Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Nghệ thuật diễn xướng qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.15 KB, 4 trang )

TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG QUA TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
The art of performing through short stories by Nguyen Ngoc Tu
1

1

Nguyễn Thúy Diễm và Nguyễn Minh Ca
1

Giảng viên Khoa Xã hội và Truyền thông, Trường Đại học Tây Đô, Cần Thơ, Việt Nam



Tóm tắt — Nghệ thuật diễn xướng là một trong những yếu tố tạo nên nét đặc trưng trong văn hóa tinh
thần của người dân vùng Tây Nam Bộ, có vị trí quan trọng trong việc định hình, phát triển văn hoá, nghệ
thuật trong khu vực và phần nào được thể hiện khá rõ nét qua truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Bằng phương pháp khảo sát, thống kê – phân loại và phân tích tổng hợp, bài viết tìm hiểu những biểu
hiện của nghệ thuật diễn xướng trong bốn tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Ngọc Tư, góp phần minh
chứng cho đời sống tinh thần phong phú và đa dạng của con người vùng sông nước Tây Nam Bộ.
Abstract — Performing art is one of the factors that create the characteristics of the spiritual culture
of people in the Southwest region, which plays an important role in shaping, developing culture and art
in the region and partly expressed quite clearly through the short story of Nguyen Ngoc Tu. By the method
of survey, statistics - classification and analysis - synthesis, the article explores the manifestations of the
performing arts in four typical collections of short stories by Nguyen Ngoc Tu, which contribute to
demonstrate the rich and diverse spiritual life of people in the Southwest region.
Từ khóa — Nghệ thuật diễn xướng, truyện ngắn, Tây Nam Bộ, performing arts, short story.



1. Giới thiệu
Bên cạnh ngôn ngữ, nghệ thuật diễn xướng cũng là một loại hình nghệ thuật tiêu biểu, là
nền tảng cho đời sống tinh thần của người dân vùng Tây Nam Bộ. Do đó, nghệ thuật diễn xướng
đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa của người dân nơi đây. Một
số loại hình diễn xướng phổ biến ở khu vực này được nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đưa vào truyện
ngắn của mình có thể kể đến hát bội (tuồng), hò, lý, đờn ca tài tử và cải lương, góp phần minh
chứng cho sự phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của người dân ở đồng bằng sông Cửu
Long.
2. Nội dung
2.1. Biểu hiện của nghệ thuật diễn xướng qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Theo thống kê của người viết, tỷ lệ giữa các loại hình diễn xướng được Nguyễn Ngọc Tư
đề cập trong truyện ngắn của mình được thể hiện trong bảng 1 như sau:
Bảng 1. Loại hình diễn xướng phổ biến

Số thứ tự

Biểu hiện của nghệ thuật diễn xướng qua
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Số lượt xuất hiện

Tỷ lệ (%)

1

Hát bội

9


19,6%

2



3

6,5 %

3



4

8,7%

4

Cải lương

30

65,2%

Tổng

46


100%

Nguồn: Nguyễn Thuý Diễm (2021)

Có thể hiểu một cách đơn giản, diễn xướng là “trình bày các sáng tác dân gian bằng động
tác, lời lẽ, âm thanh và nhịp điệu” (Hồng Phê, 2009). Qua bảng 1, có thể thấy được người dân

36


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

vùng đồng bằng sơng Cửu Long rất u thích cải lương và loại hình này cịn tồn tại khá phổ
biến trong khi các câu hò, điệu lý hay hát bội đang dần bị mai một khi xã hội ngày càng phát
triển.
2.2. Nghệ thuật hát bội qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Hát bội là một trong những loại hình sân khấu truyền thống mang tính chất cổ điển của
Việt Nam. Đây là hình thức diễn xướng “có nội dung phản ánh lối sống theo luân lý Nho giáo
và hình thức trình diễn mang tính biểu trưng cao” (Trần Ngọc Thêm, 2014).
Hát bội được xem là khởi đầu của nghệ thuật diễn xướng của người Việt ở Nam Bộ, được
bắt nguồn từ dạng tuồng – một dạng nghệ thuật ca múa cung đình nhưng bị dân gian hóa ở khu
vực miền Bắc (Ngô Văn Lệ chủ biên, 2017). Từ miền Bắc và miền Trung, hát bội được những
người dân di cư mang theo vào Nam, tạo nên một sức sống mới cho cộng đồng dân cư khu vực
này. Quả thật, loại hình diễn xướng này đã được đơng đảo cư dân vùng đồng bằng châu thổ u
thích và đón nhận.
Một trong những địa điểm diễn tuồng hát bội được rất nhiều người dân quan tâm, theo dõi
chính là đình làng. Vào các dịp cúng đình, người dân vừa tập trung để tham dự lễ cúng, vừa để
xem những đoàn hát bội từ nơi khác ghé về: “Ðược cái là ông hào sảng, rộng rãi thương người

từ tấm bé. Bữa cúng đình ơng mời gánh hát Sài Gịn về hát chơi. Ơng thương đào Hồng từ cái
giây phút đầu tiên” (Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Một số vở tuồng được người miền Tây yêu thích,
diễn đi diễn lại nhiều nhất phải kể đến là: San Hậu; Diễn Võ Đình; Phàn Lê Huê; Lã Bố Hí
Điêu Thuyền; Hạng Võ Biệt Ngu Cơ: “Chị sinh con San cũng ngay mùa này, gió này. Gọi là
San, là vì khi Hồng Bảo từ thành phố tăng cường xuống 'Mưa Bình Minh', chị Diệu với anh
hát chung tuồng San Hậu” (Nguyễn Ngọc Tư, 2006).
Có thể nói, hát bội khơng chỉ được chào đón và u thích mà hơn thế nữa, đây cịn là tiền
đề đưa người nơng dân Nam Bộ đến với những loại hình nghệ thuật dân gian khác.
2.3. Nghệ thuật hò, lý qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Bên cạnh hát bội, những câu hò, điệu lý là cũng là những loại hình nghệ thuật ăn sâu vào
tiềm thức của người dân đồng bằng sông Cửu Long: “Hò là điệu hát đặc biệt xuất phát từ lao
động, đi kèm với lao động, hỗ trợ cho lao động” (Trần Ngọc Thêm, 2014). Trong bối cảnh sinh
sống, lao động hồn tồn mới, tiếng hị mang dư âm thư thái, phóng khống vang lên trên cánh
đồng hoặc trên ghe xuồng nơi sơng nước.
Để đối mặt với cuộc sống khó khăn, người miền Tây đã nghĩ ra đưa những câu hát dễ thuộc,
dễ hát để cải thiện đời sống tinh thần, bớt vất vả cho cuộc sống lao động. Chính vì thế, ca từ
của những câu hị thường rất mộc mạc, chân thành và thẳng thắn: “Em có vẻ phấn khích với
những giai điệu mà chúng tơi chưa từng biết, chưa ai sưu tầm bao giờ, 'Phụ mẫu đánh em quặt
què quặt quại. Treo em lên tại nhánh bần. Rủi mà đứt dây rớt xuống em cũng lần theo anh…i
a'…” (Nguyễn Ngọc Tư, 2018).
Tùy theo mục đích, hị được chia thành các loại như hị lao động, hị tơn giáo (hị đưa linh)
và hị giao dun (hị h tình): “Buổi tối trong căn nhà mà chúng tôi nghỉ lại, tôi ngồi đập
muỗi lép bép đến khuya, bà cụ già đã hát điệu hị h tình lúc chiều hỏi tơi sao buồn vậy, tơi
cười, đâu có, tại trà đậm q” (Nguyễn Ngọc Tư, 2018).
Lý trong “Đại Nam quấc âm tự vị" của Huỳnh Tịnh Của (2018) giải thích là: “Lý: Quê mùa.
Hát lý: Hát bắt nhịp, giọng cao, giọng thấp, lặp đi lặp lại” (tập 1, 1895, tr.563). Giữa hò và lý
vẫn có vài điểm khác biệt, tiêu biểu là hị phải có cặp đối đáp cịn lý có thể hát một mình, hị
hát theo câu trong khi lý hát theo bài, âm nhạc của hò tuân theo một số điệu nhất định trong khi
lý đa dạng về âm nhạc,… Có thể chia lý thành nhiều loại dựa theo nội dung như lý về các hiện
tượng tự nhiên,về chủng loại thực vật, động vật, về sự vật, đồ vật: “Em ngập ngừng, ừa, cũng

được. Tôi chuyên chú nghe lại điệu lý tình tan, 'Có con chim nhạn bỏ đàn. Qua đây nhớ bậu bò

37


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

càng khóc thương', rồi bơi bơi xóa xóa trên tờ giấy trước mặt. Cây viết tn mực như đang
khóc” (Nguyễn Ngọc Tư, 2018).
2.4. Nghệ thuật cải lương qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Có một loại hình diễn xướng được sinh sau đẻ muộn nhưng lại mang một sức hút lớn, được
lưu truyền và u thích đến ngày nay, đó chính là cải lương. Đây là loại hình nghệ thuật ca kịch
đặc trưng của Nam Bộ, ra đời vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX: “Đây là một dạng hát
kịch rất nổi tiếng của người Việt Nam Bộ. Các tuồng tích được diễn trong các vở cải lương đều
mang tính trữ tình, hiện thực thể hiện sự giao lưu văn hố Đơng – Tây bằng hình thức hát của
phương Đông và kịch của phương Tây” (Ngô Văn Lệ, 2017).
Cải lương là loại hình sân khấu được hình thành nhờ sự cải biến và phối hợp của các loại
hình trước đó như hát bội, ca ra bộ, đờn ca tài tử và đặc biệt là sân khấu kịch nói phương Tây.
Một vở cải lương cần phải có vở diễn và bài bản, có sự góp mặt của đờn ca tài tử và một yếu tố
không thể thiếu là bản vọng cổ. Có thể nói, vọng cổ và cải lương ln đi liền với nhau và đặc
biệt, vọng cổ chính là cái hồn của cải lương (Trần Ngọc Thêm, 2014).
Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, cải lương là loại hình diễn xướng được người dân vơ
cùng ưa chuộng, một người ở Tây Nam Bộ mà khơng thích cải lương thì chưa được kể là người
miền Tây “chính hiệu”. Ở nơi đây, người dân có thể xem cải lương trực tiếp ở đình làng như
hát bội: “Nó khóc, kể, 'Bữa đó cúng đình, có cải lương, má rủ con đi. Tuồng Thoại Khanh Châu
Tuấn đó ba. Hát chưa xong khúc Thoại Khanh ngồi đờn cho công chúa Châu Tuấn nghe, thì
pháo đằng đồn Chẹt bắn lại, má con chết ln'” (Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Cũng có thể xem ở
nhà qua truyền hình: “Mà tội nhất là nội tơi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào tivi chiếu mấy

tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầu” (Nguyễn Ngọc
Tư, 2006). Đôi khi vì đam mê, người dân thường học thuộc vài câu vọng cổ và hát một mình
để giải trí: “Chuyện gì nó cũng giành làm một mình, làm từ sáng sớm tới chạng vạng, không đi
coi phim nữa mà tối tối nằm nhà nghe cải lương hoặc đưa võng cò kẹt, hát 'Thương nhớ nhớ
mãi không thôi. Chàng mới ra về chị em tơi thương nhớ'...” (Nguyễn Ngọc Tư, 2011).
Tình u của người miền Tây đối với cải lương còn thể hiện ở việc đặt tên con cháu trong
gia đình theo tên nghệ sĩ cải lương: “Ở cửa sông Đông người ta kêu em là Mỹ Châu. Nội em
mê cải lương nên toàn lấy tên đào kép để đặt cho con cháu” (Đảo) (Nguyễn Ngọc Tư, 2014).
Điều đó cũng được thể hiện trong truyện ngắn Đời như ý: “Không giống như người ta, hễ thích
cải lương thì đặt tên con là Ngọc Huyền, Lệ Thủy, mê phim Việt Nam thì đặt Diễm Hương, Việt
Trinh, chú Đời đặt tên cho hai đứa con gái là con Như con Ý” (Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Thậm
chí, nhiều người khơng chỉ u thích thưởng thức mà còn đam mê cải lương đến nỗi bỏ nhà đi
theo gánh hát để theo đuổi ước mơ làm nghệ sĩ của mình: “Chị Diệu bỏ nhà theo đồn hát từ
năm mười bảy tuổi, không cách chi mà giữ lại được, không cách chi chị quên giấc mơ xướng
ca xiêm áo” (Làm má đâu có dễ) (Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Có thể nói, tình u của người miền
Tây đối với việc thưởng thức nghệ thuật diễn xướng nói chung và với cải lương nói riêng vơ
cùng to lớn và sâu nặng.
Một điểm đặc biệt của nghệ thuật diễn xướng ở vùng đồng bằng sơng Cửu Long có liên
quan đến tâm linh là lễ cúng Tổ nghề hát. Các gánh hát bội, cải lương từ xa xưa đều có bàn thờ
Tổ trong hậu đài, giới nghệ sĩ cho rằng Tổ nghề là hai vị hồng tử vì đam mê xem hát đến nỗi
chết cóng vì đói và kiệt sức, sau khi mất vẫn thường hiện về để xem hát, thường gọi là ông
“Làng”. Hằng năm, tất cả gánh hát đều tổ chức lễ giỗ Tổ vào ngày 11 và 12 tháng 8 âm lịch
(Trần Văn Nam, 2013). Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng có nhắc đến dị bản của giai thoại về
các vị Tổ nghề hát trong truyện ngắn Cuối mùa nhan sắc: “Ơng vẫn thường khì khịt bảo rằng
mình bị Tổ nhập, ba ơng hồng tử Càn, Chơn, Chất đó, cũng vì đam mê nghệ thuật sân khấu
mà bỏ cung son, trốn tránh triều đình, cuối cùng chết trên cây vơng nem đó, thấy chưa. Có
người cười, thằng Vũ bị tình nhập chớ Tổ gì nhập vơ nó nổi” (Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Ngoài
ra, những ngày giỗ Tổ cũng được tác giả đưa vào tác phẩm của mình: “Có những lần giỗ Tổ,

38



TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 33 – Tháng 9/2022

đồn giao cho chị đóng vai Tơ Ánh Nguyệt trong trích đoạn gặp lại thằng Tâm, lúc con trai
mình mắng mỏ một hồi rồi bỏ đi, Nguyệt kêu 'Tâm, con đuổi má sao con?'…” (Làm má đâu có
dễ) (Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Điều đó cũng được thể hiện trong tác phẩm Cuối mùa nhan sắc:
“Cái bữa cả nhà Buổi Chiều được xe hơi đón đi giỗ Tổ ở nhà hát thành phố, ơng Chín giữ nhà”
(Nguyễn Ngọc Tư, 2006). Việc kính nhớ đến Tổ nghề thể hiện tinh thần “tơn sư trọng đạo”, “ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” của những người theo nghiệp xướng ca.
3. Kết luận
Cũng như nhiều loại hình văn hóa khác, cuộc sống hiện đại đã phần nào giảm đi sự ưa
chuộng của người miền Tây đối với các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian. Truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư cũng phần nào thể hiện thực trạng này. Các loại hình diễn xướng mới du
nhập từ ngoại quốc đã kéo theo sự thay đổi sở thích của người trẻ nơi đây. Tuy nhiên, trong
lịng những người miền Tây thực thụ thì hát bội, những câu hò, điệu lý hay cải lương là một
trong những ký ức khơng thể xóa nhịa.
Những biểu hiện của nghệ thuật diễn xướng qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, người
đọc ít nhiều có thể hình dung được đời sống tinh thần phong phú của người dân miền sơng nước
Tây Nam Bộ. Có thể nói, nghệ thuật diễn xướng trong đời sống sinh hoạt của người dân vùng
Tây Nam Bộ nói chung, qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư nói riêng vừa kế thừa những nét
đặc sắc của nền văn hóa dân tộc, vừa sáng tạo để hình thành nên những nét đặc trưng riêng của
khu vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoàng Phê (chủ biên) (2009). Từ điển tiếng Việt. Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng.
[2] HUỳnh Tịnh Của (2018). Đại Nam quấc âm tự vị. Nhà xuất bản Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí
Minh.
[3] Ngơ Văn Lệ (chủ biên) (2017). Vùng đất Nam Bộ (tập VII) – Đặc trưng tín ngưỡng, tơn giáo và

sinh hoạt văn hố. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
[4] Nguyễn Ngọc Tư (2006). Giao thừa. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[5] Nguyễn Ngọc Tư (2011). Cánh đồng bất tận. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[6] Nguyễn Ngọc Tư (2014). Đảo. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[7] Nguyễn Ngọc Tư (2018). Gió lẻ và 9 câu chuyện khác. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[8] Trần Ngọc Thêm (chủ biên) (2014). Văn hoá người Việt vùng Tây Nam Bộ. Nhà xuất bản Văn hoá
– Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[9] Trần Văn Nam (chủ biên) (2013). Lễ hội dân gian đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản Phương
Đông, Cần Thơ.

Ngày nhận: 18/4/2022
Ngày duyệt đăng: 12/9/202

39



×