năng giải phóng tài sản sau khi nộp số tiền trái phiếu hợp lý
trong trường hợp vi phạm hành chính".
Văn phịng Cơng tố viên về Bảo vệ Thiên nhiên đã đề ra một trái phiếu sẽ có tác
dụng đối với các cáo buộc hình sự chống lại Master nhưng sẽ không ảnh hưởng đến
các hành vi phạm tội hành chính mà chủ sở hữu bị buộc tội. Có vấn đề tố tụng trong
trường hợp Tomimaru và "đóng góp tự nguyện" của 8.800.000 rúp sẽ chỉ mở một trong
hai vấn đề đó. Chủ sở hữu muốn được cho biết anh ta sẽ tốn bao nhiêu tiền trong
trường hợp hành chính. Việc chủ sở hữu đã chừng chần không trả 8.800.000 rúp là một
điều dễ hiểu. Bởi lẽ 8,800.000 rúp là số tiền mà Văn phịng Cơng tố viên về Bảo vệ
Thiên nhiên đã đặt ra cho các thủ tục tố tụng hình sự có liên quan, và số tiền này
không thể giải quyết những vấn đề liên quan đến thủ tục tố tụng hành chính để chống
lại người chủ sở hữu.
Thứ hai, phản đối về số tiền 8,8 triệu rúp được gọi là trái phiếu không hợp lý
Về phía Liên bang Nga hiện nay vẫn giữ quan điểm rằng 8.800.000 rúp như một
trái phiếu, nhưng đối với phía Nhật Bản thì nó dường như khơng phải là một trái phiếu
mà là một khoản thanh toán bắt buộc mà thuyền trưởng có nghĩa vụ phải trả liên quan
đến thiệt hại cho mơi trường và ngay chính Văn phịng Cơng tố viên của phía Liên
bang cũng gọi một nó là "bồi thường tự nguyện" đối với thiệt hại.

Bên cạnh đó Nhật Bản cũng chỉ ra rằng phải chăng là có sự thiếu nhất qn của
chính quyền Nga trong việc quản lý các thủ tục liên quan đến đưa ra trái phiếu hợp lý,
bởi lẽ Liên bang Nga coi 8.800.000 rúp là một trái phiếu hợp lý để đảm bảo việc thả
tàu Tomimaru bị buộc tội đánh bắt 50,6 tấn cá mà hơn một nửa trong số đó hồn tồn
bất hợp pháp. Tuy nhiên trong một trường hợp có phần tương tự trước đây là vụ việc
Hoshinmaru thì phía Liên bang Nga đã đưa ra một trái phiếu đảm bảo hợp lý là
25.000.000 rúp cho Hoshinmaru, gấp ba lần trái phiếu Tomimaru, mặc dù Hoshinmaru
chỉ lấy một nửa số lượng cá bất hợp pháp. Như vậy câu hỏi được đặt ra 8.800.000 rúp
có phải là một trái phiếu hợp lý để thả tàu theo đúng những gì Liên bang Nga phản hồi
đơn kiện của Nhật Bản.
Thứ ba, phản đối việc Nga coi con tàu Tomimaru là tài sản của Nga
Liên bang Nga đang giam giữ tàu Tomimaru và vấn đề tịch thu tàu này vẫn đang
trong quá trình chờ được xử lý trước Tịa án Nga. Vì thế theo quan điểm của Nhật Bản
thì chủ sở hữu vẫn chưa mất quyền của mình đối với tàu Tomimaru. Bên cạnh đó, Nga
đưa ra phản hồi ràng tàu Tomimaru là tài sản của Nga nên Nhật Bản khơng có quyền
khởi kiện con tàu này, cũng dựa vào Điều 292 của Công ước về Luật biển: “Yêu cầu
giải phóng hay trả tự do chỉ có thể do quốc gia mà tàu mang cờ hoặc nhân danh quốc
gia ấy đưa ra” chứng minh rằng việc u cầu giải phóng một con tàu khơng phụ thuộc
vào việc chủ sở hữu hay quốc tịch của chủ sở hữu là ai mà nó phụ thuộc vào quốc gia
mà tàu mang cờ. . Việc thay đổi cờ là một vấn đề chính thức ảnh hưởng đến luật áp
dụng cho tàu và thay đổi Quốc gia chịu trách nhiệm về tàu với tư cách là Quốc gia cờ
3


lOMoARcPSD|15978022

của nó. Nó khơng phải là một cái gì đó xảy ra tại một nét bút trên một hợp đồng mua
bán tư nhân giữa các bên tư nhân trong trường hợp các quốc gia liên quan có lẽ hồn
tồn khơng biết về việc bán con tàu. Đồng thời, Tomimaru chưa hề trải qua một thủ tục
nào để chuyển sang một lá cờ khác hoặc hủy đăng ký việc mang lá cờ của Nhật nên

Nhật Bản có quyền mang đến một đơn kiện phát hành nhanh chóng đối với nó bất kể
chủ sở hữu của nó là ai hay quốc gia nào.
1.2.2. Lập luận của bị đơn (Liên Bang Nga)
Thứ nhất, phía Liên bang Nga cho rằng bản thân đã hồn thành tốt việc thiết lập
trái phiếu theo quy định đinh của pháp luật và bên nguyên đơn đã có sự nhầm lẫn
trong vấn đề trái phiếu đảm bảo
Phía bên Liên bang Nga cũng nhận xét rằng là nguyên đơn đã đọc và hiểu sai
Tuyên bố phản hồi của bị đơn về vấn đề này, vào ngày 12 tháng 12 năm 2006, Văn
phịng Cơng tố viên Liên quận về Bảo vệ Thiên nhiên ở Kamchatka đã đặt ra trái phiếu
hợp lý và số lượng trái phiếu được đặt ở mức thiệt hại tổng thể đối với tài nguyên sống
biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Nga tương đương với 8.800.000 rúp. Đồng thời
phía bên Nga đã cung cấp các hướng dẫn chi tiết về tài khoản ngân hàng mà việc thanh
tốn trái phiếu sẽ được thực hiện và thơng báo ngay lập tức cho chủ sở hữu rằng con
tàu Tomimaru sẽ được giải phóng ngay sau khi phía bên chủ sở hữu thanh toán số trái
phiếu mà Nga đã đề ra. Cho nên có thể xác định chính xác rõ ràng rằng phía bên Nga
đã làm đầy đủ mọi yêu cầu về việc thẩm quyền thích hợp để thiết lập một trái phiếu
hợp lý trong trường hợp Tomimaru.
Bên bị đơn cũng cho rằng việc nguyên đơn lập luận rằng trái phiếu đo chính
quyền Nga đặt ra khơng phải là trái phiếu hợp lệ theo khoản 2 Điều 73 của Công ước
Quốc tế về luật biển hay sự phân mảnh khái niệm trái phiếu cụ thể là trái phiếu theo
thủ tục tố tụng hình sự khác với trái phiếu theo thủ tục tố tụng hành chính là khơng
phù hợp với quy định cũng như là thủ tục tố tụng trên thực tế do bị đơn thực hiện.
Thứ hai, phía Liên bang Nga cho rằng nhận định là trái phiếu do cơ quan có thẩm
quyền của Nga đặt ra khơng có hợp lý là vô căn cứ
Nguyên đơn cho rằng trái phiếu do chính quyền Nga đặt ra vào ngày 12 tháng 12
năm 2006 ở mức thấp một cách vô lý, xấp xỉ một phần ba hình phạt có thể được áp
dụng cho các hành vi vi phạm trong trường hợp này. Phía Nhật Bản cho rằng Nga đã
đề ra một số tiền phạt bồi thường thiệt hại – theo quan điểm của Nga là trái phiếu trái
phiếu không tương xứng với các hình phạt tiềm năng, bằng chứng mà nguyên đơn đưa
ra là trong trường hợp có phần tương tự như Hoshinmaru dù số lượng cá đánh bắt bất

hợp pháp ít hơn nhưng lại bị phạt nhiều hơn Tomimaru.
Tuy nhiên theo quan điểm của Liên bang Nga thì "Hoshinmaru" và "Tomimaru"
là hai vụ án khác nhau và do đó việc viện dẫn một trường hợp trong bối cảnh của
trường hợp kia là không hợp lý. Trong cả hai trường hợp trong Tuyên bố phản hồi của
chúng tôi - trong chương Tuyên bố về sự kiện - Bị đơn bao gồm các phần về bối cảnh
của trường hợp, thực tế là giống hệt nhau nhưng ý nghĩa của những gì được nêu trong
4


lOMoARcPSD|15978022

các phần này là khác nhau và thời gian cho việc thiết lập một trái phiếu hợp lý cũng
khác nhau. Trên thực thế là trước đây đã có những vụ việc dù tàu cá Nhật Bản ngày
càng vi phạm các quy định của Nga trong vùng đặc quyền kinh tế nhưng lại có một
hình thức khơng nộp tiền phạt do các cơ quan có thẩm quyền của Nga đưa ra đối với
các hành vi vi phạm đã gây ra trong khu vực. Để khắc phục nó các cơ quan có thẩm
quyền của Nga phải thiết lập các thủ tục đặc biệt được chuyển tới các nhà chức trách
Nhật Bản trong khuôn khổ các hoạt động của hai Ủy ban hỗn hợp được thành lập theo
thỏa thuận song phương năm 1984 và 1985 giữa hai nước. Do đó, trong trường hợp
Tomimaru, trái phiếu được xác định theo mức phạt đã được áo dụng trong những năm
qua và thủ tục mới được phát triển mới vừa đề cập vẫn chưa được sử dụng trong
trường hợp này. Cịn với Hoshinmaru thì việc tính toán trái phiếu đã được thực hiện
theo thủ tục đặc biệt này . Từ những luận điểm vừa rồi, phía Liên bang Nga cho rằng
việc trái phiếu do Nga đã đặt ra trong trường hợp Tomimaru là thấp hơn so với trong
trường hợp Hoshinmaru là hoàn toàn phù hợp với thơng lệ tồn tại tại thời điểm đó.
Thứ ba, phản đối quan điểm của phía Nhật Bản cho rằng tàu Tomimaru không
thể là tài sản của Liên bang Nga
Trong quá trình lập luận, phía bên ngun đơn đã nhiều lần nhận xét rằng vì
quyết định của Tịa án thành phố Petropavlovsk-Kamchatskii chưa có hiệu lực và nó
đang là đối tượng trong một vụ việc đang trong Liên bang Nga. Tuy nhiên phía bên bị

đơn vẫn khẳng định lại một lần nữa là thủ tục kháng cáo đã được giải quyết và kết quả
cuối cùng là phán quyết của Tòa án thành phố Petropavlovsk-Kamchatskii được Tòa
án quận Kamchatka giữ nguyên và quyết định của Tịa án thành phố PetropavlovskKamchatskii có hiệu lực, ngay sau đó Cơ quan Liên bang về Quản lý Tài sản Liên
bang bằng một đạo luật thực hiện ngày 9 tháng 4 năm 2007 bao gồm tàu cá Tomimaru,
bị tịch thu theo quyết định của tòa án, trong Sổ đăng ký tài sản liên bang là tài sản của
Liên bang Nga. Vấn đề cần làm rõ cho phía nguyên đơn là vụ việc Tòa án Tối cao Liên
bang Nga đang thụ lý không phải là kháng cáo liên quan đến bản án đã có hiệu lực mà
là sự phản đối của chủ tàu theo thủ tục xem xét giám sát do Tòa án Tối cao thực hiện một thủ tục hoàn toàn khác với thủ tục kháng cáo. Do đó, con tàu hiện đang được đăng
ký trong Sổ đăng ký tài sản liên bang là tài sản của Liên bang Nga.
Bên cạnh đó ngun đơn cịn có quan điểm tàu Tomimaru chưa bị loại trừ khỏi sổ
đăng ký cờ Nhật Bản, nó khơng thể trở thành tài sản của Liên bang Nga cho đến khi
tình hình này được thay đổi. Theo phía Liên bang Nga cho rằng đây là một quan điểm
có thể được hiểu là Nhật Bản có thể ảnh hưởng đến các quyết định của tịa án Nga
hoặc ngăn chặn việc thực hiện các phán quyết của tòa án Nga. Và đây chắc chắn là
một quan điểm sai lầm vì Nhật Bản chắc chắn khơng có thẩm quyền này.
1.3. Lập luận và pháp quyết của Tòa án
1.3.1. Lập luận của Tòa án
Tòa Trọng tài nhấn mạnh rằng hai câu hỏi trong vụ việc này phải được phân biệt
rõ là Việc tịch thu có ảnh hưởng đến quốc tịch của tàu hay không? và Liệu việc tịch
5


lOMoARcPSD|15978022

thu có làm cho đơn yêu cầu giải phóng tàu nhanh chóng mà khơng có đối tượng hay
khơng?
Liên quan đến câu hỏi đầu tiên, Tòa Trọng tài tuyên bố rằng việc tịch thu một con
tàu không dẫn đến việc tự động thay đổi cờ quốc gia hoặc mất nó. Việc tịch thu làm
thay đổi quyền sở hữu tàu nhưng quyền sở hữu tàu và quốc tịch của tàu là những vấn
đề khác nhau. Theo Điều 91 của Công ước, mỗi quốc gia phải thiết lập các điều kiện

để cấp quốc tịch cho tàu và đăng ký tàu. Quốc tịch của con tàu được xác định là con
tàu có cờ của nước đó hoặc lá cờ của nước đó được treo bay trên tàu. Mối liên hệ pháp
lý giữa một quốc gia và một con tàu được quyền treo cờ của mình tạo ra một mạng
lưới các quyền và nghĩa vụ lẫn nhau, được nêu trong Điều 94 của Công ước. Theo
quan điểm về các chức năng quan trọng của Quốc kỳ được đề cập trong Điều 94 của
Công ước và vai trò then chốt của Quốc kỳ trong việc bắt đầu thủ tục thả tàu nhanh
chóng theo Điều 292 của Công ước, không thể giả định rằng việc thay đổi quyền sở
hữu sẽ tự động dẫn đến việc thay đổi hoặc mất cờ. Tòa án lưu ý rằng Bị đơn đã không
tuyên bố đã bắt đầu các thủ tục dẫn đến thay đổi hoặc mất cờ của Tomimaru.
Chuyển sang câu hỏi thứ hai: liệu việc tịch thu một con tàu có làm đơn xin trả tự
do nhanh chóng theo Điều 292 của Cơng ước mà khơng có đối tượng hay không.
Trọng tài lưu ý rằng Điều 73 của Công ước khơng đề cập đến việc tịch thu tàu thuyền.
Tịa án nhận thức được rằng nhiều quốc gia đã quy định các biện pháp tịch thu tàu cá
trong luật pháp của họ liên quan đến việc quản lý và bảo tồn tài nguyên sinh vật biển.
Khi xem xét liệu việc tịch thu có khiến đơn xin thả tàu nhanh chóng mà khơng có phản
đối hay khơng, Tịa án phải tính đến đối tượng và mục đích của thủ tục phóng thích
nhanh chóng. Đơn cũng phải được thực hiện theo khoản 3 Điều 292 của Cơng ước có
nội dung: “Tịa án sẽ nhanh chóng giải quyết với đơn xin trả tự do và sẽ chỉ giải quyết
vấn đề trả tự do, không ảnh hưởng đến tiến trình tiếp sau của mọi vụ kiện mà chiếc
tàu, chủ sở hữu hoặc thủy thủ đoàn của nó.”
Như Tịa án đã tun bố trong phán quyết của mình trong Vụ án "Monte
Confurco" (Báo cáo ITLOS 2000, trang 86, tại trang 108, đoạn 70), Điều 73 của Cơng
ước thiết lập sự cân bằng giữa lợi ích của Quốc gia ven biển trong việc thực hiện các
biện pháp thích hợp khi cần thiết để đảm bảo tuân thủ luật pháp và quy định được
thông qua một mặt và lợi ích của Quốc gia cờ trong việc đảm bảo thả tàu nhanh chóng
và phi hành đồn của họ khi đăng một trái phiếu hoặc bảo mật khác ở bên kia. Tòa
trọng tài muốn nhấn mạnh rằng một phán quyết theo Điều 292 của Công ước phải là
"không ảnh hưởng đến giá trị của bất kỳ trường hợp nào" trước diễn đàn trong nước
thích hợp chống lại tàu hoặc thủy thủ đồn của nó và điều này cũng là một yếu tố để
duy trì sự cân bằng giữa lợi ích của Quốc gia ven biển và của cờ của quốc gia. Đó là

quan điểm của Tịa án rằng việc tịch thu tàu cá không được sử dụng theo cách làm đảo
lộn sự cân bằng lợi ích của quốc gia cờ và của quốc gia ven biển được thành lập trong
Công ước.
6


lOMoARcPSD|15978022

Quyết định tịch thu loại bỏ tính chất tạm thời của việc giam giữ tàu khiến thủ tục
được thả ra nhanh chóng mà khơng có đối tượng. Một quyết định như vậy không nên
được thực hiện để ngăn chặn chủ tàu truy đòi các biện pháp tư pháp trong nước có sẵn,
hoặc để ngăn chặn cờ của quốc gia họ sử dụng thủ tục phóng thích nhanh chóng được
quy định trong Công ước; cũng không nên được thực hiện thông qua các thủ tục tố
tụng không phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về thủ tục tố tụng của pháp luật. Đặc
biệt, việc tịch thu được quyết định một cách vội vàng một cách vô lý sẽ gây nguy hiểm
theo quy định của điều 292 của Công ước.
Trong bối cảnh đó, Tịa trọng tài nhấn mạnh rằng, xét đến mục tiêu của điều 292
của Cơng ước, quốc gia có trách nhiệm phải hành động kịp thời. Mục tiêu này chỉ có
thể đạt được nếu chủ tàu và cờ của quốc gia đó hoạt động trong thời gian hợp lý để
truy đòi hệ thống tư pháp quốc gia của Quốc gia bị giam giữ hoặc để bắt đầu thủ tục
phóng thích nhanh chóng theo Điều 292 của Cơng ước.
Tịa trọng tài nhấn mạnh rằng, xem xét đối tượng và mục đích của thủ tục phóng
thích nhanh chóng, quyết định tịch thu một tàu khơng ngăn cản Tịa án xem xét đơn
xin trả tự do nhanh chóng cho tàu đó trong khi các thủ tục tố tụng vẫn còn trước các
tòa án trong nước của Quốc gia bị giam giữ.
Tòa án lưu ý rằng quyết định của Tòa án Tối cao Liên bang Nga chấm dứt các
thủ tục trước các tòa án trong nước. Điều này đã không được tranh cãi bởi Người nộp
đơn. Sau khi được thông báo về quyết định đó, Người nộp đơn đã khơng duy trì lập
luận của mình rằng việc tịch thu Tomimaru khơng phải là cuối cùng. Tịa trọng tài
cũng lưu ý rằng khơng có sự mâu thuẫn nào với các tiêu chuẩn quốc tế về thủ tục tố

tụng của pháp luật đã được tranh luận và khơng có cáo buộc nào được đưa ra rằng các
thủ tục tố tụng dẫn đến việc tịch thu là để làm thất vọng khả năng truy đòi các biện
pháp khắc phục trong nước hoặc quốc tế.
Tòa trọng tài cho rằng quyết định thả tàu theo Điều 292 của Công ước sẽ mâu
thuẫn với quyết định kết thúc quá trình tố tụng trước khi nội địa thích hợp cho một và
xâm phạm thẩm quyền quốc gia, do đó trái với Khoản 2 Điều 292 của Cơng ước.
Vì những lý do đã đưa ra, Tịa án khơng cho rằng cần phải tuyên bố rõ ràng về
một số đệ trình của các bên, dưới hình thức mà họ đã được chọn và cho rằng đơn khởi
kiến là khơng có đối tượng.
1.3.2. Tòa án đưa ra phán quyết về vụ tranh chấp
Tòa án nhất trí thấy rằng đơn khởi kiện của Nhật Bản khơng cịn có bất kỳ đối
tượng nào do đó Tịa án khơng được u cầu để đưa ra quyết định trong đó.
Cả hai văn bản đều được thực hiện bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, đều có thẩm
quyền tại Thành phố Hamburg tự do và Hanse ngày 6 tháng 8 năm 2007, một trong số
ba bản đó sẽ được đặt trong kho lưu trữ của Tòa án và những bản khác được truyền
đến Chính phủ Nhật Bản và Chính phủ Liên bang Nga.

7

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

2. Trình bày quan điểm của nhóm
2.1. Quan điểm của các học giả về vụ án
Vấn đề tìm kiếm sự trả tự do bằng trái phiếu của hai tàu đánh cá mang cờ Nhật
Bản bị Nga bắt giữ vì đã hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
ngồi khơi phía đơng Siberia, Giáo sư Bernard H. Oxman – Giáo sư về chuyên ngành
Luật quốc tế đã thể hiện quan điểm của mình qua Bài báo cáo được đăng trên Tạp chí

Luật Quốc tế Hoa Kỳ, Tập 102, số 2 (tháng 4 năm 2008), trang 316-322.1
Từ vụ án "Tomimaru", theo quan niệm của tác giả cho rằng khi sử dụng quy định
tại khoản 2 Điều 73 Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 quy định về
nghĩa vụ giải phóng nhanh chóng các tàu và thủy thủ đoàn phải hiểu được rằng chức
năng của việc cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của
chiếc tàu này sau khi đã thanh toán trái phiếu hoặc các bảo đảm tài chính khác là cho
phép tàu và thủy thủ đồn được tự do trong khi chờ các thủ tục tố tụng tiếp theo tại các
tòa án tại quốc gia ven biển. Và việc giải phóng ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay
cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này sau khi trái phiếu đã được thanh toán là một
nhiệm vụ của quốc gia ven biển. Còn việc đưa ra một trái phiếu như thế nào là hợp lý
là quyền của quốc gia ven biển. Bên cạnh đó, tác giả còn khẳng định một lần nữa Nhật
Bản vẫn là quốc gia treo cờ trên con tàu Tomimaru. Theo đó tác giả đồng ý với quan
điểm của Tòa trọng tài là Liên bang Nga phải hiểu rằng việc thu một con tàu không
dẫn đến việc tự động thay đổi cờ hay thay đổi quốc tịch của con tàu. Và việc Nga đã
không sử dụng bất kỳ thủ tục liên quan đến việc thay đổi hay tước mất cờ (quốc tịch)
của con tàu Tomimaru nhưng lại khẳng định con tàu này thuộc quyền sở hữu của Nga
thì là khơng hợp lý.
Mặc khác về mặt thủ tục tố tụng theo Điều 292 Cơng ước Liên Hợp quốc về Luật
biển năm 1982 thì các biện pháp khắc phục của thành phố và Quốc tế, các tiêu chuẩn
Quốc tế về thủ tục tố tụng là hợp lí tuy nhiên có vội vàng là vơ lí. Vì đối với việc Tịa
án đã nêu rõ u cầu tố tụng, những nghi ngờ được thể hiện riêng biệt thì khơng phản
ánh được đầy đủ bối thủ tục tố tụng trong đó câu hỏi về quốc tịch được đặt ra trước
Tịa án. Chính quốc gia giam giữ khẳng định rằng hành động của chính họ - tịch thu
con tàu - hủy bỏ nghĩa vụ phóng thích nhanh chóng của nó theo Cơng ước này đưa ra
tại Điều 292 về thủ tục tố tụng để thực thi nghĩa vụ đó mà khơng có đối tượng. Khi
làm như vậy, chính nhà nước giam giữ đã đặt vấn đề ra trước Tịa án, từ đó suy ra sẽ có
câu hỏi “Liệu nghĩa vụ sự trả tự do nhanh chóng đã được giải quyết một cách thích
hợp bằng biện pháp giam giữ?”.
2.2. Quan điểm của Tòa án hoặc đương sự về vụ việc tương tự
2.2.1. Phán quyết của cơ quan tài phán và vụ việc có liên quan

Phán quyết của Tịa án quốc tế về Luật biển đối với vụ việc The “Juno Trader”
giữa Saint Vincent và Grenadines với Guinea Bissau năm 2004.
Trong vụ The “Juno Trader”, Cộng hòa Guinea-Bissau đã bắt giữ tàu cá của Saint
Vincent cùng toàn bộ thủy thủ đồn khi cho rằng họ đã có hành vi đánh bắt cá bất hợp
1 />
8

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Guinea-Bissau. ITLOS đã kết luận GuineaBissau đã vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 73 của UNCLOS do đã khơng nhanh
chóng thả chiếc tàu bị bắt giữ và trả tự do cho thủy thủ đồn của chiếc tàu đó khi đã có
khoản bảo lãnh 50,000-euro cho việc vi phạm của tàu Saint Vincent cùng thủy thủ
đoàn. ITLOS đã dẫn chiếu đến yếu tố nhân đạo và trình tự, thủ tục hợp pháp của pháp
luật quốc tế khi giải thích và áp dụng Khoản 2 Điều 73 của UNCLOS để giải quyết vụ
việc.
2.2.2. Lập luận của các bên
Lập luận của Saint Vincent và Grenadines
Bên nguyên đơn đưa ra các bằng chứng để bảo vệ đơn kiện của mình.
Thứ nhất, bên nguyên đơn phủ nhận rằng khơng có bất kỳ hành vi phạm tội nào
đã được thực hiện trong vùng đặc quyền kinh tế của Guinea-Bissau. Họ đã chỉ ra rằng
lượng cá được tìm thấy trên tàu Juno Trader ở Guinea-Bissau cũng giống như số lượng
được nạp ở Mauritania. Mỗi gói được đánh dấu "JW N8607268", là Số tổ chức hàng
hải quốc tế của Juno Warrior.
Thứ hai, về quốc tịch của con tài này bên nguyên đơn đã chỉ ra rằng con tàu
mang quốc tịch của Saint Vincent và Grenadines dựa vào giấy chứng nhận đăng ký và
trong lúc bị bắt con tàu đang treo cờ của Saint Vincent.
Thứ ba, bên nguyên đơn dựa vào Khoản 2 Điều 73 của Công ước về Luật biển để

chỉ ra rằng các khoản tiền phạt mà bị đơn đưa ra là không hợp lý.
Thứ tư, về thẩm quyền giải quyết của Tòa án quốc tế, bên nguyên đơn đã dựa vào
quy định tại Điều 292 UNCLOS để khẳng định rằng Tòa án quốc tế về luật biển có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp này.
Lập luận của Guinea Bissau
Thứ nhất, bên bị đơn đã chỉ ra rằng con tàu Juno Trader đã đánh bắt cá bất hợp
pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, khơng được kiểm sốt và khơng được
báo cáo đã dẫn đến làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Theo đó, với sự kiểm tra của các cơ
quan chức năng đã phát hiện các loài được xác định trên M / V Juno Trader là các lồi
được tìm thấy ở vùng biển Guinea-Bissau, ngoại trừ lồi Brama brama thuộc họ
Bramiidae, đơi khi được tìm thấy.
Thứ hai, họ còn đưa ra lập luận cho rằng các thủ tục trả tự do nhanh chóng này là
khơng thể chấp nhận được. Vì họ nói rằng Juno Trader, thiết bị và hàng hóa của nó
hiện là tài sản của Guinea-Bissau và do đó họ khơng giam giữ tàu mà là sở hữu của
con tàu với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp.
Thứ ba, về việc áp dụng hình phạt, bị đơn đã dựa vào Nghị định – Luật của mình
để đưa ra mức phạt khơng dưới 1.227.214.00 EURO (một triệu hai trăm hai mươi bảy
nghìn hai trăm bốn- Euro) đối với nguyên đơn.
Thứ tư, đối với việc Tịa án quốc tế về luật biển có thẩm quyền hay không, bên bị
đơn đã dựa vào vụ án "Grand Prince" để chỉ ra rằng Tịa án này khơng có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp giữa họ và Saint Vincent.
9

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

2.2.3. Phán quyết của Tòa án
Sau khi xem xét lắng nghe và đánh giá tất cả các ý kiến đến từ hai bên, Tòa án

quốc tế về luật biển đã đưa ra ý phán quyết cuối cùng của mình. Đầu tiên, về việc tranh
chấp giữa hai bên rằng Tòa án quốc tế về Luật biển có thẩm quyền hay khơng. Tịa án
đã nhất trí rằng thẩm quyền thuộc về Tịa án và chủ sở hữu thật sự của Juno Trader
thuộc về Saint Vincent và Grenadines. Tịa án cũng nhất trí rằng bên bị đơn – Guinea
Bissau đã không tuân thủ các quy định của khoản 2 Điều 73 của Công ước về việc giải
phóng nhanh chóng Juno Trader và thủy thủ đồn của bên ngun đơn – Saint Vincent.
Theo đó, Tòa án quyết định rằng bên bị đơn sẽ phải nhanh chóng thả tàu cùng hàng
hóa của nó, đồng thời Tịa án cũng khơng chấp nhận các khoản tiền phạt mà bên bị đơn
đưa ra để áp dụng cho bên ngun đơn. Cuối cùng, Tịa án đã nhất trí rằng mỗi bên sẽ
phải tự chịu trách nhiệm về chi trả các khoản phí của mình mà trước đó đã tranh cãi.
Như vậy, bên Saint Vincent và Grenadines thắng kiện.
2.3. Quan điểm của nhóm
Theo nhóm, việc Nhật Bản bắt đầu (việc) tố tụng chống lại Liên bang Nga tại
Tòa án, và đệ trình Đơn khởi kiện liên quan đến việc thả ngay một tàu đánh cá là
không hợp lý. Bởi lẽ, thứ nhất theo khoản 1 Điều 4 Hiệp định 1984 thì Nga và Nhật
Bản đã thỏa thuận ký kết với nội dung là “mỗi Bên sẽ thực hiện tất cả các biện pháp
cần thiết để đảm bảo rằng công dân và tàu cá của mình, tiến hành đánh bắt cá trong
vùng đặc quyền kinh tế của Bên kia, tuân thủ các biện pháp bảo tồn tài nguyên sống và
các điều khoản và điều kiện khác được thiết lập trong luật pháp và quy định của Bên
đó”. Theo đó, với lý do là “số lượng cá thực tế trên tàu khác với số liệu cá được ghi
chép trong bảng kê khác. Cụ thể “Vào ngày 8 tháng 11 năm 2006, việc kiểm tra số
lượng đánh bắt được tiến hành khi phát hiện các vi phạm sau (như đã nêu trong Công
hàm số 018-3 2006 ngày 9 tháng 11 năm 2006 của Văn phòng đại diện Bộ Ngoại giao
của Liên bang Nga ở PetropavlovskKamchatsk): khoảng 20 tấn cá bìm bịp đã rút ruột
và một số lồi cá nhất định khơng được phép đánh bắt gồm 19,5 tấn cá bơn, 3,2 tấn cá
đuối, 4,9 tấn cá tuyết và 3 tấn cá khác. Điều này cấu thành một sự vi phạm nghiêm
trọng luật pháp quốc gia của Bị đơn cũng như gây tổn hại nghiêm trọng đến sự cân
bằng môi trường và an ninh của các nguồn tài nguyên sinh vật” Con tàu bị buộc tội
với các tang vật trên (các lồi cá khơng được phép đánh bắt) được tìm thấy trên tàu
theo Điều 82 của Bộ luật tố tụng Hình sự Liên bang Nga” nên Nga đã bắt giữ tàu

Tomimaru của Nhật là hợp lý.
Thứ hai, việc Nhật Bản không chấp nhận 8.800.000 rúp là trái phiếu và cho rằng
Nga xem tàu Tomimaru là tài sản của Nga là khơng có căn cứ. Đối với việc trái phiếu
8.800.000 triệu rúp để thả con tàu là hợp lý. Văn phịng Cơng tố viên Liên quận về
Bảo vệ Thiên nhiên ở Kamchatka một trái phiếu hợp lý cho việc thả con tàu được đặt
ra và số lượng trái phiếu được đặt ở mức thiệt hại tổng thể đối với tài nguyên biển
sống trong (vùng) EEZ của Nga tương đương với 8.800.000 rúp. Căn cứ vào khoản 2
Điều 73 Công ước Luật biển 1982 quy định “2. Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo
10

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ
của chiếc tàu này” và khoản 1 Điều 4 Hiệp định 1984 mà hai bên thỏa thuận ký kết thì
khi đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của đối phương phải tuân thủ các biện
pháp bảo tồn tài nguyên sống và các điều khoản và điều kiện khác được thiết lập trong
luật pháp và quy định của Bên mà tàu thuyền đánh bắt. Và cũng vì thế, Nhật Bản cho
rằng Nga xem tàu Tomimaru là tài sản của Nga là không hợp lý, vô căn cứ. Nếu Nga
xem tàu này là tài sản của Nga thì Nga đã khơng gửi u cầu thanh tốn trái phiếu đối
với một quốc gia khơng liên quan gì đến chiếc tàu theo Điều 292 Công ước Luật biển
1982 quy định về Giải phóng ngay cho tàu thuyền bị cầm giữ hay trả tự do cho đồn
thủy thủ của nó.
Từ đó, có thể kết luận rằng trong vụ tranh chấp giữa Nga và Nhật Bản, Nga đã có
những căn cứ, cơ sở để chứng minh việc tịch thu tàu Tomimaru và Nhật không thực
hiện đúng nghĩa vụ, trách nhiệm của mình là thuyết phục.
2.4. Bài học kinh nghiệm
Việt Nam là một quốc gia ven biển năm bên bờ Tây của Biển Đơng, có vị trí lý

chính trị và kinh tế rất quan trọng mà khơng phải quốc gia nào cũng có. Với đường bờ
biển dài 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển nền kinh tế nông nghiệp thủy hải sản đặc biệt là hai ngư trường lớn nhất Việt
Nam là Hoàng Sa và Trường Sa. Và đúng như thế, việc đánh bắt thủy hải sản của nước
ta phát triển mạnh, nhiều thủy sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao được xuất khẩu sang
các thị trường lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, nước ta lại có vùng biển tiếp giáp với
nhiều nước, và có vùng biển giao nhau với các quốc gia. Vì thế, việc khai thác thủy hải
sản sẽ có những vấn đề cần chú ý hơn.
Việc chúng ta có vị trí địa lý quan trọng và có hai ngư trường lớn đã trở thành
“miếng mồi” của các quốc gia hùng mạnh muốn “ăn trọn”, trong đó có Trung Quốc.
Trong quá khứ chúng ta đã có tranh chấp với Trung Quốc về đường lưỡi bò trên bản
đồ Trung Quốc. Theo bản đồ đó, Hồng Sa là địa phận thuộc Trung Quốc, bên cạnh đó
Trung Quốc đã thăm dị đặt hai giàn khoan Hải Dương 981, giàn khoan Hải Dương
982 để khai thác và tuyên bố tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của nước ta là bất hợp pháp. Việc này đã làm cho quan hệ hai nước trở nên xấu đi. Và
Trung Quốc cũng “đặt điều” nói ngư dân Việt Nam đánh tàu của họ tại vùng biển
Hoàng Sa nhưng sự thật là tàu của Trung Quốc đã cản trở việc khai thác của ngư dân
Việt Nam trên chính vùng biển của mình, và gây ra những thiệt hại đến Việt Nam. Việt
Nam cũng trình bày vụ việc lên Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiều lần và các quốc
gia cũng lên tiếng đứng về phía Việt Nam nhưng cuối cùng vụ việc vẫn khơng được
giải quyết triệt để. Đây là một ví dụ điển hình trong việc “nước lớn ăn hiếp nước bé”.
Dù vi phạm Công ước, đi ngược lại với lịch sử nhưng pháp luật vẫn khơng có tác
dụng. Vì thế, chúng ta phải cố gắng chống lại việc xâm lược của Trung Quốc bằng
cách đưa ra những bằng chứng, chứng cứ chứng minh rằng Trung Quốc đang làm sai,
làm trái với lịch sử trên các phương tiện truyền thông. Đồng thời phải lấy được sự
đồng tình từ các nước, từ đó sẽ đấu tranh vì quyền lợi của quốc gia hơn. Hơn hết,
chúng ta phải tôn trọng và tuân thủ các thỏa thuận đã ký kết trong Công ước, Hiệp
11

Downloaded by Quang Quang ()



lOMoARcPSD|15978022

định giữa các bên và tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế, đặc biệt là
hai nguyên tắc “Hịa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế” và “Pacta – Sunt –
Sevada”.
Chúng ta có thể học tập quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối đối
ngoại và hoạt động ngoại giao. Đầu tiên, việc đối ngoại và ngoại giao phải đặt lợi ích
quốc gia, dân tộc lên trước hết, trên hết. Tiếp theo, chúng ta phải gửi đến các nước trên
thế giới thông điệp khẳng định Việt Nam là một quốc gia độc lập, thực hành đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hữu nghị với các nước “tơn trọng tồn vẹn lãnh
thổ” của Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng ta có thể tuyên truyền, giáo dục để mọi người dân hiểu biết
đầy đủ về chủ quyền lãnh thổ của mình trên biển, đồng thời nâng cao ý thức trách
nhiệm của mỗi người dân trong việc bảo vệ biển, đảo Tổ quốc. Hơn hết, Nhà nước
phải xây dựng một lực lượng bảo vệ biển, đảo đủ mạnh để phòng ngừa những trường
hợp xấu nhất.

12

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
Công ước về Luật biển năm 1982
B. Tài liệu tham khảo

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cơng pháp quốc tế
(Quyển 1), Nxb Hồng Đức.
* Tài liệu từ Internet
Bernard H. Oxman, The "Tomimaru" (Japan v. Russian Federation). Judgment.
ITLOS Case No. 15, The American Journal of International Law,
/>The "Juno Trader" Case (Saint Vincent and the Grenadines v. Guinea-Bissau),
Prompt Release, />
13

Downloaded by Quang Quang ()



×