Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận cao học triết, quan điểm toàn diện với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.89 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất
nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mơ hình kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng
kéo dài, đời sống nhân dân thấp.
Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất
nước là đổi mới kinh tế. Tại Đại hội VI của Đảng, trên cơ sở quan điểm
toàn diện nhận thức rõ về thực trạng đất nước cùng với những thành tựu
trong những năm đầu đổi mới đến năm 1991 tại Đại hội lần VII, Đảng ta đã
đi tới quyết định: kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp chuyển sang nền kinh thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Đường lối đó được thực hiện trên mười năm đổi mới đã đem lại
những thành tựu đáng khích lệ chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó cịn
khơng ít những khó khăn nổi cộm. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn
thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Đây là việc làm
thiết thực và rất cần thiết đối với vận mệnh đất nước vì vậy tơi đã quyết
định chọn đề tài “Quan điểm tồn diện với cơng cuộc đổi mới của nước
ta hiện nay” để nghiên cứu. Hơn nữa, đây là đề tài mang giá trị thực tiễn
và giá trị khoa học lớn góp phần làm sáng tỏ quan điểm tồn diện của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Do đó sự tồn tại quá lâu của cơ chế kinh tế cũ đã ăn sâu
bám rễ vào tư duy nhận thức, vào quan điểm và cách thức điều hành, quản
lý kinh tế của chính phủ nên việc chuyển từ nền kinh tế nhỏ sang nền kinh
tế thi trường địi hỏi phải có sự xem xét một cách toàn diện, cụ thể những
điều kiện của nước ta. Do trình độ và thời gian có hạn nên tiểu luận này


TiĨu



ln triÕt häc
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như hình thức, kính
mong thầy giáo cùng bạn đọc góp ý, bổ xung cho tơi để tơi có thể hồn
thành bài luận tốt hơn.

1


TiĨu

ln triÕt häc

<I>. Lý luận chung về quan điểm tồn diện với việc phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Vào tháng 6-1996 tại đại hội Đảng lần VIII đã xác định: Xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, chủ yếu có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người
được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, mọi người có quyền làm chủ bản thân
mình và làm theo năng lực hưởng theo lao động. Là xã hội mà người dân
có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tự do trong khuôn khổ pháp luật, có điều
kiện để phát triển tồn diện cá nhân các dân tộc trong nước đồn kết, bình
đẳng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị, hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Theo Mác, XHCN đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh
có nền kinh tế phát triển cao song do lịch sử Việt Nam đã chịu ách thống trị
của phong kiến và thực dân, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc đưa đất nước đi lên

XHCN. Vì vậy, Việt Nam - một nước kinh tế chưa phát triển còn nghèo
nàn, lạc hậu đã đi theo con đường XHCN, định hướng XHCN ở nước ta
ngày càng được giữ vững và không ngừng phát triển đặc biệt là định hướng
về chính trị, xã hội và kinh tế.
2. Thế nào là nền kinh tế thị trường ?
Nền kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà sản phẩm
sản xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường. Trong kiểu tổ chức mà tồn bộ
q trình sản xuất - phân phối, trao đổi - tiêu dùng, mua bán và hệ thống thị
trường và do thị trường quyết định. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng
kém hiệu quả, chưa làm tốt vai trò chủ đạo. Kinh tế hợp tác chậm đổi mới,
2


TiÓu

luËn triÕt häc
số tổ chức hợp tác trước kia chỉ cịn tồn tại 10%. Nhiều hình thức hợp tác
mới ra đời nhưng chưa được tổng kết, đánh giá, Nhà nước lại chưa có sự
giúp đỡ nên phương hướng hoạt động còn nhiều vướng mắc lúng túng. Để
kinh tế hợp tác hoạt động đúng hướng Nhà nước phải sớm hoàn thiện luật
kinh tế hợp tác để tạo hành lang pháp lý cho quá trình hoạt động của thành
phần kinh tế này. Khơng có sự định hướng của Nhà nước, nó sẽ không liên
kết hợp tác với kinh tế Nhà nước, xa rời Nhà nước và xa dần định hướng
mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Do việc quản lí các doanh nghiệp cồn rất nhiều sơ hở. Phần lớn kinh
tế tư bản Nhà nước chỉ tập trung vào lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh bất
động sản. Sự liên doanh của Nhà nước với tư bản tư nhân rất ít. Việc quản
lí các liên doanh có vốn đầu tư của nước ngồi cịn nhiều sơ hở nghiêm
trọng dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như : Giao công nghệ lạc hậu, khai
man giá thiết bị máy móc, trốn lậu thuế trở thành phổ biến. Những thành

phần kinh tế tiêu biểu cho lực lượng quyết định định hướng xã hội chủ
nghĩa còn non kém. Chúng chưa phát huy được tính ưu việt so với nền sản
xuất nhỏ. Sự non kém đó cùng với năng lực quản lí điều hành yếu kém là
nguy cơ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế - xã hội cần nhận thức tính chất nhiều thành phần của nền
kinh tế là một tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong việc
khuyến khích sự phát triển của chúng theo định hướng XHCN.
3. Việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi đến mục tiêu khơng cịn áp
bức, bóc lột, đi tới chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất thực hiện được
cơng bằng xã hội và xã hội có mức sống cao. Về mặt kinh tế cơng bằng
khơng có nghĩa là bình qn. Đó là một mặt kinh tế cơng bằng khơng có
3


TiĨu

ln triÕt häc
nghĩa là bình qn. Đó là một q trình tiệm tiến dần dần thơng qua các
biện pháp kinh tế - xã hội tổng hợp. Điểm khác nhau cơ bản của cơ chế
kinh tế của XHCN so với cơ chế kinh tế tư bản chủ nghĩa là khả năng từng
bước rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản chỉ có
thể dẫn đến phân cực. Trong thời kỳ quá độ chúng ta thừa nhận còn có bóc
lột, đây là hiện tượng khơng hợp lý cần xố bỏ.
Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải
giải quyết bằng nhiều biện pháp khơng làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp
của cơng dân. Bước đầu chìa khố để giải quyết nhiệm vụ đó là xã hội hố
XHCN trong thực tế nền sản xuất xã hội.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải

quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng
quan hệ sản xuất mới. Phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế và xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Vừa hình thành được cơ cấu kinh tế đặc trưng cho xã hội mới. Quá trình
chuyển hướng và đổi mới nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
một nguyên tắc, một vấn đề chiến lược quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư
duy kinh tế mới của Đảng ta.
<II>. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường ở nước ta.
Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành chính quyền
tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Thực tế có hai loại tư hữu: Tư hữu lớn bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh
nghiệp của các chủ tư bản trong và ngoài nước. Đó là kinh tế tư bản chủ
nghĩa, tư hữu nhỏ gồm những người nông dân cá thể, những người bn
bán nhỏ. Đó là sản xuất nhỏ cá thể.
4


TiÓu

luËn triÕt häc
Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới, Nhà nước ta xây dựng và
phát triển các thành phần kinh tế mới. Đối với tư hữu lớn. Kinh tế tư bản tư
nhân chỉ có phương pháp duy nhất là quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu
hố của chủ nghĩa Mac - Lênin khẳng định khơng nên quốc hữu hoá ngay
một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng giai đoạn và bằng hình thức,
phương pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể cho nên doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại như một tất yếu kinh tế đồng thời
hướng chủ nghĩa tư bản và con đường Nhà nước hình thành thành phần

kinh tế tư bản Nhà nước.
Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thơng qua con đường hợp tác hoá theo
các nguyên tắc mà Lênin đã vạch ra là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi
đồng thời tuân theo các qui luật khách quan. Do đó trong thời kỳ quá độ
còn tồn tại thành phần kinh tế cá thể, tiếu chú.
Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ cịn có khả năng phát triển, cịn
có vai trị đối với sản xuất và đời sống bởi vậy không thể bỗng chốc xoá bỏ
ngay được. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể liên doanh hợp
tác với tư bản tư nhân trong nước và nước ngồi làm hình thành kinh tế tư
bản Nhà nước.
Mặt khác sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử,
điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng
đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp chính sự phát
triển khơng đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết hình thức, qui
mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ
sản xuất khơng giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các cơ sở kinh tế khác
nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tế
to lớn.

5


TiÓu

luËn triÕt häc
Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam cịn có cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển
kinh tế thị trường là do : phần công lao động xã hội với tư cách là cơ sở
kinh tế của sản xuất chẳng những không mất đi trái lại ngày càng phát triển

cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ
truyền có tiềm năng lớn trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay
được khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường phong phú,
đa dạng chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chun mơn hố và hợp tác
hố lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động
trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần
kinh tế nhưng trình độ xã hội hố giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh
doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc
hạch toán kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao
đổi sản phẩm tất yếu phải thơng qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực
hiện các mối quan hệ kinh tế đảm bảo lợi lích giữa các tổ chức trong các
thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành
phần với nhau. Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan hay cản trở q
trình tiền tệ hố các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay
bằng những hình thức khác nhau sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
nước ta.
Qua đó ta thấy sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế thị trường
không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là một tất yếu khách quan rất
cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Để thấy được tính
quan trọng bức thiết của vấn đề đó ta đi sâu nghiên cứu từng thành phần
kinh tế.
2. Các thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế thị trường
2.1 Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường
6


TiĨu

ln triÕt häc

Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức
sở hữu, về cách thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu
phát triển khách quan của nền kinh tế và xã hội ta vì vậy, mỗi thành phần
kinh tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Chúng có vị trí, vai
trị nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của Nhà
nước.
* Kinh tế Nhà nước.
Thành phần kinh tế Nhà nước là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản
xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu
của Nhà nước hoặc phần của toàn nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế.
Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản
thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các
nguồn dự trữ, ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế
Nhà nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như :
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm,
những cơ sở sản xuất thương mại. Như vậy, vị trí của kinh tế Nhà nước là
rất quan trọng và to lớn.
Kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó hữu
cơ với các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế Nhà
nước tạo lực lượng về kinh tế để Nhà nước có thể thực hiện hữu hiệu chức
năng định hướng, đòn bẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có
hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
Mặt khác, nó cịn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số
lĩnh vực quan trọng như : Giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an
ninh,... Đồng thời kinh tế Nhà nước đảm bảo vai trị can thiệp và điều tiết
vĩ mơ của Nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường,
thực hiện một số chính sách xã hội.
7



TiÓu

luËn triÕt häc
Sở dĩ kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo so với các thành phần
kinh tế khác là do : Kinh tế Nhà nước là thành phần dựa trên trình độ xã hội
hố cao nhất, nó khơng chỉ có ưu thế về học vấn, trình độ, kỹ thuật mà cịn
có vai trị quyết định sự tồn tại, phát triển của nền kinh tế nước ta.
Qua đó ta thấy coi nhẹ kinh tế Nhà nước cho rằng chuyển sang cơ
chế thị trường phải tư hữu hoá tất cả tư liệu sản xuất là sai lầm, nhưng nếu
duy trì và phát triển kinh tế Nhà nước thiếu cân nhắc kỹ hiệu quả kinh tế xã
hội của nó thì cũng không đúng.
Mấy năm qua khu vực kinh tế Nhà nước có chuyển biến tích cực
biểu hiện ở: Tỷ trọng tổng sản phẩm trong nước tăng từ 36% năm 1991 lên
đến 43,6% năm 1994. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh
nghiệp thua lỗ giảm bớt. Tuy nhiên, nó cũng chưa phát huy đầy đủ tính ưu
việt và sự chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân, những tiến bộ đạt được
chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với năng lực sẵn có. Doanh nghiệp
Nhà nước chiếm 85% tài sản cố định trong công nghiệp, 100% mỏ khoáng
sản lớn, hơn 90% lao động được đào tạo nhưng hiệu quả kinh doanh còn
thấp, một bộ phận đáng kể cịn thua lỗ hoặc khơng có lãi. Do đó vấn đề cấp
thiết đặt ra chp khu vực kinh tế Nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực
tiếp cho người lao động để họ thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm sốt
q trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới kinh tế Nhà nước phải hết sức
coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra các bài học kinh
nghiệm, bổ xung những tri thức “cập nhật” nhằm thực hiện tốt vai trò chủ
đạo và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này.
* Thành phần kinh tế hợp tác.
Là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở liên kết tự nguyện của những
người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh

tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh
và đời sống.
8


ln triÕt häc
Nịng cốt của kinh tế hợp tác xã.

TiĨu

Hiện nay một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh
tế hợp tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo thành nền tảng của xã
hội thì mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là rất khó khăn. Vì vậy, Đại hội tồn quốc lần VIII đã nêu lên
nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ
thấp đến cao. Phong trào hợp tác hoá ở nước ta xuất hiện từ những năm 50.
Nó có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Vừa qua việc chuyển đổi từ hợp tác cũ sang hình thức hợp tác xã
kiểu mới. Việc xác lập hộ tư chủ trong sản xuất kinh doanh và xuất hiện
những hình thức hợp tác đa dạng trong nông nghiệp như tiểu thủ công
nghiệp là một biến tiến quan trọng trong kinh tế hợp tác.
Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải được tổ chức trên cơ sở đóng
góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, hưởng lợi quá
theo cổ phần và kết quả lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang
nhau đối với cơng việc chung. Kinh tế hợp tác có nhiều dạng, có những
hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt động chính của các thành viên, có những
hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về một hay một số dịch vụ trong quá
trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng một phần vốn và lao động, hộ
gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể là kết quả liên kết
theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và

lĩnh vực kinh doanh. Mỗi người kinh doanh, mỗi hộ gia đình có thể tham
gia đồng thờivào nhiều loại hình kinh tế hợp tác. Hợp tác xã có thể huy
động vốn cả trong lẫn ngoài.
Những hợp tác xã với mơ hình cũ khi chuyển qua kinh tế thị trường
đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đảm đương vai trò và nhiệm vụ mà nền
kinh tế giao phó, thành phần kinh tế tập thể phải được đổi mới căn bản và
đồng bộ về quan hệ sở hữu, quản lí và quan hệ phân phố, áp dụng tiến bộ
9


TiĨu

ln triÕt häc
và cơng nghệ khoa học mới vào sản xuất, hoạt động phải dựa trên nguyên
tắc tự nguyện tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân lời ăn lỗ chịu.
Những hợp tác cổ phần sẽ là những thực thể cấu tạo nên thành phần
kinh tế tập thể ở tất cả các ngành của nền kinh tế. Đây là giải pháp xuất
phát điểm để đổi mới các hợp tác xã. Song đó khơng phải là giải pháp duy
nhất “có phép thần tiên” màu nhiệm chữa được mọi căn bệnh hiện nay của
thành phần kinh tế tập thể. Sự tồn tại, phát triển của kinh tế hợp tác là một
tất yếu kinh tế phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế
nước ta. Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này đã được khẳng định và
ngày càng phát huy tác dụng đặc biệt là trong kinh tế hợp tác xã nông nghiệp.
* Kinh tế tư bản Nhà nước.
Kinh tế tư bản Nhà nước là phẩm của sự can thiệp của Nhà nước vào
hoạt động các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước.
Kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên
doanh sản xuất giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản trong và ngoài
nước nhằm sử dụng khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia đặt
dưới sự kiểm soát giúp đỡ của Nhà nước. Kinh tế tư bản Nhà nước ở nước

ta đa số là những doanh nghiệp nhỏvà vừa tập trung trong ngành dịch vụ
(64%). Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là 9% GDP. Nó đã đóng
vai trị khơng kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta
hiện nay, là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn góp phần thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
Lênin đã chỉ rõ “Trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ
nghĩa tư bản Nhà nước tiến lên xã hội chủ nghĩa”. Vận dụng tư tưởng đó
Đảng ta đã chỉ rõ là phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản
Nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướg xã hội chủ nghĩa. Tuy cịn
nhiều khó khăn, trở ngại trong việc phát triển các liên doanh nhưng triển
10


TiĨu

ln triÕt häc
vọng của nó rõ ràng, to lớn. Có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự
gia tăng của đầu tư nước ngoài vào nước ta, ý nghĩa của sự phát triển thành
phần kinh tế này là việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý của thế giới, khu vực nhằm từng bước gớp phần cấu trúc lại nền
kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Khơng có
sự đầu tư của nước ngồi nền kinh tế Việt Nam khơng thể nhanh chóng cất
cánh và rút ngắn được qúa trình đạt tới trình độ của nền kinh tế thị trường.
Do đó để thu hút vốn đầu tư nước ngồi Việt Nam cần tạo ra một môi
trường đầu tư thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá thủ tục
đầu tư, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ đủ khả năng đảm đương được
công việc, nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật
ổn định. Tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đầu tư nước ngồi.
* Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ là thành phần kinh tế hoạt động của bản thân

sản xuất Kinh doanh giữa vốn và sức lao động của bản thân là chính. Kinh
tế cá thể, tiểu chủ của nơng dân thợ thủ công những người buôn bán, dịch
vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất
Kinh doanh phân tán, mục đích Kinh doanh chủ yếu ni sống mình. Thế
mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn,
sức lao động, tay nghề. Vì vậy kinh tế cá thể thiểu chủ có vị trí, vai trò
quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở
nước ta. Đảng và Nhà nước chủ trương giúp đỡ thành phần kinh tế tiểu thủ
về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song nó cịn
có những hạn chế không phù hợp với chủ nghĩa xã hội. Do đó cần hướng
dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “vệ tinh” cho
các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt đất để nó hồ
nhập với các thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho cơng cuộc
đổi mới kinh tế, phát triển đất nước.
11


luËn triÕt häc
* Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.

TiÓu

Là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số Nhà nước tư bản
trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đây là thành
phần dựa trên sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất và
bóc lột sức lao động thường đầu tư vào những ngành vốn ít lãi cao.
Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các hình thức như : Doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm
1991, sau khi có luật Doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản Nhà
nước phát triển khá mạnh và sẽ trở thành một lực lượng đáng kể trong cơng

cuộc xây dựng đất nước. Hiện nay có 12.109 Doanh nghiệp tư nhân với số
vốn đăng ký 2.234 tỷ đồng, Cơng ty trách nhiệm hữu hạn có 5583 Cơng ty
với tổng số vốn 3 tỷ đồng. Nền kinh tế nước ta phát triển có năng động với
tốc độ cao hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của khu vực
kinh tế này. Mặt khác việc tư nhân hố các Doanh nghiệp Nhà nước chỉ có
thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế tư nhân
được phát triển đủ lớn làm tiền đề. Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay
sự phát triển mạnh mẽ và năng động của kinh tế tư bản tư nhân có ý nghĩa
rất lớn và địi hỏi phải được đặt trong chương trình nghị sự hàng ngày của
Chính phủ.
Kinh tế tư nhân kinh doanh hợp pháp cần được chính phủ khuyến
khích, tạo mơi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn ra kinh
doanh, cần được bảo vệ bằng luật pháp và chính sách. Những nhà đầu tư tư
nhân phải được thực sự bình đẳng trong kinh doanh trước pháp luật, được
tơn trọng trong xã hội bởi hiện nay nhiều nhà Doanh nghiệp tư nhân vẫn bị
coi là kẻ bóc lột, so với các Doanh nghiệp Nhà nước họ còn bị thua kém
nhiều bề.
Chính sách của Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân phát triển trong
những ngành và lĩnh vực pháp luật cho phép. Nhà nước góp phần vốn đầu
12


TiÓu

luËn triÕt häc
tư cùng tư nhân trên cơ sở thoả thuận nhằm tạo thế Kinh doanh tạo lực phát
triển xaay dựng tình đồn kết, hợp tác giữa chủ và thợ phát triển Kinh
doanh có hiệu quả. Tất cả các thành phần kinh tế trên tạo thành sức mạnh
tổng hợp to lớn thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ.
2.2 Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị

trường
Nền kinh tế thị trường quá độ trong đó tồn tại nhiều thành phần kinh
tế với những kiểu sản xuất hàng hố khơng cùng bản chất vừa thống nhất
vừa mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể
hiện ở
Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động khơng biệt lập
nhau mà gắn bó đan xen xâm nhập lẫn nhau thơng qua các mối quan hệ
kinh tế vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống phân công lao động xã hội
thống nhất. Mỗi thành phần kinh tế có vai trị, chức năng của nó trong đời
sống kinh tế xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Sự
thống nhất của các thành phần kinh tế cịn vì yếu tố điều tiết thống nhất của
hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ và thị
trường thống nhất.
Tất cả các thành phần kinh tế đều xuất phát từ yêu cầu phát triển
khách quan của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Vì vậy các thành phần này
đều phát huy mọi tiềm lực hiện có để thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố
- hiện đại hố đất nước. Các thành phần kinh tế đều khác nhau về nhiều
mặt cho nên sự thống nhất này bao hàm những mặt khác biệt nhau và đối
lập nhau. Chúng tồn tại trong mẫu thuẫn.
Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, giữa
xu hướng tư bản chủ nghĩa và xu hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có sự mâu
thuẫn là do đặc điểm sở hữu của các thành phần kinh tế là khác nhau nên
13


TiĨu

ln triÕt häc
lợi ích kinh tế giữa các thành phần là khác nhau, trái ngược nhau nên mâu
thuẫn nhau. Ngay trong mỗi thành phần kinh tế các Doanh nghiệp cũng

mâu thuẫn lẫn nhau vì chúng đều là các chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường.
Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển trong hệ
thống thống nhất của nền kinh tế qúa độ chứa đựng những sự đối lập, một
mặt bài trừ, cạnh tranh với nhau. Mặt khác chúng thống nhất với nhau,
nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển thông qua hợp tác và cạnh
tranh.
Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác từng thành phần kinh tế tồn tại
với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự khẳng định mình và
phát triển theo quỹ đạo chung chịu sự quản lý của Nhà nước. Tuỳ vào khả
năng và trình độ xã hội hố của từng thành phần và sự hợp tác giữa chúng
mà giải phóng mọi năng lực sản xuất Kinh doanh, mở rộng thị trường tạo
công ăn việc làm nâng cao đời sống người dân.

III. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về phương
hưóng phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
1. Giải pháp khắc phục khó khăn.
Để khắc phục những khó khăn và hạn chế nêu trên Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra và thực hiện các giải pháp sau: song song với việc phát
triển mạnh các thành phần kinh tế phải đảm bảo cho kinh tế Nhà nước giữ
vững vai trò chủ đạo và khả năng điều tiết được các thành phần kinh tế
khác. Để thực hiện được điều này cần thực hiện một cách đồng bộ các giải
pháp sau :

14


TiÓu

luËn triÕt häc

Đảm bảo cho kinh tế Nhà nước hơn hẳn các thành phần khác về quy
trình cơng nghệ, vận dụng kịp thời những thành tựu mới nhất của khoa học,
kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất Kinh doanh. Kinh tế Nhà nước phải
Kinh doanh có lãi và liên tục phát triển. Hiện nay, thị trường là một trong
những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế. Trong tương lai thị trường
nước ta sẽ vận động và phát triển theo xu hướng chung của thị trường thế
giới - một thị trường đầy đủ, ổn định phát triển đồng bộ cả chiều sâu lẫn
chiều rộng.
Nhà nước phải độc quyền ngoại thương vì chỉ có độc quyền ngoại
thương Nhà nước mới có thể tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp phát triển
và định hướng được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Cần đảm bảo thu nhập của các cán bộ công nhân trong khu vực kinh
tế Nhà nước phải cao hơn ngoài khu vực kinh tế Nhà nước, để tránh tình
trạng chảy máu chất xám.
Đó là giải pháp thứ nhất về kinh tế cịn giải pháp lớn thứ hai là: phải
thường xuyên cải tiến và đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện quan hệ sản
xuất trên các mặt sở hữu, tổ chức sản xuất - Kinh doanh và phân phối tiêu
thụ sản phẩm. Phải tăng cường cơng tác kiểm tra, kiểm sốt Doanh nghiệp
Nhà nước đối với tất cả các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước
làm ăn thua lỗ phải giải thể, cố gắng phục hồi những Doanh nghiệp cịn có
thể tồn tại và phát triển được. Nhà nước cần cho phép thành lập các Công
ty cổ phần, mở thị trường chứng khốn tái tạo cơng ăn việc làm cho người
lao động, nhanh chóng giao đất giao rừng cho người lao động ở nông thôn
và miền núi, thực hiện phân phối lại nhiều lần để đảm bảo cho người nghèo
có điều kiện phát triển.

15



TiÓu

luËn triÕt häc
Giải pháp thứ ba là đảm bảo được niềm tin của quần chúng nhân dân
lao động vào chủ nghĩa xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước.
Xu hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển kinh tế sẽ không thể
thực hiện được nếu như quần chúng nhân dân lao động mất niềm tin vào
chế độ xã hội chủ nghĩa. Để củng cố niềm tin của dân vào Đảng vào xã hội
chủ nghĩa thì lợi ích mang lại từ phía xã hội chủ nghĩa phải ngày càng lớn
hơn so với các phía khác mang lại. Phải khắc phục được tệ nạn tham nhũng
đang trở thành quốc nạn trong xã hội ta. Cán bộ, Đảng viên đặc biệt là
người có chức, có quyền phải là những người có tư cách đạo đức tốt, có
năng lực thực sự để dân tin tưởng noi theo.
Giải pháp thứ tư là hoàn thiện hệ thống pháp luật sử phạt nghiêm
minh. Những giải pháp trên sẽ không đạt hiệu quả cao nếu khơng có sự hỗ
trợ nhiều khi đến mức quyết định của hệ thống pháp luật. Trong hệ thống
pháp luật hiện nay còn nhiều kẽ hở và mẫu thuẫn đã tạo điều kiện để kẻ xấu
lợi dụng mưu cầu lợi ích cá nhân. Để giải quyết những vấn đề này cần có
một số biện pháp cụ thể sau .
Hoàn thiện tổ chức của các cơ quan pháp luật để khơng cịn hiện
tượng, chồng chéo lẫn nhau. Chức năng, nhiệm vụ các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp phải rõ ràng. Cần đảm bảo tính chất cơng bằng, hợp lý
của luật pháp ngày trong bản thân các điều luật ban hành. Cần phổ cập giáo
dục pháp luật trong toàn dân, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật
cho tất cả mọi người. Đồng thời phải đảm bảo và giữ vững quyền lãnh đạo
toàn diện và tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam đối với tồn bộ tiến
trình cách mạng ở nước ta. Để làm được điều này cần đề phòng hai nguy cơ
sau:
Nguy cơ xâm lược tác động từ bên ngoài theo chiều hướng đối lập về

bản chất và nguy cơ phân liệt, biến loạn từ bên trong nội bộ Đảng. Nguy cơ
16


TiĨu

ln triÕt häc
bên ngồi chỉ thành hiện thực khi nó thông qua nguy cơ từ bên trong. Như
vậy nguy cơ bên trong giữ vai trò quyết định.
Để giữ vững quyền lãnh đạo cách mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
trước hết phải thực sự đoàn kết, trong sạch và chống được mọi ý đồ làm
phân liệt và tan rã Đảng. Thái đội kiên quyết chống đa nguyên Đảng Chính
trị của Đảng cộng sản Việt Nam là một thành cơng chính trị có tầm chiến
lược và có ý nghĩa quyết định dến sự thành công của đường lối đổi mới vừa
qua. Sự đổi mới mơ hình kinh tế địi hỏi phải đổi mới hệ thống chính trị là
một yêu cầu khách quan. Giải pháp tốt nhất có thể thực hiện được để đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta là phân định chức năng trong hệ thống đó.
Bên cạnh những giải pháp đó đồng thời phải xây dựng đội ngũ các
nhà Doanh nghiệp giỏi và các nhà quản lý vĩ mô có tài cần phải liên kết họ
lại. Mặt khác thi hành nhiều chính sách như : chính sách mở cửa tạo thuận
lợi cho sự hợp tác, văn hoá, khoa học với nước ngồi, các chính sách về
thuế quan xuất nhập khẩu hàng hố, chính sách về luật đầu tư ngày càng
được cải tiến bổ sung đã có tác dụng tích cực cho sự phát triển mạnh nền
kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế
trong khu vực và thế giới.
Để hỗ trợ cho sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp chúng ta đã
đẩy mạnh mặt trận ngoại giao, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và y tế.
Tất cả những giải pháp trên kết hợp với việc quản lý kinh tế - xã hội
bằng luật pháp theo mơ hình Nhà nước pháp quyền giúp chúng ta ổn định
và phát triển nền kinh tế thị trường theo đúng định hưỡng xã hội chủ nghĩa.

2. Đường lối chính sách của Đảng nhằm phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa mà thực chất
của thời kỳ này là Nhà nước của giai cấp vô sản và nhân dân lao động tự
17


TiÓu

luËn triÕt häc
đảm đương nhiệm vụ lịch sử phát triển lực lượng sản xuất, tự tạo lập những
điều kiện vât chất của sản xuất và những quan hệ xãa hội làm cơ sở hiện
thực cho chủ nghĩa xã hội.
Xu hướng khách quan sự tăng trưởng kinh tế của nhân loại đến một
trình độ nhất định làm xuất hiện sự phát triển kinh tế thị trường. Nhưng
kinh tế thị trường có thể phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa hoặc xã hội
chủa nghĩa. Như thế xu hướng khách quan chưa đủ đảm bảo để kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà cịn đ hỏi các nhân tố chủ quan.
Nhân tố chủ quan bảo cho sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội của
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là :
Thứ nhất : Vai trò lãm đao của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng hoạt
động với tư cách là người tổ chức và lãnh đạo, định hướng mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Nhiệm vụ của Đảng hướng vào tổ chức, xây dựng,
phát triển đất nước mà tăng trưởng kinh tế trở thành nhiệm vụ trung tâm.
Đảng cầm quyền cần được nhận thức với nội dung cơ bản là : xác định mục
tiêu chính trị, định hướng chính trị cho sự phát triển kinh tế xã hội công
bằng, cương lĩnh đường lối chiến lược phát triển, bằng những nguyên tắc
và chính sách lớn trong đối nội và đối ngoại.
Yêu cầu của mọi sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải thực sự có bản

lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, sáng tạo trong hoạch định cương lĩnh,
chiến lược và sách lược nhằm hiện thực hoá bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa
xã hội trong cuộc sống.
Thứ hai : Xây dựng Nhà nước Việt Nam vững mạnh, trong sạch
quản lý kinh tế xã hội có hiệu quả.
Phải xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Nhà nước pháp quyền là nấc thang của văn minh nhân loại trong
18


TiÓu

luËn triÕt häc
lĩnh vực quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước nước pháp quyền đạt
trình độ phát triển rực rỡ trong chủ nghĩa tư bản. ngày nay Đảng ta cũng sử
dụng nó để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy có quy luật gì, đẹc điểm nào của Nhà nước
pháp quyền mà chủ nghĩa tư bản sử dụng thì phù hợp cịn Việt Nam lại
khơng vì Việt Nam đi theo chủ nghĩa xã hội. Điều này phải thật rõ ràng để
khi xây dựng và thực thi pháp luật Nhà nước pháp quyền Việt Nam khơng
rơi vào tình trạng mất định hướng, “chắp vá” sẽ rất nguy hiểm đối với một
“cỗ máy” trong sản xuất công nghiệp và càng nguy hiểm đối với một bộ
máy Nhà nước khi vận hành khơng theo một mục đích. Định hướng xã hội
chủ nghĩa là phải làm cho kinh tế xã hội phát triển. Như thế cơ chế, chính
sách của Nhà nước phải khoa học, sáng tạo và đồng bộ nhằm hướng sự
phát triển tồn diện xã hội.
Nhà nước phải có mơi trường pháp lý, xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà nước. Nội dung và phương
tiện quản lý của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế là pháp luật và
hành lang pháp lý. Vậy phải tạo môi trường pháp lý thuận lợi chứ không dễ

dàng để tất cả các thành phần kinh tế cạnh tranh và phát triển trong khuôn
khổ pháp luật.
Thứ ba : Tính nhân dân, tính dân tộc trong phát triển kinh tế.
Nền kinh tế thị trường là phương tiện, phương thức khơi dậy tiềm
năng, sức sáng tạo của cả cộng đồng dân tộc. Như vậy, toàn bộ hoạt động
của Đảng, Nhà nước phải hướng tới sự giải phóng mọi tiềm năng của đất
nước của nhân dân như : Khả năng làm giàu, tính tự giác, lịng u xã hội
chủ nghĩa. Tất cả phải hướng tới mục tiêu “dân là gốc” - “gốc là của mọi
quyền lực”.

19



×