Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến di cư của hộ gia đình nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.91 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DI CƯ CỦA HỘ GIA ĐÌNH
NƠNG THƠN VÙNG ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG
Factors affecting migration of rural households in the Mekong Delta
1

Đặng Phúc Danh và Lê Thị Tiền
1

1

Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An, Long An, Việt Nam



Tóm tắt — Di cư là một yếu tố phở biến trong tiến trình phát triển. Các nghiên cứu trước đã chỉ ra
rằng lý do dẫn đến hiện tượng di cư là vì kinh tế và loại hình di cư chủ yếu là di cư việc làm. Tại Việt
Nam từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, làn sóng di cư mạnh mẽ từ nơng thơn đến thành thị
đã có nhiều đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Tác giả sử dụng phương pháp thống kê để tìm ra các yếu
tố có ảnh hưởng đến di cư của hộ gia đình thơng qua việc phân tích bộ dữ liệu VHLSS 2018. Mơ hình
nghiên cứu với các biến về đặc trưng nhân khẩu của chủ hộ và đặc điểm của hộ cũng như tình trạng kinh
tế của hộ gia đình. Kết quả cho thấy những yếu tố thuộc về đặc trưng nhân khẩu của hộ tác động mạnh
mẽ tới xu hướng di cư của hộ đặc biệt là yếu tố tiền gửi.
Abstract — Migration is a common factor in the development process. Previous studies have shown
that the reason for migration is economic and the main type of migration is job migration. In Vietnam
since joining the World Trade Organization, a strong wave of rural-to-urban migration has contributed to
economic growth. The author uses statistical methods to find out the factors that affect household
migration through the analysis of the VHLSS 2018 dataset. Research model with variables on the


demographic characteristics of the household head. and household characteristics as well as the economic
status of the household. The results show that the factors belonging to the demographic characteristics of
the household have a strong impact on the migration trend of the household, especially the deposit factor.
Từ khóa — Di cư, hộ gia đình nơng thơn, migrate, rural households.

1. Giới thiệu
Di cư là một hoạt động tất yếu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia hoặc các vùng lãnh thở. Trong đó, quá trình đơ thị hóa được xem là lực hút người lao
động đến các khu vực có mức độ phát triển nhanh hơn. Bên cạnh đó, di cư cũng được xem là
một giải pháp quan trọng trong việc giải quyết bài toán sinh kế, thích ứng với những biến đởi
của mơi trường, khí hậu và phân bổ lại dân cư.
Tại Việt Nam, tiến trình phát triển kinh tế xã hội từ khi gia nhập Tở chức Thương mại Thế
giới là ngun nhân chính cho dòng di cư gia tăng, đặc biệt là di cư trong nước. Nguyên nhân
chủ yếu là do sự khác biệt về điều kiện sống giữa thành thị và vùng nông thôn vốn được xem
là động lực chính khiến cho các hộ gia đình di cư. Di cư đã góp phần vào tiến trình phát triển
kinh tế xã hội thơng qua sự dịch chuyển lao động nhằm đáp ứng nhu cầu lao động trong các
khu công nghiệp và trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi. Di cư khơng chỉ góp
phần tăng phúc lợi và an sinh cho người di cư thông qua yếu tố tạo việc làm mới và đa dạng
hóa các nguồn thu nhập cho các hộ gia đình. Ngồi ra, lợi ích của các hộ gia đình và trong cộng
đồng có người di cư thông qua việc nhận được các khoản tiền gửi về quê nhà. Di cư còn thúc
đẩy mối quan hệ giữa nơi đi và nơi đến, từ đó góp phần làm giảm sự khác biệt giữa các vùng
(Tổng cục thống kê, 2016).
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Khái niệm về di cư
Theo Tổng cục Thống kê (2016), di cư là một yếu tố quan trọng, là động lực tích cực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần phân bổ lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao
động, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh

30



TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

tế xã hội bền vững của Chính phủ các nước. Khi kinh tế phát triển, quá trình đơ thị hố, chuyển
đởi cơ cấu nền kinh tế diễn ra nhanh chóng cùng với chính sách mở cửa, hội nhập trong khu
vực dẫn đến xu hướng di cư nội địa và di cư quốc tế tăng lên.
Di cư thường được xác định là sự dịch chuyển của cá nhân ra khỏi vùng sinh sống trong
một khoảng thời gian nhất định. Hay nói cách khác, các nghiên cứu khi xác định người di cư
thường dựa vào thời gian và không gian di chuyển cũng như mức độ thu thập thông tin ở thời
điểm di cư. Khoảng thời gian di cư được các nghiên cứu sử dụng thường là từ 1 tháng trở lên.
Các lý do di cư thường được xác định là để tìm kiếm việc làm, tìm kiếm cơ hội học tập hoặc vì
lý do khác như kết hơn, tách hộ. Các hình thức của di cư bao gồm:
 Di cư có 2 loại là di cư trong nước (di cư nội địa) và di cư quốc tế.
 Di cư trong nước bao gồm di cư đi và di cư đến.
Trong phạm vi bài viết tác giả nghiên cứu hiện tượng di cư đi của các hộ gia đình nơng
thơn vùng đồng bằng sông Cửu Long.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến di cư của người lao động
Dựa vào nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2010), Nguyễn Thị Phương Thảo
và cộng sự (2020), có 3 nhóm nhân tố cơ bản bao gồm đặc điểm của hộ gia đình, đặc điểm của
chủ hộ và tình trạng kinh tế của hộ có ảnh hưởng đến di cư của hộ gia đình nơng thơn. Đặc
điểm của hộ gia đình nơng thơn gồm: Số người trong hộ, diện tích đất canh tác, tình trạng việc
làm. Đặc điểm của chủ hộ bao gồm tuổi, giới tính, dân tộc, tình trạng hơn nhân, trình độ học
vấn. Tình trạng kinh tế của hộ gia đình bao gồm thu nhập bình quân đầu người, tiền gửi.

Tình trạng kinh tế
của hộ gia đình

Các yếu tố ảnh

hưởng đến di cư của
hộ gia đình nơng thơn
vùng đồng bằng sơng
Cửu Long

Đặc điểm của hộ
gia đình

Đặc điểm của chủ hộ

- Thu nhập trung bình đầu người
- Tiền gửi
- Chi tiêu khơng thiết yếu
- Hộ gia đình hoạt động trong
lĩnh vực nơng, lâm, thủy sản
- Diện tích đất canh tác
- Số người trong độ t̉i lao động
của hộ gia đình
- Số năm đi học trung bình của
những người trong hộ
- Số người phụ thuộc trong hộ
- Tình trạng việc làm của thành
viên trong hộ gia đình

- Giới tính của chủ hộ
- Độ t̉i của chủ hộ
- Dân tộc của chủ hộ
- Tình trạng hơn nhân của chủ hộ

Hình 1. Các yếu tố ảnh hưởng đến di cư của hộ gia đình nơng thơn

Nguồn: Lược khảo từ các nghiên cứu trước

2.3. Tổng quan về các nghiên cứu trước
Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2010), phân tích thực trạng và giải pháp
cho vấn đề di cư ở tỉnh Hậu Giang, sử dụng bộ dữ liệu sơ cấp thu thập năm 2010. Kết quả
nghiên cứu cho thấy các yếu tố bao gồm số người trong hộ, diện tích đất canh tác, tình trạng
thiếu việc làm có tác động cùng chiều làm tăng khả năng di cư của hộ gia đình. Bên cạnh đó
nghiên cứu cũng cho thấy các yếu tố như thu nhập và điều kiện tự nhiên, cụ thể là thu nhập tăng
và điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ làm giảm khả năng di cư của hộ gia đình tại tỉnh Hậu Giang.

31


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự (2020), nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng di cư việc làm của hộ gia đình tại Việt Nam. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu thứ cấp
VHLSS 2014 và VHLSS 2016 để xác định các yếu tố có tác động đến di cư của hộ gia đình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy t̉i của chủ hộ càng tăng thì khả năng di cư của hộ gia đình sẽ
tăng (nhưng tăng với mức độ giảm dần). Khả năng di cư cao hơn đối với chủ hộ đã kết hôn.
Thu nhập bình qn đầu người cũng có tác động đến khả năng di cư của hộ gia đình, điều này
lý giải một phần do hộ di cư thường là hộ gia đình có mức thu nhập trung bình trở lên. Tiền gửi
cũng là yếu tố thúc đẩy các thành viên trong hộ gia đình di cư. Đối với các khoản vay chưa trả
cũng thúc đẩy khả năng di cư cỏ hộ gia đình. Ngồi ra quy mơ hộ gia đình có tác động ngược
chiều với khả năng di cư của hộ gia đình. Nghiên cứu cũng tìm ra vùng Đơng Nam Bộ là vùng
nhận cư của các vùng khác người lao động di cư đến.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thích ứng với bối cảnh kinh tế đang chuyển đởi, để tìm kiếm các khoản thu nhập cần
thiết phục vụ cuộc sống, các hộ gia đình nơng thơn lựa chọn sinh kế của mình dựa trên sự đa
dạng về các hoạt động nghề nghiệp. Di cư việc làm được lựa chọn của các hộ gia đình nơng
thơn. Nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận phân tích sinh kế bền vững của Nguyễn Thị Phương
Thảo và cộng sự (2020) để xem xét thực trạng các nguồn vốn sinh kế của các hộ gia đình nơng
thơn, việc lựa chọn hình thức di cư và các kết quả đạt được từ di cư lao động. Phương pháp
nghiên cứu dựa trên sự kết hợp giữa lược khảo các nghiên cứu trước kết hợp với phân tích dữ
liệu thứ cấp của Tởng cục thống kê năm 2018 tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
Tác giả sử dụng dữ liệu thứ cấp phục vụ cho phân tích là khảo sát mức sống hộ gia đình Việt
Nam VHLSS 2018 được thu thập bởi Tổng cục Thống kê. Bộ dữ liệu VHLSS 2018 có chi tiết
thơng tin khảo sát của chủ hộ và những thành viên trong hộ như năm sinh, độ t̉i, giáo dục,
nghề nghiệp, tình trạng việc làm, y tế, thu nhập, tín dụng, chi tiêu, tiết kiệm, nhà ở, tiếp cận
dịch vụ công. Dữ liệu từ cuộc khảo sát tương đối đầy đủ và đáng tin cậy.
So với các nghiên cứu trước của Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2010) nghiên cứu di cư tại
tỉnh Hậu Giang sử dụng bộ dữ liệu sơ cấp khảo sát gồm 100 hộ gia đình; Lê Đăng Bảo Châu và
cộng sự (2019) nghiên cứu di cư lao động của hộ gia đình nông thôn hai tỉnh Quản Trị và Thừa
Thiên Huế sử dụng dữ liệu sơ cấp của 200 hộ gia đình tại hai tỉnh; Nguyễn Thị Phương Thảo
và cộng sự (2020) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến di cư của hộ gia đình tại Việt Nam sử
dụng bộ dữ liệu VHLSS 2014 và 2016. Sự khác biệt về không gian và thời gian là nhóm tác giả
nghiên cứu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long và sử dụng bộ dữ liệu thứ cấp VHLSS 2018.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Thống kê mô tả
Bảng 1. Đặc điểm của hộ gia đình nơng thơn

Các yếu tố có
ảnh hưởng
T̉i của chủ hộ
Giới tính chủ hộ (nam)
Chủ hộ dân tộc Kinh

Chủ hộ đã lập gia đình
Chủ hộ đã qua đào tạo nghề
Số người trong hộ
Số năm đi học trung bình của các
thành viên trong hộ
Thu nhập bình qn đầu người

T̉i
%
%
%
%
Người

Hộ di cư
52.67
78.3
92.8
87.7
17.6
3.42

Đặc điểm
Hộ khơng di cư
52.11
77.8
91.4
83.1
16.2
3.84


Sai số chuẩn
0.62
0.014
0.017
0.015
0.014
0.06

Năm

7.12

6.93

0.121

Triệu đồng

4.78

4.56

0.028

Đơn vị tính

32



TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP
Tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ
Hộ nhận được tiền gửi
Hộ hoạt động trong nơng nghiệp
Chi tiêu khơng thiết yếu
Số quan sát

%
%
%
%
Hộ gia đình

Số 33 – Tháng 9/2022
57.9
65.2
46.7
41.6
1200

65.1
20.2
38.2
40.9
5745

0.24
0.018
0.012
0.001


Tác giả thống kê từ phần mềm Stata 14

Kết quả thống kê bảng 1 cho thấy, độ t̉i trung bình của chủ hộ thuộc nhóm di cư là 52.67
và của nhóm khơng di cư là 52.11. Ta nhận thấy những chủ hộ có độ t̉i cao hơn có khả năng
di cư nhiều hơn so với nhóm khơng di cư. Như vậy, trong trường hợp t̉i tăng thì chủ hộ sẽ có
khả năng di cư. Tỷ lệ nhóm chủ hộ có giới tính nam thuộc nhóm những gia đình di cư cũng cao
hơn so với nhóm cịn lại. Ta nhận thấy trong trường hợp chủ hộ là nam giới cũng làm tăng khả
năng di cư của hộ gia đình.
Trong trường hợp chủ hộ là người dân tộc Kinh trong tỷ lệ nhóm di cư cao hơn so với nhóm
khơng di cư. Tỷ lệ chủ hộ đã lập gia đình ở nhóm di cư là 87.7%, tỷ lệ này cao hơn so với nhóm
khơng di cư là 83.1%. Như vậy hôn nhân cũng là yếu tố làm tăng khả năng di cư của hộ gia
đình nơng thơn. Ngồi ra số người trong hộ của nhóm di cư là 3.42 và của nhóm khơng di cư là
3.84. Như vậy, những hộ gia đình có số người trong hộ ít hơn sẽ có xu hướng di cư nhiều hơn
so với những hộ gia đình có nhiều thành viên trong hộ.
Bảng 1 cũng cho thấy số năm đi học trung bình của các thành viên trong hộ của nhóm di
cư cao hơn so với nhóm khơng di cư. Điều này cho biết giáo dục đã có tác động đến khả năng
di cư của hộ gia đình, những người có số năm đi học nhiều hơn sẽ chọn di cư cao hơn so với
những người thuộc nhóm cịn lại. Bên cạnh đó chủ hộ đã trãi qua các khóa học, đào tạo nghề
của nhóm di cư là 17.6% cao hơn tỷ lệ của nhóm khơng di cư là 16.2%. Như vậy, việc đào tạo
nghề cho chủ hộ cũng làm tăng khả năng di cư của hộ gia đình so với nhóm khơng di cư.
Đối với những hộ gia đình ở nơng thơn có thu nhập 4.78 triệu đồng mỗi tháng sẽ có khả
năng di cư cao hơn so với nhóm có thu nhập 4.56 triệu đồng. Tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ
cũng ảnh hưởng đến khả năng di cư, khi tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ càng thấp (57.9%) thì
khả năng di cư hộ gia đình sẽ tăng so với nhóm không di cư (65.1%).
Kết quả thống kê cho thấy tiền gửi là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến khả năng di
cư của hộ gia đình, trong đó những hộ gia đình di cư có tỷ lệ gửi tiền về cho người thân gia
đình tại quê nhà là 65.2% so với nhóm khơng di cư là 20.2%.
Đối với những hộ gia đình có hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản với tỷ lệ 46.7% thuộc nhóm di cư có xu hướng di cư cao hơn so với nhóm cịn lại là

38.2%. Với các khoảng chi tiêu khơng thiết yếu nhóm hộ gia đình di cư có tỷ lệ chi tiêu 41.6%
cao hơn so với nhóm khơng di cư là 40.9%.
4.2. Phân tích kết quả
Thống kê cho thấy, khi tuổi chủ hộ càng tăng, khả năng hộ có thành viên di cư càng tăng,
nhưng tăng với tốc độ giảm dần. Khả năng di cư thường cao hơn đối với chủ hộ đã lập gia đình.
Thu nhập bình qn đầu người có tác động thúc đẩy hộ gửi thành viên di cư. Điều này được lý
giải một phần do hộ di cư thường là hộ có thu nhập ở mức trung bình trở lên (chiếm khoảng
70% số quan sát). Ta nhận thấy, khả năng di cư thường giảm xuống đối với những hộ gia đình
nghèo hoặc những hộ cận nghèo, những hộ có điều kiện kinh tế là hộ có thu nhập bình qn
đầu người cao hơn có khả năng di cư cao hơn so với những hộ gia đình thuộc nhóm nghèo hoặc
hộ cận nghèo.
Liên quan đến trình độ học vấn của chủ hộ và các thành viên trong hộ trong mẫu khảo sát
(6945 hộ gia đình), đa số các thành viên có số năm đi học là 7.12, chủ hộ đã qua đào tạo nghề
với tỷ lệ 17.6 %. Chủ hộ đã qua đào tạo nghề và có trình độ có thể tḥn lợi hơn trong quá trình
tìm kiếm việc làm tại nơi di cư đến, sử dụng kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của mình trong

33


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

cơng việc, nhờ đó có thể tìm kiếm được nguồn thu nhập và gửi về cho gia đình tại quê nhà. Kết
quả này có sự tương đồng với nghiên cứu của Lê Đăng Bảo Châu và cộng sự (2019).
Có thể thấy tiền gửi hộ gia đình nhận được đã được định nghĩa trong bộ dữ liệu VHLSS
2018 bao gồm các khoản tiền và hiện vật (được quy đởi có giá trị thành tiền) được gửi từ nhóm
người lao động di cư mà các hộ gia đình nhận được. Tiền gửi có thể được trao cho các hộ gia
đình khơng chỉ bởi người thân trong hộ mà còn bởi bạn bè, hàng xóm đã di cư và tìm kiếm thu
nhập tại nơi khác gửi về. Tiền gửi cũng là một yếu tố làm tăng khả năng hộ gia đình di cư hoặc

gửi thành viên di cư. Do vậy, việc nhận tiền gửi trong nước của một hộ gia đình có thể là một
yếu số không chỉ cho người di cư và ảnh hưởng đến các hộ gia đình khác. Các hộ gia đình đã
xây dựng mối quan hệ rộng có khả năng di cư cao hơn. Điều này cho thấy tác động lan tỏa của
mạng lưới di cư tương tự như kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự
(2020).
Khoản tiền gửi về không được đầu tư nhiều cho sản xuất trong lĩnh vực nông ngư nghiệp,
mở rộng đất đai canh tác hay hồ nuôi thủy hải sản mà được ưu tiên cho chi tiêu hàng ngày của
hộ gia đình và sửa chữa, xây dựng nhà cửa. Điều này cho thấy di cư thật sự là một hoạt động
sinh kế quan trọng. Cùng với các nguồn thu nhập khác, tiền gửi giúp cải thiện đời sống vật chất,
tái sản xuất sức lao động cho các thành viên ở lại. Bên cạnh đó, tiền gửi về cịn được hộ gia
đình sử dụng chăm sóc sức khỏe và đầu tư cho giáo dục. Các khoản đầu tư này đều hướng đến
mục đích cải thiện vốn con người, tăng năng lực sử dụng trong các chiến lược sinh kế mới.
Việc sử dụng tiền gửi về để chi trả cho lương thực, y tế, giáo dục, ngoài ý nghĩa nâng cao
năng lực của vốn con người còn được hiểu là nguồn thu nhập mang lại sự đảm bảo cho các hộ
gia đình trong những hồn cảnh khó khăn như mất mùa, dịch bệnh trong sản xuất nông nghiệp
và nuôi trồng hải sản, các sự cố môi trường trong đánh bắt hải sản,… cũng như vượt qua các
biến cố của gia đình như ốm đau, các sự cố bất ngờ trong cuộc sống. Ngồi những đóng góp
kinh tế cho hộ gia đình ở nông thôn thông qua tiền gửi về, nguồn thu nhập từ di cư được sử
dụng chủ yếu để chi tiêu cho cuộc sống và đầu tư cho học tập, học nghề của người lao động di
cư tại nơi đến. Đó cũng là cách thức cải thiện vốn con người của hộ gia đình. Kết quả này sẽ là
yếu tố quyết định lựa chọn của hộ gia đình trong tương lai: Người lao động di cư sẽ trở về quê
hương lập nghiệp sau một thời gian di cư nhất định hay sẽ ở lại định cư tại nơi đến (Lê Đăng
Bảo Châu và cộng sự, 2019).
5. Kết luận và một số khuyến nghị
5.1. Kết luận
Di cư là một lựa chọn sinh kế được xây dựng dựa trên các nguồn lực tương đối hạn chế.
Hạn chế này đã giới hạn các hình thức di cư trong khu vực được khảo sát di cư của hộ gia đình
vùng đồng bằng sơng Cửu Long. Di cư đóng vai trị rất quan trọng trong kinh tế của hộ gia đình.
Các khoản thu nhập từ di cư được sử dụng chủ yếu để cải thiện các yếu tố cơ bản của hộ gia
đình như: Giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe, từng bước cải thiện cuộc sống của các thành viên

trong hộ gia đình. Đặc biệt yếu tố giáo dục, đào tạo nghề là cơ sở để các hộ gia đình tái cấu trúc
các hoạt động sinh kế theo hướng đa dạng hóa các hoạt động phi nơng nghiệp và đa dạng hóa
sinh kế tại vùng nông thôn.
5.2. Một số khuyến nghị
Dựa vào kết quả thống kê cho thấy tổng số năm đi học của các thành viên trong hộ, tỷ lệ
chủ hộ đã qua đào tạo nghề cịn tương đối thấp. Nhóm tác giả cho rằng đây là một nhân tố cần
được cải thiện nhiều hơn trong thời gian tới. Chính phủ nên chi đầu tư, quan tâm nhiều hơn
trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nâng cao kỹ năng chuyên môn và đào tạo nghề giúp trang bị
kiến thức, kỹ năng cho người lao động nông thôn, từng bước nâng dần tỷ lệ đào tạo nghề cho
lao động phục vụ phát triển kinh tế vùng nông thôn.

34


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

Chính phủ cần hồn thiện quy trình phân cấp ngân sách trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ phát triển các ngành nghề sản xuất tại nông thôn bao gồm xây dựng hệ thống giao
thông nông thôn, đường liên xã, đường liên huyện. Xây dựng hệ thống dẫn nước, kênh tưới tiêu
nội đồng, hỗ trợ kỹ thuật trong nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản giúp gia tăng năng xuất và
từng bước cải thiện cuộc sống cho các hộ gia đình nơng thơn. Hỗ trợ nguồn vốn xây dựng nông
thôn mới để từng bước nâng cao đời sống cho người dân nơi đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Đăng Bảo Châu, Lê Mai Duy Phương và Nguyễn Hữu An (2019). Di cư lao động – một chiến
lược sinh kế của hộ gia đình nơng thơn vùng ven biển hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Tạp
chí Phát triển bền vững vùng, quyển 9, số 3, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế.
[2] Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Ngọc Nam và Nguyễn Thị Thúy Đạt (2020). Các yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng di cư việc làm của hộ gia đình tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học, tập 56, số 4D,

trang 238-247.
[3] Nguyễn Quốc Nghi, Ngô Thanh Thủy và Huỳnh Trường Huy (2010). Thực trạng và giải pháp cho
vấn đề di cư ở tỉnh Hậu Giang. Tạp chí Khoa học, số 15a, trang 283-292.
[4] Tởng cục Thống kê (2016). Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam. Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội.
[5] Tổng cục Thống kê (2018). Khảo sát điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2018.

Ngày nhận: 01/3/2022
Ngày duyệt đăng: 06/8/2022

35



×