Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.6 KB, 2 trang )
Tình thương, sự thông cảm đã khiến những người xa lạ xích lại
gần nhau, đùm bọc cưu mang lẫn nhau; mẹ - con, chồng - vợ thêm
gắn bỏ trong hoàn cảnh khó khăn bi đát, vẫn còn đó đói nghèo
nhưng tình thương khiến họ ấm áp hơn và thêm chỗ dựa, thêm
sức mạnh để tin và hi vọng vào tương lai. Đây chính là tia sáng lên
giữa cuộc sống tối tăm.
Vợ nhặt kể chuyện một người nghèo “nhặt" được vợ trong năm đói. Tác phẩm được xây dựng theo diễn
biến tâm lí của ba nhân vật chính xoay quanh cái tình huống khác thường đã gắn kết thân phận họ với
nhau.
1. Giá trị hiện thực:
Qua truyện Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã phản ánh tình cảnh khôn cùng của nhân dân ta trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945 và xu hướng theo cách mạng của họ.
a) Hình ảnh xóm ngụ cư trong nạn đói, một cuộc sống mấp mé bờ vực cái chết “Người đói như những
bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ, thây nằm cong queo bên đường, tiếng
quạ, tiếng hờ khóc, mùi xác chết... ”
b) Trong tình cảnh đó, việc Tràng đưa người đàn bà đói về làm vợ khiến cái xóm làng và bà mẹ của anh
ngạc nhiên, không dám tin mà cả chính anh cũng thầm lo âu “vì anh chỉ là người đẩy xe nghèo khó, nhà
cũ rách nát”, “đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không”, người đàn bà vợ nhặt của Tràng,
rách rưới, đói sắp chết sau khi được cho ăn bốn bát bánh đúc, theo về làm vợ một người đàn ông xa lạ
như anh, trước hết chỉ để khỏi đói. Nhưng xem ra cái đói không thể trách khỏi: bữa đầu tiên của chị ở nhà
chồng thật thảm hại, chẳng đủ cháo loãng để húp mà phải ăn cháo cám.
c) Qua câu chuyện của ba mẹ con trong bữa ăn, bức tranh nông thôn miền Bắc ngày đói dần đã được mở
rộng: “xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn", "đằng thì nó bất trồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế.
Giời đất này chưa chắc đã sống qua nổi”. Nhưng cũng có tin trên miệt Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
“không chịu đóng thuế nữa”, “còn phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo”. Truyện kết thúc bằng
hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc ngày càng rõ rệt, đầy sức vẫy gọi trong tâm trí Tràng.
Tóm lại, bằng những chi tiết về một ngày đời thường trong gia đình Tràng sau khi anh nhặt được vợ,
Kim Lân đã phản ánh khái quát mà sinh động, đầy ám ảnh tình cảnh của đât nước năm đói lịch sử 1945,
tố cáo tội ác kẻ thù thật mạnh mẽ mà
không cần đao to búa lớn. Vợ nhặt được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, lại được tác giả sửa chữa,
cho in sau ngày hòa bình lập lại. Kim Lân có điều kiện thể hiện được xu thế tất yếu của quần chúng lao