I. LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu vấn đề bình
đẳng giới ở Việt Nam.
Trong bất kì hình thái kinh tế xã hội nào, bất kì giai đoạn lịch sử nào và
ở bất cứ đâu, phụ nữ cũng ln có một vai trị rất quan trọng nhưng khơng
phải bao giờ cũng có được địa vị cân xứng. Trong quá trình phát triển của lịch
sử nhân loại, vai trị của phụ nữ đã khơng được thừa nhận và đánh giá đúng,
họ ln bị bóc lột và đối xử một cách bất bình đẳng. Nghiên cứu về vấn đề
này, Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: Bất bình đẳng giữa nam, nữ là một sự bất
bình đẳng lớn nhất của lịch sử nhân loại và nó chính là nguồn gốc đích thực
về mặt lịch sử, xã hội của những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ
chồng. Ông cũng chỉ ra rằng : muốn giải phóng phụ nữ thì phải xây dựng một
xã hội mới, một xã hội khơng cịn áp bức bóc lột của người này đối với người
khác, của giai cấp này đối với giai cấp khác. Như vậy để xây dựng một xã hội
công bằng văn minh thì cần phải giải phóng phụ nữ và đảm bảo cho họ được
bình đẳng với nam giới trên mọi phương diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
từng khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội.Nếu khơng giải phóng
phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người.Nếu khơng giải phóng phụ
nữ là xây dựng XHCN một nửa”.
Trên tinh thần kế thừa và phát huy những tư tưởng tốt đẹp ấy, Đảng và
Nhà nước ta luôn giành cho phụ nữ sự quan tâm rất lớn. Trong cả bốn bản
Hiến Pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992, quyền bình đẳng nam nữ đã được
ghi nhận và dần trở thành một nguyên tắc cơ bản, và theo đó, hầu hết các văn
bản pháp luật ra đời đã cụ thể hố quyền bình đẳng nam nữ để thực hiện triệt
để trong cuộc sống. Luật Bình đẳng giới ra đời năm 2006 chính là sự cụ thể
hố một cách trực tiếp nhất, rõ rệt nhất tư tưởng ấy.
1
Tính đến thời điểm này, Luật bình đẳng giới đã có hiệu lực được hơn 5
năm. Tuy vậy xét từ góc độ thực tiễn và nghiên cứu, nó vẫn cịn là đề tài khá
mới mẻ. Mặc dù đã có một số cơng trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác
nhau, nhưng với đề tài khoá luận tốt nghiệp: “Một số vấn đề cơ bản của Luật
Bình đẳng giới”, tác giả mong muốn làm rõ một số nội dung cơ bản và đóng
góp một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực thi Luật bình đẳng
giới trong cuộc sống.
Theo số liệu thống kê của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFP), dân số
thế giới đã lên đến 6,5 tỉ người (năm 2005). Mỗi ngày có hơn 70.000 nữ thanh
thiếu niên kết hôn và khoảng 40.000 phụ nữ sinh con. Ở Việt Nam, theo số
liệu thống kê năm 2005, dân số đã lên tới hơn 82 triệu người, tăng 1,43% so
với năm trước đó. Trong đó phụ nữ chiếm 51,8% dân số và 52% lực lượng lao
động. Tuy nhiên, sự mất bình đẳng nam - nữ trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng trong nhiều lĩnh vực vẫn đang là thực tế.
Ở nước ta hiện nay, tuy đã bước vào một thời đại mới, bước vào một kỷ
nguyên mới, nhưng hiện tượng phụ nữ bị đánh đập, bị lạm dụng… vẫn đang
diễn ra khá phổ biến. Vấn đề bất bình đẳng giới cũng như vấn đề giải phóng
phụ nữ được nhà nước ta, các ban ngành và toàn xã hội quan tâm sâu sắc.
Đây không phải là một vấn đề cịn mới mẻ, nhưng cũng khơng phải là
vấn đề cũ kỹ và có lẽ sẽ khơng bao giờ là một vấn đề bị coi là “lỗi thời”. Khi
chọn đề tài này người viết muốn đi sâu vào nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến
tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, và chỉ xin đưa ra một số
giải pháp nhằm hạn chế tình trạng này.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học nghiên cứu về vấn đề
này, mặt khác như chúng ta cũng nhận thấy, trên các phương tiện thông tin
đại chúng như đài, báo, truyền hình… ln đăng tải các nghiên cứu, các cuộc
khảo sát cũng như nhiều thơng tin về vấn đề bất bình đẳng giới. Các nghiên
cứu cũng đã nêu lên được những nguyên nhân dẫn tới việc bất bình đẳng giới
2
cũng như đưa ra được những kiến nghị, giải pháp nhằm dần dần xoá bỏ hiện
tượng này trong xã hội Việt Nam.
Song, trong các nghiên cứu trước đây các tác giả chưa đi sâu vào những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới, đặc
biệt trong đó có nguyên nhân chủ quan của bản thân người phụ nữ. Vì vậy
trong đề tài này người viết xin đi sâu vào nghiên cứu những nguyên nhân của
hiện tượng bất bình đẳng giới trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Người viết muốn làm rõ khái niệm bình đẳng giới, bất bình đẳng giới,
từ đó đi sâu làm rõ những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới
ở nước ta hiện nay, góc độ nhận thức của nhà báo những nhà làm truyền
thông về vấn đề này nhằm đưa ra những giải pháp góp phần làm giảm tình
trạng này ở Việt Nam .
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng một số phương pháp như: phương pháp điều tra xã
hội học, bằng phương pháp phỏng vấn sâu.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong giới
truyền thông, những người tạo dựng và tuyên truyền thông điệp về vấn đề
bình đẳng giới trong cả nước.
6. Kết cấu nội dung của đề tài.
Nội dung của đề tài dự kiến gồm 2 phần:
Chương 1: Hiện tượng bất bình đẳng giới trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay.
Chương 2: Nội dung cụ thể của việc nghiên cứu
3
II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM.
1. Một số khái niệm:
Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ
vọng liên quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trị
quyết định đến cơ hội cuộc sống của con người, xác định vai trò của họ trong
xã hội và trong nền kinh tế. Giới chỉ khác biệt về xã hội quan hệ về quyền lực
giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa phụ nữ và nam giới được hình thành và
khác nhau trong một nền văn hóa, giữa các nền văn hóa và thay đổi theo thời
gian. Sự khác biệt này được nhận thấy một cách rõ ràng trong vui chơi, trách
nhiệm, nhu cầu, khó khăn và thuận lợi của các giới tính.
Theo quy định tại Khoản 3 và khoản 6 Điều 5 của Luật bình đẳng giới
thì : Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và hưởng thụ như nhau về thành quả của sự phát triển của
cộng đồng về thành quả của phát triển đó. Bình đẳng giới đề cập đến sự bình
đẳng về quyền, trách nhiệm và cơ hội của nam giới và nữ giới, trẻ em gái và
trẻ em trai. Theo Luật Bình đẳng giới, thì mọi người dù nam giới hay phụ nữ,
với tư cách là các cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để
phát huy tiềm năng sẵn có của mình cũng như có quyền thụ hưởng bình đẳng
trong q trình phát triển chung như:
Tiếp tục và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian, cơ
hội…).
Tham gia giải quyết những vấn đề có liên quan đến việc sử dụng
nguồn lực.
Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.
4
Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều
kiện và cơ hội bất lợi chon am, nữ trong công việc thực hiện quyền con người
đóng góp và hưởng thụ từ sự phát triển cảu gia đình, của đất nước.
2. Bất bình đẳng và các thước đo bất bình đẳng giới.
Bất bình đẳng giới được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau và được
đo bằng các tiêu chí khác nhau. Trong báo cáo phát triển con người của
chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã đưa ra 2 chỉ số:
- Chỉ số phát triển giới (GDI). Chỉ số này phản ánh những thành tựu
trong các khía cạnh tương tự như HDI (Tuổi thọ bình quân, giáo dục, thu
nhập…) nhưng lại điều chỉnh các kết quả đó theo bất bình đẳng giới. Trong
mỗi nước, nếu giá trị của GDI càng gần với HDI thì sự khác biệt theo giới
tính càng ít (trường hợp của Na Uy và Singapore). Nếu thứ hạng GDI thấp
hơn thứ hạng HDI cho thấy sự phân phối khơng bình đẳng và phát triển con
người giữa nam và nữ (Lucxambua và Ai Cập Xê út). Ngược lại, nếu thứ
hạng GDI là cao hơn, cho thấy sự phân phối bình đẳng hơn về phát triển con
người giữa nam và nữ.
Bảng so sánh giá trị và xếp hạng theo HDI và GDI một số nước chọn lọc năm 1999.
HDI
GDI
Tên nước
Gía trị
Xếp hạng
Gía trị
Xếp hạng
Na Uy
0.939
1
0.937
1
Sigapore
0.876
26
0.871
26
Lucxămbua
0.924
12
0.907
19
Ai Cập Xê út
0.74
68
0.719
75
Thái Lan
0.757
66
0.757
58
Xrilanka
0.735
81
0.732
70
Việt Nam
0.682
101
0.680
89
(Nguồn: Báo cáo phát triển con người 2001- NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2001).
Xếp hạng theo HDI cho 162 nước, xếp hạng theo GDI cho 146 nước.
5
- Thước đo vị thế giới (GEM). Thước đo này tập trung xem xét cơ hội
của phu nữ chứ không phải là khả năng (năng lực) của họ. Nó chỉ ra sự bất
bình đẳng giới trên 3 khía cạnh:
+ Tham gia hoạt động chính trị và có quyền quyết định- được đo bằng
tỷ lệ có ghế trong quốc hội cảu phụ nữ và nam giới.
+ Tham gia hoạt động kinh tế và có quyền quyết định- được đo bằng tỷ
lệ các vị trí lãnh đạo, quản lý do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm và tỷ lệ các
vị trí trong ngành kỹ thuật, chuyên gia do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm.
+ Quyền đối với các nguồn kinh tế- đo bằng thu nhập ước tính của phụ
nữ và nam giới (PPU- USD).
Các nghiên cứu của UNDP về GDI và GEM của các nước đã chỉ ra
rằng:
- Sự bình đẳng về giới cao hơn trong phát triển con người không phụ
thuộc vào mức thu nhập hoặc giai đoạn phát triển.
- Thu nhập cao không phải là điều kiện tiên quyết để tạo ra các cơ hội
cho phụ nữ.
- Trong những thập niên qua, tuy đã có những tiến bộ vượt bậc về sự
bất bình đẳng giới nhưng sự phân biệt giới vẫn còn phổ biến trong mọi mặt
của cuộc sống và ở các nước trên thế giới.
Vì vậy bình đẳng giới được coi là trung tâm của phát triển, là mục tiêu
của sự phát triển, đồng thời là một yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng
cảu quốc gia và xóa đói giảm nghèo.
Bằng chứng thực tế cho thấy, phát triển kinh tế thế giới và sự phát triển
của các nước đang phát triển đang mở ra nhiều hướng đi để nâng cao sự bình
đẳng giới trong dài hạn. Tuy nhiên, nếu chỉ sự tăng trưởng thì sẽ khơng tạo ra
được kết quả mong muốn mà cịn cần có một mơi trường thể chế để mang lại
quyền hạn và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ và nam giới, cần có những giải
pháp chính sách phát triển liên quan đến bất bình đẳng giới.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU.
6
I. Thực trạng bình đẳng giới trong những năm qua.
Bình đẳng giới là lĩnh vực rộng và có liên quan đến nhiều ngành. Để
tìm hiểu hết thực trạng của bất bình đẳng giới là một điều hết sức khó khăn
nhưng nhìn sâu trong một số lĩnh vực thì chúng ta cũng có thể hiểu thực trạng
của bất bình đẳng giới đang tồn tại trong xã hội Việt Nam như thế nào. Sau
đây tìm hiểu về thực trạng bất bình đẳng giới một số ngành .
1. Tỉ số giới tính khi sinh (SRB).
Tỷ lệ giới tính khi sinh được đo bằng số trẻ sơ sinh trai trên một trăm
trẻ sơ sinh gái được sinh ra. Tỉ lệ này được xem là bình thường khi có 105 đến
108 bé trai được sinh ra so với 100 bé gái, bởi vì tỷ lệ chết ở trẻ trai thường
cao hơn trẻ gái một chút do vậy khi đến tuổi trưởng thành số nam và nữ sẽ
cân bằng nhau. Tỷ số sinh khi sinh có thể coi là một trong các chỉ số để đo vị
thế của người phụ nữ ở khía cạnh bất bình đẳng giới, tỷ số này cũng càng rõ
ràng nhận thấy đây là hậu quả của tư tưởng thích con trai hơn con gái và phá
thai có sự lựa chọn giới tính. Bất kỳ một sự thay đổi đáng kể nào của tỷ suất
này chênh lệch khỏi mức sinh học bình thường điều này phản ánh những can
thiệp có chủ định ở mức độ khác nhau đến mất cân bằng tự nhiên.
Việt Nam tỷ số giới tính khi sinh tăng rất nhanh trong những năm qua
được thể hiện như sau:
Bảng 2: Bảng số liệu : SRB ở Việt Nam trong những năm qua
(2005- 2009).
Năm điều tra
Nguồn
Thời gian
SRB
điều tra
2005
Điều tra dân số hàng năm
1/4/2005
106.0
2006
Điều tra dân số hàng năm
1/4/2006
110.0
2007
Điều tra dân số hàng năm
1/4/2007
111.6
2008
Điều tra dân số hàng năm
1/4/2008
112.1
2009
Điều tra dân số hàng năm
1/4/2009
110.5
2. Bất bình đẳng giới trong chính trị:
7
Ngày nay người phụ nữ không chỉ lo việc bếp núc mà phải đi ra ngoài
làm việc, cuộc sống năng cao thì cả chồng cả vợ mới có thể đủ khả năng
chăm sóc gia đình và ni nấng con cái. Tại công sở, người phụ nữ nếu mà
được những chức vụ cao, những chức vụ khá quan trọng, thì vấn đề giới tự
nhiên bị đặt ra như một rào chắn, hay một vấn đề mà người phụ nữ đó phải
phấn đấu để vượt qua. Để khẳng định được mình trong vị trí lãnh đạo và quản
lý thì thứ nhất bản thân những phụ nữ đó phải có năng lực, phải có trình độ,
được đồng nghiệp tín nhiệm. Thực tế hiện nay nhiều phụ nữ có năng lực và
trình độ . Nam giới họ cũng khẳng định về năng lực và trình độ đó. Tuy nhiên
do quan niệm cho rằng phụ nữ lãnh đạo thì hiệu quả sẽ khơng cao bằng nam
giới, nên tỷ lệ phụ nữ cso chức vụ cao vẫn còn hạn chế được thể hiện dưới các
bảng số liệu sau đây.
Bảng 3: Tỷ lệ phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân các cấp.
Khóa 1994- 2004
Khóa 2004- 2011
Các cấp
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Tỉnh/ Thành phố
22,33
76,67
23,8
76,2
Quận/ huyện
20,12
79,88
23,2
76,8
Xã/ phường
16,56
83,44
20,1
79,9
(Nguồn : Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam , 2004).
Bảng 4: Tỷ lệ chủ tịch, phó chủ tịch hội đồn nhân dân các cấp:(%)
Nhiệm kỳ 1994- 2004
Chức danh
Nhiệm kỳ 2004- 2011
Cấp
Cấp
Cấp
Cấp
Cấp
Cấp
tỉnh
huyện
xã
tỉnh
huyện
xã
Chủ tịch
1,64
5,46
3,46
1,56
3,92
4,09
Phó chủ
8,19
11,42
5,57
26,56
19,64
10,61
tịch
8
Bảng 5: Tỷ lệ nữ cán bộ trong UBND các cấp chia theo giới tính (%).
Các cấp
Nhiệm kỳ 1999- 2004
Nhiệm kỳ 2004- 2011
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Tỉnh/ thành phố
6,4
93,6
8,61
91,39
Quận/ huyện
4,9
95,1
6,40
93,60
Xã / phường
4,54
95,46
3,99
96,01
(Nguồn: Báo cáo tình hình bình đẳng giới trong quy hoạch, tuyển
dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, Bộ nội vụ).
Tỷ lệ cán bộ, cơng chức của nước ta cịn thấp so với nam giới, hiện tỷ
lệ nữ giới trong Quốc hội Việt Nam nhiệm kỳ 12 này chiếm 25,8% với 127
đại biểu. Điều này phản ánh cơ hội phấn đấu trong công việc của phụ nữ
tahasp hơn rất nhiều so với nam giới, từ tình hình thực tế đã cho thấy sự bất
bình đẳng vẫn cịn tồn tại trong hoạt động chính trị. Nhưng so với các nước
khác ở khu vực Đông Á, Thái Bình Dương, Việt Nam có tỷ lệ đại biểu nữ
trong Quốc hội cao nhất.
3. Bất bình đẳng giới trong giáo dục:
Bất bình đẳng giới trong giáo dục làm tăng chất lượng nguồn nhân lực
trung bình của xã hội. Bất bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh hưởng tích
cực đến chất lượng nguồn nhân lực của tương lai. Khi mức độ bất bình đẳng
trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên
và khi trình độ nhận thức của phụ nữ trong gia đình được cải thiện, số lượng
và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối với con cái sẽ được cải thiện trực tiếp
thông qua sự dạy dỗ cảu người mẹ cũng như khả năng thuyết phục hoặc
quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều cho giáo dục đối với con cái.
Ngồi ra trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trị quyết định trong việc
chăm sóc và dinh dưỡng đối với con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm
cho chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung
bình của tồn xã hội sẽ nâng lên.
9
Tại Việt Nam Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với
nam giới trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Ngân sách nhà
nước chi cho giáo dục không ngừng tăng lên: Năm 2002 chiếm 16,7%, đến
2008 lên 20% so với tổng ngân sách. Mức chi cho giáo dục của Việt Nam cao
ngang bằng với một sô nước phát triển. Kết quả của những ưu tiên này đã thu
hẹp khoảng cách giới và việc đầu tư vào con người đã góp phần làm cho Việt
Nam đạt được chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ số phát triển giới
(GDI) khá cao. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người biết chữ tăng lên
đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam- nữ trong tất cả các cấp bậc học
được thu hẹp. Về cơ bản Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt
giới ở các cấp học trước 2015. Có bốn loại hình giáo dục khơng chính quy,
chủ yếu dành cho người lớn, trong đó có phụ nữ. Các chương trình này đã tạo
nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với trước. Nhận thức
được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc biệt là vai trò giáo
dục đối với xã hội, ngành Giáo dục & Đào tạo đã thực hiện tương đối tốt về
vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ Giao dục & Đào tạo Đặng Huỳnh Mai
đã khẳng định vai trò lớn của giới nữ : “ Chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành,
giới nữ đóng vai trị đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp Giáo dục & Đào
tạo nước nhà”. Nhiều học sinh , sinh viên nữ tự khẳng định vai trị của giới
mình bằng cách tích cực hcoj tập và rèn luyện, đạt kết quả xuất sắc. Trong kỳ
thi tuyển sinh vào ĐH, CĐ nhiều thủ khoa là nữ. Còn trong kỳ thi tốt nghiệp,
nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân với thành tích xuất sắc. Ở bậc ĐH, CĐ
tỷ lệ sinh viên nữ đang có xu hướng tăng dần qua các năm và được thể hiện
cụ thể qua bảng số liệu dưới đây;
10
Bảng 6: Tỷ lệ học sinh, sinh viên nữ trong các trường ĐH, CĐ (%).
Bậc học
2004-2005
2005- 2006
2006-2007
Các trường ĐH
46,95
47,23
54,99
Các trường CĐ
50,98
53,09
53,88
Chung ĐH, CĐ
47,79
48,49
53,32
(Nguồn: Bộ Giáo dục & Đào tạo)
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện bình đẳng giới
trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo cũng có những mặt hạn chế như: việc tiếp
cận với giáo dục của trẻ em gái và phụ nữ dân tộc thiểu số ở các vùng sâu,
vùng xa cịn nhiều khó khăn và trở ngại hơn so với các em trai và nam giới, vì
phụ nữ ở những gia đình nghèo và những dân tộc thiểu số ít được đi học,
thường phải bắt đầu làm việc từ khi cịn nhỏ tuổi.
Có thể nói rằng bình đẳng giới trong giáo dục có tầm quan trọng to lớn
đối với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, có một nhà giáo dục đã viết rằng:
Giáo dục là một người đàn ông, ta được một gia đình, giáo dục một người phụ
nữ ta được cả thế hệ. Lợi ích trăm năm trồng người chính là xuất phát từ việc
bình đẳng giới trong giáo dục.
II. Góc độ nhận thức của nhà báo về vấn đề bình đẳng giới.
1. Nhận thức chung về vấn đề bình đẳng giới.
Việt Nam vấn đề bình đẳng giới là một trong những mục tiêu to lớn
của Đảng và nhà nước ta đã được khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết ,
chỉ thị của Đảng , trong hiến pháp qua các thời kỳ và đã được thể chế hóa
trong hầu hết các văn bản pháp luật, tạo cơ sở pháp lý , tạo điều kiện và cơ
hội trao quyền bình đẳng cho cả nam và nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Đặc biệt, ngày 29/11/2006 Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội
thơng qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Thủ tướng Chính phủ đã
11
ban hành chỉ thị số 10/2007/CT- TTg ngày 3/5/2007 về việc triển khai thi
hành Luật Bình đẳng giới ; Nghị định số :70/2008/NĐ-CP ngày 4/6/2008 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới; Nghị định số :
48/NĐ-CP ngày 19/5/2009 quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng
giới .Trong đó quy định cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới là Bộ
Lao động thương binh xã hội .
Quốc hội đã phân công Ủy ban các vấn đề xã hội của quốc hội là cơ
quan chịu trách nhiệm thẩm định về lồng ghép giới trong các văn bản quy
phạm pháp luật.
Trong những năm qua cơng tác bình đẳng giới ở nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận. Ở tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội đã có sự tham gia của cả nam và nữ vào cơ quan quản lý, lãnh đạo
các cấp trong bộ máy nhà nước.
Tỉ lệ thất nghiệp của lao động nữ trong độ tuổi lao động ở khu vực
thành thị giảm xuống còn 5,29%. Tỷ lệ nhập học và tốt nghiệp của học sinh
nam và nữ trong tất cả các cấp bậc học gần như tương đương, tỉ lệ mù chữ ở
nam và nữ đã giảm đáng kể. Tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách
khám chữa bệnh cho người nghèo, huy động mạnh mẽ các nguồn lực khác
trong xã hội đã góp phần đưa tØ lệ phụ nữ được tiếp cận với các dịch vụ y tế
lên hơn 90%. Trên 50% số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ
chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo , 45% phụ nữ được vay vốn từ
ngân hàng chính sách xã hội đã góp phần mạnh mẽ trong thành quả giảm
nghèo ở Việt nam.
Theo đánh giá của ngân hàng thế giới, Việt Nam là một trong những
nước dẫn đầu thế giới về tỉ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là quốc
gia đạt được sự thay đổi đổi nhanh tróng nhất về xóa bỏ khoảng cách giới
trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á(mục tiêu thứ 3 trong 8 mục tiêu thiên
niên kỷ).
12
Tuy nhiên với nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác bình đẳng giới
vẫn cịn những hạn chế bất cập: ngun tắc bình đẳng giới chưa được cụ thể
hóa tồn diện và triệt để trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, một
số quy định được ban hành nhưng thiếu chế tài, biện pháp , nguồn lực và cơ
chế đủ mạnh để bảo đảm thực hiện. Chênh lệch về tỉ lệ nam nữ tham gia quản
lý, lãnh đạo ở các cấp khá cao(phụ nữ chưa bằng 1/3 nam giới). Tỉ lệ nữ là
lao động phổ thông và công nhân chưa qua đào tạo cao hơn nam giới 1,5 lần.
Lao động nữ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chỉ bằng 42% so với lao
động nam. Thu nhập bình quân của lao động nữ bằng khoảng 79% lao động
nam.
Việc chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa được quan tâm đầy đủ. Cơng
việc gia đình vẫn được coi là công việc không được trả công và phần lớn đều
do phụ nữ đảm nhận. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn cịn nặng nề.Tình
trạng ngược đãi, bạo lực, bn bán phụ nữ và trẻ em gái vẫn tồn tại.
Thực hiện nghị quyết số 11 /NQ-TW của TW Đảng về công tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Tổng Liên đồn LĐVN đã xây dựng
chương trình hành động số 190 /CTr-TLĐ ngày 30/1/2008 . Riêng năm 2007
và 2008, Ban Nữ công TLĐ, với chức năng tham mưu giúp BCH, ĐCT TLĐ
những vấn đề về giới, bình đẳng giới, cơng tác vì sự tiến bộ phụ nữ, thơng qua
các dự án do quốc tế tài trợ và chương trình hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ đã
tổ chức một số lớp tập huấn, hội thảo về giới, lồng ghép giới trong hoạt động
cơng đồn, trong tun truyền về chính sách, trong cơng tác dân số, kế hoạch
hố gia đình… thu hút hơn 1000 lượt cán bộ tham gia .
Đã có sự chuyển biến quan trọng ở các lớp tập huấn, hội thảo về bình
đẳng giới. Nếu trước đây cịn có quan niệm vấn đề giới, bình đẳng giới là của
chị em nên hầu hết chỉ có cán bộ nữ tham dự thì nay đối tượng tham dự đã có
cả nam giới, cán bộ lãnh đạo cơng đồn. Một số lớp đã có cán bộ quan lý, đại
diện người sử dụng lao động tham dự. Việc cử đại biểu nam giới tham dự đã
giúp cho các hội thảo về giới, bình đẳng giới thu được những thành cơng
13
bước đầu. Thông qua các hội thảo, tầm quan trọng của vấn đề thực hiện bình
đẳng giới đã được thừa nhận.
Vấn đề giới có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động với những cấp độ
khác nhau, vì vậy cần nâng cao trách nhiệm cá nhân, tổ chức trong việc
nghiên cứu các kỹ năng lồng ghép vấn đề giới vào trong các chương trình, kế
hoạch và hoạt động của CĐ.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả bước đầu , nhưng vẫn cịn nhiều
khó khăn bất cập cho hoạt động này, thể hiện trên các vấn đề sau: Nhận thức,
thái độ và hành vi mang tính định kiến giới cịn tồn tại ngay trong cả cán bộ
công chức. Khoảng cách giữa những quy định của pháp luật nói chung và
pháp luật về bình đẳng giới nói riêng với việc thực thi trên thực tế cịn tồn tại
khá lớn. Thiếu thơng tin, dữ liệu tách biệt giới tính và trách nhiệm thực hiện
lồng ghép giới chưa được quán xuyến đầy đủ; thiếu các hướng dẫn mang tính
kỹ thuật để hình thành kỹ năng cho việc lồng ghép giới. Nhiều cán bộ vẫn
lúng túng trong việc lồng ghép giới vào các lĩnh vực đang quản lý hoặc đang
thực hiện triển khai bình đẳng giới có hiệu quả, cần: Đẩy mạnh và đa dạng
hố các hình thức tun truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới, bình
đẳng giới. Mở rộng đối tượng tuyên truyền, từ nam giới, đến nữ giới, đến cán
bộ cơng đồn, cán bộ cơng chức, đại diện người sử dụng lao động… Tăng
cường mở các lớp tập huấn về kỹ năng lồng ghép giới cho cán bộ CĐ, cán bộ
lãnh đạo, quản lý và đại diện người sử dụng lao động đề đưa được vấn đề giới
vào trong kế hoạch đào tạo , bồi dưỡng, trong quy hoạch cán bộ, trong các
văn bản báo cáo đánh giá, trong xây dựng, giám sát kiểm tra chính sách pháp
luật, trong các cuộc họp …, nâng tỉ lệ nữ trong các hoạt động, trong các cuộc
họp, trong các tổ chức , bộ máy của cơ quan , đơn vị nói chung, nâng tỉ lệ
nam trong các hoạt động về giới nói riêng…Phối hợp với các bộ, ban, ngành
liên quan đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới và các chính sách liên quan đến lao động nữ. Tranh thủ
sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế để tăng cường việc học tập, trao đổi kinh
14
nghiệm với bạn bè quốc tế cũng như tranh thủ sự ủng hộ về kinh phí để tổ
chức các hoạt động về giới, bình đẳng giới.
2. Vấn đề bình đẳng giới dưới góc nhìn của các nhà báo.
Họ là những nhà báo đang hoạt động tích cực mang thơng điệp vấn đề
bình đẳng giới đến cơng chúng thơng qua các loại hình như báo mạng, báo in,
báo truyền hình, báo phát thanh…
Một số nhà báo có cái nhìn mới, lạ, độc đáo trước vấn đề bình đẳng
giới ở nước ta hiện nay. Vì họ đã và đang sẽ tham gia vào việc truyền thông
về vấn đề này sâu rộng trong cả cộng đồng người với việc họ viết và tìm hiểu
chung về bình đẳng giới.
a. Đánh giá chung của các nhà báo về vấn đề bình đẳng giới.
Một số nhà báo họ đã có cái nhìn chung về vấn đề bình đẳng giới hiện
nay ở nước ta như sau:
Sau nhiều cố gắng nỗ lực thay đổi quan niệm về “trọng nam, khinh nữ”
vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của đa số bộ phận nhân dân ta. Tuy nhiên trong
nhiều năm trở lại đây vấn đề trên đang có những chuyển biến tích cực. Cụ thể
tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” đã khơng cịn tồn tại trong một bộ phận nhân
dân nhờ vào các hình thức tuyên truyền, nâng cao ý thức cũng như nhận thức
của người dân. (pvấn sâu 1)
Ở nhiều vùng quê, tuy còn rất nghèo nhưng người dân đã tự ý thức
được việc “gái hay trai cũng đều là con”, đó là thành cơng của cơng tác tuyên
truyền thay đổi suy nghĩ và thói quen của nhân dân ta. Tuy nhiên nói vậy
khơng phải là tư tưởng “trọng nam khinh nữ” ở nước ta đã được hoàn tồn
xóa bỏ. Vẫn cịn nhiều nơi, ngay cả ở những khu dân cư đông đúc, tập trung
nhiều người, mặt bằng văn hóa tương đối cao vẫn có những người vẫn cịn tư
tưởng “trọng nam, khinh nữ”.
Ngun nhân thì có rất nhiều nhưng chủ yếu vẫn xuất phát từ việc:
nhiều người vẫn muốn có con trai để “nối dõi tơng đường” hoặc với tư tưởng
sau này về già để có người đỡ đần.
15
Vì vậy cơng cuộc tun truyền, phản ánh nhằm thay đổi nhận thức của
người dân về bình đẳng giới vẫn cần phải cố gắng nỗ lực để có những thay
đổi tích cực hơn nữa.
Ở nước ta vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan
tâm, xem là một động lực và mục tiêu phát triển của quốc gia. Tuy nhiên vấn
đề này hết sức khó khăn.
Chúng ta phải biết rằng: giới tính: tức là giới tình nam và giới tính nữ.
Bình đẳng giới tức là giữa giới tính nam và giới tính nữ được xã hội cơng
nhận như nhau. Có quyền bình đẳng như nhau. Đặc biệt có quyền tham gia
các hoạt động xã hội như nhau. Tuy nhiên việc đó là chuyện nhỏ. Bởi nó là
vấn đề rất đơn giản, nếu chỉ có như vậy thì khơng có gì để bàn. Cái quan
trọng làm nên sự bất bình đẳng giới đó là tư tưởng sinh con trai và con gái.
Đó là quan điểm có con nối dõi tông tương- (Phỏng vấn sâu 2)
Việt Nam là một nước có hệ thống chính sách tốt về giới. Ngồi Hiến
pháp, chúng ta cịn có Luật Hơn nhân và Gia đình (1986). Mới đây nhất, Luật
Bình đẳng giới (2007) và Luật Phịng, chống bạo lực gia đình (2008) là những
luật chun mơn về giới. Chính sách bình đẳng giới còn được đề cập trong
các luật khác và nhiều nghị quyết, chính sách riêng cho cơng tác phụ nữ.
Trong cuộc sống, bình đẳng giới đã được thực hiện ở mọi lĩnh vực từ
gia đình đến xã hội, làm thay đổi các cơ sở kinh tế, các quan niệm về đạo đức,
phong tục, tập quán theo "phụ quyền" và đặc biệt, làm thay đổi thân phận và
địa vị của phụ nữ Việt Nam.
Phụ nữ được tham gia vào hầu hết các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, được
luật pháp công nhận, có kinh tế độc lập và được nâng cao địa vị trong gia
đình. Một số phụ nữ đã vươn lên vị trí lãnh đạo kinh tế và lãnh đạo chính trị.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách cũng cịn nhiều điều bất cập, đáng
chú ý là vấn đề cống hiến và hưởng thụ giữa nam và nữ do tư tưởng phong
kiến "trọng nam, khinh nữ".
16
Giống như phụ nữ của nhiều quốc gia trên thế giới, cường độ lao động,
thời gian, hình thức lao động của phụ nữ Việt Nam cịn có chênh lệch với
nam giới. Các cuộc điều tra xã hội học trên cả hai vùng thành thị và nông thôn
đã đưa ra những chỉ báo đáng chú ý: Phụ nữ lao động vất vả trên cả hai
phương diện xã hội và gia đình. Ngoài ra, ở nhà họ phải "gánh" nhiều chức
năng như: Làm vợ, làm mẹ, người cấp dưỡng, thủ quỹ, thợ giặt, người lau dọn
nhà cửa, trông trẻ, cô giáo...
Những công việc tất bật từ sáng sớm đến đêm khuya đã hút kiệt sức lực
và thời gian của phụ nữ, khiến họ cịn rất ít hoặc khơng có thời gian để nghỉ
ngơi, hưởng thụ văn hóa. Điều này làm sự cách biệt giữa nam và nữ càng tăng
lên. Hiện nay vẫn còn những khoảng cách giữa luật pháp và thực tế (Pvấn
sâu 3).
b.
Vấn đề bình đẳng giới được triển khai theo
những hướng khác nhau
Vấn đề bình đẳng giới là một vấn đề hết sức nam giải khi mà nhiều tư
tưởng phong kiến vẫn tồn tại ở nước ta. Rõ ràng, một xã hội văn minh rất cần
bình đẳng giới. Người làm báo cần đưa những thơng tin về giải phóng phụ nữ
là một trong những mục tiêu to lớn của Đảng và nhà nước ta đã được khẳng
định trong các văn kiện, nghị quyết , chỉ thị của Đảng , trong hiến pháp qua
các thời kỳ và đã được thể chế hóa trong hầu hết các văn bản pháp luật, tạo cơ
sở pháp lý , tạo điều kiện và cơ hội trao quyền bình đẳng cho cả nam và nữ
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.- (Pvấn sâu 4).
Khi cầm bút viết về vấn đề này, bản thân tơi là một phóng viên hiểu
rằng đây là vấn đề khá nhạy cảm, bởi không phải ai cũng hiểu và thơng cảm,
vì vậy những bài viết về vấn đề này tơi phản ánh khá nhẹ nhàng. Ví dụ: đưa
vào trong bài viết của mình 2 hình ảnh để người đọc tự so sánh; một gia đình
chỉ có con gái nhưng họ lại rất hiếu thảo, học hành giỏi dang-ngược lại một
gia đình tuy có con trai nhưng chơi bời lêu lổng, nghiện hút… đó là hai trong
17
nhiều hình ảnh để người đọc nhận ra rằng trong vấn đề này họ cần phải có cái
nhìn cơng bằng hơn và sáng suốt hơn.(pv sâu1)
c. Quan điểm chung của các nhà báo báo về vấn đề bình đẳng giới.
Như trên đã trình bày, bởi vì đây là vấn đề tương đối nhạy cảm của xã
hội, vì vậy cho nên không phải trường hợp nào người viết cũng nên bày tỏ
quan điểm của mình trong bài viết. Với những bài viết mang tính chất tun
truyền thì cần phải nhẹ nhàng khéo léo để vấn đề tự nói lên ý đồ của tác giả.
Tuy nhiên, cũng cần có những vấn đề mà bản thân người viết cần phải bộc lộ
các quan điểm của mình trong bài để lên án mạnh mẽ vấn đề đó. Ví dụ trong
việc bạo hành gia đình, cần đến tiếng nói của xã hội thì người viết cần phải
hơn lúc nào hết ra sức bảo vệ cho người phụ nữ-đối tượng bị bạo hành (Pvấn
sâu1).
Khi viết bài liên quan đến chủ đề bình đẳng giới, mất cân bằng giới,
quan điểm của bài viết của nhà báo cần phải phù hợp với những quy định về
bình đẳng giới và mất cân bằng giới trong Hiến pháp của Việt Nam. Đảng và
Nhà nước ta coi là một động lực và mục tiêu phát triển quốc gia, được ghi
nhận trong Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 và được khẳng định trong Hiến
pháp sửa đổi năm 1992 (Điều 63) (Pvấn sâu 4).
d. Kỹ năng cần thiết của nhà truyền thông về vấn đề bình đẳng giới.
Bất cứ một nhà báo nào đi chăng nữa, trước khi làm một việc gì đó đều
có sự suy tính và xem xét một cách kỹ lưỡng. Trước hết chúng ta phải biết
rằng, sự tuyên trun của nhà báo chính là tác phẩm của mình trên mặt báo.
Để tuyên truyền tốt thì bản thân nhà báo đó phải tạo ra một tác phẩm có hiệu
ứng xã hội. Tức là tác phẩm ấy phải đón nhận được sự phản hồi của đọc giả.
Chúng ta phải biết rằng, có những nhà báo viết cả đời chẳng bao giờ được đọc
giả phản hồi. Dù tác phẩm ấy là khen hay chê. Tức có nghĩa là bài đó khơng
hề đủ lực để “ gãi ngứa” đên chông chúng. Cho nên muốn tuyên truyền tốt
vấn đề ấy trên báo chỉ có thể là tác phẩm, tác phẩm và tác phẩm. Có nghĩa
rằng chúng ta tun truyền cơng chúng ngay trên tác phẩm của mình. Nhà báo
18
khi viết bài phải có tình định hướng. Vì nhà báo là người định hướng nên vai
trò của nhà báo rất quan trọng. Kỹ năng nắm bắt và phân tích vấn đề của nhà
báo phải cực kì là cao. Điều đó có nghĩa là tính vấn đề và khả năng định
hướng, phân tích vấn đề của nhà báo phải làm cho công chúng tâm phục khẩu
phục. Chỉ khi nào những luận điểm của nhà báo đưa ra tác động đến cơng
chúng, và được cơng chúng đón nhận và tiếp nhận vận dụng trong đời sống
thì khi ấy đã khẳng định sự thành công của nhà báo.
Tất nhiên nhà báo trước khi tuyên truyền một vấn đề nào trên báo cần
xem xét nhiều khía cạnh. Có thế cái này nói ra sẽ rất tốt với người này, nhưng
lại động đến lòng tự ái của người kia. Do đó nhà báo phải ln ln phải
“đứng trong lịng sự kiện” và ln ln “đặt mình trong lịng sự kiện”. Chỉ có
như vậy nahf báo mới viết được một tác phẩm công tâm nhất trên lập trường
của người cầm ngịi “bút cơng lý”. Đó là những kỹ năng cần thiết với một nhà
báo.(phỏng vấn sâu 2)
e. Xu hướng chính đề cập đến vấn đề bình đẳng giới hiện nay.
Phần lớn những bài viết định kiến về giới hiện nay để hướng đến bình
đẳng về giới đều theo 2 xu hướng. Hoặc là lên án các hủ tục, phân tích chứng
minh những sai lầm của hủ tục đó thơng qua các nhân chứng sống; hoặc là nêu
bật sự tiến bộ, hạnh phúc của những gia đình sinh con một bề để lấy dẫn chứng
thay đổi quan điểm cũng như suy nghĩ của người đọc (Phỏng vấn sâu 1).
Xu hướng viết về bình đằng giới thường thơng qua một bài phóng sự
ghi chép, hoặc nhân vật thật dám đứng lên nói về vấn đề tại địa phương. Cơ
bản là PV hiện giờ thường khi viết về BĐG thích viết theo dạng PS, như thế
sẽ đưa được tồn cảnh bức tranh + thêm nhiều câu chuyện có thật tác động
tới xã hội.(phỏng vấn 5).
Cái xu hướng mà chúng ta đang nói ở đây chính là những bài báo nói
đến cảnh chồng đánh vợ thế nào? Con hành hung bộ mẹ ra sao và ngược lại.
Điều này đã tạo ra một hiệu ứng tốt cho xã hội lên án. Tuy nhiên nếu cứ như
vậy thì khơng nên. Chúng ta phải có những bài viết về việc ca ngợi, biểu
19
dương sự hi sinh của vợ đối với chồng, và ngược lại. Đặc biệt là nên viết về
những có liên quan đến hạnh phúc gia đình thì tốt hơn (phỏng vấn sâu 2)
Xu hướng báo chí đề cập đến bình đẳng giới hiện này chủ yếu là đưa tin
về bạo lực gia đình. Hay như những bài viết tường thuật lạ sự việc. Chủ yếu
vẫn đang là lối viết giật gân câu khách, mục đích là giải trí. Chứ mà nói có
những bài bình luận, đánh giá của các chun gia thì ít lắm(phỏng vấn sâu 6).
Ở thời điểm hiện tai, báo chí đề cập nhiều đến vấn đề bình đẳng giới
nhưng có khơng ít những bài báo vơ tình sử dụng những ngôn ngữ, những chi
tiết mang màu sắc của định kiến giới ví dụ nam giới là phải mạnh mẽ, phải la
cà nhậu nhẹt, phụ nữ là phải nết na thuỳ mị, e lệ,... Điều này vơ tình làm sâu
sắc hơn định kiến giới
Tuy nhiên, thời gian qua, khơng ít những dự án truyền thơng về vấn đề
bình đẳng giới đã được thực hiện và có hiệu quả. Ví dụ như chộc thi viết về
vấn đề bình đẳng giới mang tên “Viết tiếp câu chuyện của Nora do VTV6
phối hợp với đại sứ quán Na- Uy tổ chức hay như những chương trình triền
hình có độ phủ sóng rộng như chương trình “Bắt đầu từ hơm nay” trên VTV6.
Như vây, một số nhà báo đã chia sẻ kinh nghiệm cũng như đặt ra những
vấn đề chung nhất của vấn đề bình đẳng giới. Những mặt đặt được nhằm hạn
chế bớt khoảng cách về bình đẳng giới ở Việt Nam tiến tới xu thế chung tất cả
mọi công dân nam, nữ đều bình đẳng. Những mặt hạn chế dần dần được khắc
phục, để giảm bớt tình trạng bất bình đẳng ở nước ta trong những năm tới đây.
3. Một số giải pháp hạn chế bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
a. Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Thứ nhất: Trọng nam khinh nữ là một tư tưởng trong đó coi nam giới là
quan trọng hơn phụ nữ, tồn tại nhiều nơi trên thế giới. Mặc dù hiện nay quyền
phụ nữ được công nhận nhưng tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ở một số
nước, đặc biệt là gắn liền với các tư tưởng tôn giáo và biểu hiện dưới nhiều
cấp độ khác nhau. Trải qua thời kỳ chi phối lâu dài của Học thuyết Nho giáo,
trong đời sống tinh thần cuả người Việt Nam là làm sao phải có con trai để
20