Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận cao học, tác động của cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại đến quan hệ sở hữu dưới chủ nghĩa tư bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.68 KB, 37 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giá trị và sức sống trường tồn của học thuyết Mác – Lênin được thể
hiện trong hàng loạt nguyên lý, quan điểm mà các nhà kinh điển đã nghiên
cứu, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội, gắn cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân với sự nghiệp đấu tranh giải phóng các dân
tộc và giải phóng nhân loại khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, bất cơng. Tất cả
những vấn đề đó đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sở hữu, quan hệ sở
hữu.
Vấn đề sở hữu là một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu
cả về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, vấn đề này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
trong nhiều tác phẩm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng
như của nhiều học giả tư sản khác. Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng
về lịch sử, trong tác phẩm “ Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, Mác và Ăngghen đã
chỉ ra rằng: chế độ sở hữu giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự vận động
và phát triển của xã hội lồi người. Nó là yếu tố cơ bản chi phối các yếu tố
khác của đời sống xã hội. Bản thân chế độ sở hữu cũng là một yếu tố động,
luôn luôn biến đổi. Khi chế độ sở hữu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi mọi
yếu tố khác trong cấu trúc xã hội và thay đổi toàn bộ chế độ xã hội. Mặt khác,
khi các yếu tố của đời sống xã hội thay đổi cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
quan hệ sở hữu của xã hội ấy. Về thực tiễn, vấn đề sở hữu luôn là vấn đề mấu
chốt, nó liên quan đến vấn đề nền tảng nhất - cơ sở kinh tế của một chế độ xã
hội. Bởi vậy, sự nhận thức đúng sai vấn đề này có ảnh hưởng trực tiếp và
mạnh mẽ tới việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội - chính trị của một
quốc gia, nhất là quốc gia đó đang trong thời kỳ chuyển đổi, nó có tác động
thúc đẩy sự phát triển hay suy vong của một đất nước.

1


Ngày nay "Vấn đề sở hữu" là đối tượng nghiên cứu của nhiều mơn


khoa học xã hội với các góc độ tiếp cận khác nhau, như: Kinh tế chính trị, Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật; Luật dân sự; Luật hơn nhân và gia đình;
Luật doanh nghiệp; Luật đất đai; Kinh tế mơi trường vv...
Đây cịn là vấn đề quan tâm có tính chất sống cịn của mọi giai cấp, mọi
tổ chức và cá nhân: Sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết
định địa vị thống trị xã hội của giai cấp cầm quyền; Sở hữu là cơ sở kinh tế và
là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền năng pháp lý trên đó.
Vì những lý do ấy, vấn đề sở hữu luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của
các nhà nghiên cứu lý luận nói riêng, cũng như của dư luận xã hơi nói chung.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại diễn ra từ thập niên 70
của thế kỷ XX trên nền tảng phát triển của khoa học kỹ thuật trong các giai
đoạn trước đó khơng những tạo ra những thành tựu cơ bản của khoa học tự
nhiên, khoa học – kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn; trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp của xã hội, rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học
và ứng dụng…, mà còn tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống lồi
người, trong đó có quan hệ sở hữu.
Ảnh hưởng của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đối với quan hệ
sở hữu được thể hiện trên phạm vi toàn thế giới. Đối với chủ nghĩa tư bản, sức
ảnh hưởng ấy càng sâu sắc và rõ nét hơn.
Chủ nghĩa tư bản ra đời cách đây hơn 500 năm và đã có ít nhất ba lần
thay đổi lớn. Vào giữa thế kỷ thứ XVIII, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật
lần thứ nhất nổ ra, chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và thương nghiệp chuyển
thành chủ nghĩa tư bản công nghiệp và tự do cạnh tranh. Cuối thế kỷ thứ XIX,
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai xuất hiện, chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền tư nhân. Từ sau cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới vào những năm 30 của thế kỷ XX và rõ nhất là
sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với cuộc cách mạng khoa học công
nghệ, chủ nghĩa tư bản độc quyền tư nhân đã chuyển thành chủ nghĩa tư bản
2



độc quyền nhà nước. Như vậy, chúng ta có thể thấy, lịch sử hình thành và
phát triển của chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ tách rời, độc lập với những tiến
bộ về khoa học kỹ thuật của con người. Những cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đã trở thành điểm tựa, làm đòn bẩy cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất tư bản chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa tư bản tiến dần lên những nấc thang cao
hơn, với những hình thức hồn thiện hơn, thích ứng với những điều kiện sản
xuất và xã hội do chính những cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đem lại.
Việc tìm hiểu nội dung, cơ chế hoạt động của các cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật và tác động của nó đến chủ nghĩa tư bản cũng như những bước
thích ứng của chủ nghĩa tư bản qua mỗi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là
một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì lẽ đó, em lựa chọn đề
tài “ Tác động của cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại đến quan hệ sở
hữu dưới chủ nghĩa tư bản” với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về mối quan hệ
tác động lẫn nhau giữa cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại và quan hệ sở
hữu dưới chế độ tư bản. Qua đó, em mong muốn phần nào lý giải được tại sao
khoa học kỹ thuật là yếu tố có ý nghĩa then chốt đối với chủ nghĩa tư bản,
đồng thời cắt nghĩa được tại sao chủ nghĩa tư bản vẫn chưa bị tiêu vong (như
hồi đầu thế kỷ XX Lênin dự đoán), hơn nữa nó cịn phát triển rất mạnh mẽ
đến tận ngày nay và khiến người ta cảm thấy sức sống của nó còn rất sung
mãn, chưa biết đến bao giờ mới vơi cạn.
Mặc dù người viết cũng đã rất cố gắng tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề ở
nhiều khía cạnh khác nhau nhưng đây là một vấn đề lớn mang tầm cỡ quốc
gia, quốc tế. Do vậy, bài tiểu luận chắc hẳn rằng sẽ khơng tránh khỏi những
thiếu sót. Mong rằng các Thầy, Cô giáo giúp đỡ em nhiều hơn nữa để trong
những đề tài sau, em có thể nghiên cứu tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

3



2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
2.1 Mục đích
Đề tài trước hết nhằm giúp cho chúng ta có một sự hiểu biết sâu sắc và
có một tầm nhìn tổng thể chủ nghĩa tư bản, cách mạng khoa học kỹ thuật qua
các giai đoạn, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vào cách mạng khoa học kỹ thuật
lần thứ ba. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tác động của cách mạng khoa
học kỹ thuật hiện đại đến quan hệ sở hữu dưới chủ nghĩa tư bản. Đề tài cũng
góp phần giúp chúng ta củng cố niềm tin, lý tưởng vào Đảng, vào con đường
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, không ngừng nâng cao cảnh giác với các thế lực
thù địch đang âm mưu chống phá Nhà nước, chống phá cách mạng Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ
Trên cơ sở đó đề tài tập trung giải quyết hai nhiệm vụ chính:
Thứ nhất đề tài chỉ rõ chủ nghĩa tư bản, cách mạng khoa học kỹ thuật là
gì và các giai đoạn phát triển của chúng như thế nào.
Thứ hai đề tài phân tích mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản
với cách mạng khoa học kỹ thuật. Trong đó, tập trung vào tác động của cách
mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đến quan hệ sở hữu dưới chủ nghĩa tư bản.
3. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu vấn đề.
Đề tài nghiên cứu dựa trên những nguyên lý chung của kinh tế học
chính trị Mác – Lênin về quan hệ sản xuất, trong đó nhấn mạnh đến mối quan
hệ biện chứng giữa cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại và quan hệ sở hữu
dưới chủ nghĩa tư bản.
Bên cạnh đó đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
khác như: Phân tich, tổng hợp, lịch sử, so sánh, liên hệ thực tiên…trên cơ sở
nghiên cứu các tài liệu, sách báo và thực tiễn.
4. Đóng góp mới của đề tài.
Trên cơ sở chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng khoa học kỹ
thuật hiện đại và chủ nghĩa tư bản, người viết nhấn mạnh vào tác động của


4


cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đến quan hệ sở hữu dưới chủ nghĩa tư
bản.
Đề tài nêu bật được thực trạng của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn
hiện nay, đồng thời đóng góp quan trọng là chỉ ra sự thích nghi mau lẹ của
chủ nghĩa tư bản hiện nay, cũng như bản chất của “sự thay đổi” ấy trong quan
hệ sở hữu của chủ nghĩa tư bản.đồng thời, đề tài cũng chỉ ra con đường tất
yếu mà xã hội sẽ phát triển đi lên, đó là con đường chủ nghĩa xã hội, với một
trong những đặc trưng nổi bật là sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất.
5. Kết cấu đề tài
Nội dung đề tài gồm hai chương chính:
Chương I, Cơ sở lý luận về chủ nghĩa tư bản, cách mạng khoa học kỹ
thuật và mối quan hệ biện chững giữa chúng với nhau.
Trong đó:
1. Sở hữu.
1.1. Khái niệm Sở hữu.
1.2. Chế độ sở hữu.
1.3. Quan hệ sở hữu.
1.4. Đối tượng sở hữu.
1.5. Trình độ sở hữu.
1.6. Chủ thể sở hữu.
1.7. Các hình thức sở hữu.
2. . Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại
2.1. Các giai đoạn phát triển của Cách mạng khoa học kỹ thuật.
2.2. Tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật đến chủ nghĩa tư bản.
2.2.1. Cuộc cách khoa học kỹ thuật lần I.
2.2.2. Cuộc cách khoa học kỹ thuật lần II.
2.2.3. Cuộc cách khoa học kỹ thuật lần III.


5


Chương II, Sự biến đổi của quan hệ sở hữu dưới tác động của cách
mạng khoa học kỹ thuật hiện đại trong chủ nghĩa tư bản.
1. Đối tượng sở hữu.
2. Chủ thể sở hữu.
3. Cơ cấu hình thức sở hữu.
4. Bản chất thực của quan hệ sở hữu dưới chủ nghĩa tư bản ngày nay.

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận về chủ nghĩa tư bản, cách
mạng khoa học kỹ thuật và mối quan hệ biện chững giữa
chúng với nhau.
1.Sở hữu.
1.1 Khái niệm sở hữu.
Theo C. Mác, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn
cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đồng thời nảy sinh và
trở nên gay gắt, nổi bật là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đồ sộ, xã hội
hóa rộng lớn và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản.
Chính ma lực của lợi nhuận và “lịng tham khơng đáy” khiến các nhà tư bản
chạy đua “bóp nặn thị trường”, tìm mọi cách bóc lột thậm tệ giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Vì lẽ đó, trong “Tun ngơn Đảng Cộng sản”
(năm 1848), C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra khẩu hiệu chiến đấu và cũng
là mục đích cao cả của giai cấp vơ sản: “Những người cộng sản có thể tóm tắt
lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(

C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t
4, tr 616). Cần thấy rằng, trong quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít, mục
tiêu đấu tranh của giai cấp vô sản không phải là nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu
nói chung, mà chỉ là xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản - một chế độ mà từ đó đẻ ra
nạn người bóc lột người, một chế độ “dùng sự chiếm hữu đó để nô dịch lao
động của người khác”. Phải hiểu đúng như vậy mới không mâu thuẫn với luận
điểm mà các ông đã nêu trước đó: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản khơng
phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”(
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sdd, t 4, tr 615).

7


Theo quan điểm của Mác xít, khái niệm gốc của sở hữu là "Sự chiếm
hữu". Chiếm hữu là phạm trù khách quan, tất yếu, vĩnh viễn, là điều kiện
trước tiên của hoạt động lao động sản xuất để tồn tại và phát triển con người.
Chủ thể chiếm hữu là cá nhân, tập thể và xã hội. Đối tượng của chiếm hữu từ
buổi ban đầu của lồi người là cái có sẵn trong tự nhiên cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Các chủ thể chiếm hữu không chỉ chiếm hữu tự nhiên
mà cả xã hội, tư duy, thân thể, cả các vơ hình và cái hữu hình. Trong kinh tế,
chiếm hữu có mặt cả trong sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Có thể nói, sở hữu là hình thức xã hội - lịch sử nhất định của sự chiếm
hữu, cho nên sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính chất lịch sử cụ thể
của con người, những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất và phi sản xuất.
Sở hữu luôn luôn gắn liền với vật dụng - đối tượng của sự chiếm hữu. Đồng
thời sở hữu khơng chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa con
người với nhau về vật dụng.
Xét một cách khoa học, sở hữu là quan hệ xã hội giữa người với người
trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải xã hội. Sở hữu không chỉ bao
gồm quan hệ con người chiếm hữu tư liệu sản xuất, của cải, mà điều cốt yếu

là đề cập đến quan hệ giữa người với người trong quá trình diễn ra sự chiếm
hữu đó. Người ta phân biệt hai loại sở hữu: sở hữu mang tính dân sự (sở hữu
nhà ở, đồ dùng cá nhân…) và sở hữu tư liệu sản xuất.
Quan niệm của C. Mác về sở hữu (tư hữu) với tư cách là nội dung cơ
bản, mang tính quyết định trong ba nội dung của quan hệ sản xuất, được trình
bày ở nhiều tác phẩm. Trong đó, có những tác phẩm viết riêng như “Tư bản”,
“Bản thảo kinh tế - triết học”( năm 1844); có những tác phẩm viết chung với
Ph. Ăng-ghen như“Hệ tư tưởng Đức”, “Tun ngơn của Đảng Cộng sản”...
Bên cạnh đó, có những tác phẩm riêng của Ph. Ăng-ghen, với các luận điểm
biểu hiện lập trường kiên định đấu tranh bảo vệ C. Mác về vấn đề “xóa bỏ chế
độ tư hữu”, như “Chống Đuy-rinh”, “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản”…
8


1.2 Chế độ sở hữu.
Theo quy luật thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử, sự phát triển của lực lượng sản xuất là
q trình khơng ngừng đổi mới và hồn thiện cơng cụ lao động, đổi mới cơng
nghệ, nâng cao trình độ người lao động, là q trình hình thành, phát triển
phân cơng lao động xã hội, chuyển từ lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân
lên lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay,
khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lao động trí tuệ ngày
càng đóng vai trị to lớn, lực lượng sản xuất đã mang tính quốc tế, q trình
chuyển biến đó ngày một rõ ràng hơn.
Phạm trù sở hữu khi được thể chế hố trở thành quyền sở hữu. Vì cơ sở
kinh tế đảm bảo cho sự thống trị về chính trị - tư tưởng là các quan hệ sở hữu
có lợi cho giai cấp thống trị nên giai cấp thống trị dùng một bộ phận của công
cụ pháp luật quy định về chế độ sở hữu để thể chế hố ý chí của giai cấp, hình
thành hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm quy định, củng cố và duy trì dự

tính và địa vị thống trị giai cấp. Vì vậy quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý.
Nó có nhiệm vụ xác lập và bảo vệ quyền của chủ sở hữu trong việc chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt đối tượng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Với tư cách là một chế định pháp luật, quyền sở hữu chỉ ra đời khi xã hội có
phân chia giai cấp và có Nhà nước. Cịn theo nghĩa hẹp, quyền sở hữu được
hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong những điều kiện nhất định (quyền
năng dân sự). Ngoài ra theo một phương diện khác quyền sở hữu là một quan
hệ pháp luật dân sự về sở hữu (có ba yếu tố: Chủ thể, khách thể, nội dung).
Quyền sở hữu được thực hiện thông qua cơ chế nhất định gọi là chế độ
sở hữu. Chế độ sở hữu được Nhà nước xác lập và được ghi nhận trong hiến
pháp. Nó chứa đựng hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu và cơ chế,
kiều kiện, thủ tục pháp lý để áp dụng, thực hiện các quy phạm đó. Cùng với
quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, các chế độ sở hữu cũng như các
9


hình thức sở hữu cũng thay đổi. Chế độ sở hữu có thể hiểu là quan hệ sở hữu
gắn liền với một chế độ chính trị xã hội nhất định.
Trong lịch sử phát triền của nhân loại, các chế độ sở hữu đã lần lượt
thay thế nhau: từ chế độ công hữu nguyên thuỷ đến chế độ chiếm hưu nô lệ,
phong kiến, chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và chế độ công hữu xã hội
chủ nghĩa. Tương ứng với các chế độ sở hữu đó là các chế độ chính trị xã hội
phù hợp.
Theo “Tun ngơn của Đảng Cộng Sản ” thì : “Chế độ sở hữu đã trải
qua những thay đổi liên tiếp, những cải biến liên tục trong lịch sử ”. Sở hữu
vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, là
hình thức xã hội có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Vì
vậy, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, sự phát triển của lực lượng sản
xuất khác nhau thì tương ứng với nó là một quan hệ sở hữu khác nhau. Do đó,

muốn nhận biết và phân biệt sự giống và khác nhau của các giai đoạn lịch sử
xã hội không thể bỏ qua vấn đề sở hữu.
Lịch sử phát triển của nhân loại cũng cho thấy, khơng có một chế độ
sở hữu nào là thuần nhất một hình thức sở hữu, mà nó là sự đan xen nhiều loại
hình, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, trong đó có một loại hình
sở hữu đóng vai trị chi phối, quy định bản chất của chế độ sở hữu trong từng
giai đoạn lịch sử. Xu hướng phát triển của nhân loại khơng phải đi đến chỗ
đơn nhất hố mà ngược lại, ngày càng đa dạng hố các hình thức sở hữu. Nếu
như trong xã hội nguyên thuỷ chỉ mới có cơng hữu ngun thuỷ thì ngày nay,
trong các nước đều đan xen rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Xu hướng
phát triển đó là tất yếu, phù hợp với q trình xã hơi hố của lực lượng sản
xuất. Lực lượng sản xuất có tính xã hội địi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải có
tính xã hội. Tính xã hội ở đây thể hiện trong tính đa dạng của nó. Chính tính
đa dạng đó mới tạo ra sự kết hợp tối ưu các yếu tố của lực lượng sản xuất.

10


1.3 Quan hệ sở hữu.
Quan hệ sản xuất là một trong những nội dung cơ bản của kinh tế chính
trị học. Nó là quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội. Trong quá trình sản xuất, con
người khơng chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên, mà cịn có
quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ có trong quan hệ tác động
lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và mới có sản xuất.
Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì
quan hệ sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức
xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa người và người trên ba mặt
chủ yếu. Đó là: quan hệ sở hữu,quan hệ tổ chức quản lý,quan hệ phân phối.
Thứ nhất là quan hệ sở hữu. Đây là quan hệ giữa người và người trong

việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Quan hệ sở hữu phản ánh
sự chiếm giữ tư liệu sản xuất và các sản phẩm tiêu dùng, nó biểu hiện qua mối
quan hệ vật - vật. Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội phát sinh, tồn tại
và phát triển trong quá trình chiếm hữu, mà khi xem xét dưới góc độ pháp lý
nó bao gồm 3 bộ phận cấu thành chủ thể, khách thể và nội dung.
Thứ hai là quan hệ tổ chức quản lý. Đây là quan hệ giữa nguời và người
trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho
nhau.
Thứ ba là quan hệ phân phối lưu thông. Đây là quan hệ giữa người và
người trong phân phối và lưu thơng sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác
động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định. Mặt
khác, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thơng cũng có tác
động trở lại quan hệ sở hữu.
Có thể nói, quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó khơng phải là
những quan hệ ý chí, pháp lý, mà là quan hệ giữa các hiện tượng kinh tế được
biểu hiện thành các phạm trù và quy luật kinh tế.
11


Con người không thể lựa chọn một quan hệ sản xuất nói chung và một
quan hệ sở hữu nói riêng một cách chủ quan duy ý chí. Kiểu quan hệ sản xuất
– quan hệ sở hữu này hay kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ sở hữu khác tùy
thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất xã hội. Mác và
Ăngghen đẫ từng khẳng định: “bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở
hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất
mới”.
Nói chung, sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
tạo ra phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất phải tùy thuộc vào lực lượng
sản xuất. Lực lượng sản xuất thay đổi dẫn tới mối quan hệ sản xuất cũng thay

đổi, nhưng quan hệ sản xuất cũng củng cố sự độc lập tương đối của nó và tác
động trở lại lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn tới
một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành lạc
hậu, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan hoặc
phát triển lực lượng sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với
trình độ của lực lượng sản xuất.
1.4 Đối tượng sở hữu.
Đối tượng sở hữu là vật, hệ thống những vật, sự vật hiện tượng mà con
người hướng tới để thiết lập quan hệ sở hữu vói nó. Đối tượng sở hữu trả lời
cho câu hỏi: sở hữu cái gì?
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, đối tượng sở hữu là những cái sẵn
có trong tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội nô lệ, cùng với sở hữu vật là sở hữu
người nô lệ. trong xã hội phong kiến, đối tượng sở hữu là tư liệu sản xuất (đất
đai, công cụ lao động...). Trong xã hội tư bản, đối tượng sở hữu không chỉ về
mặt hiện vật mà quan trọng hơn về mặt giá trị, mặt tiền tệ. Ngày nay, cùng
với sở hữu về mặt hiện vật và giá trị của tư liệu sản xuất, người ta chú trọng
nhiều đến sở hữu cơng nghiệp, sở hữu trí tuệ, giáo dục...

12


1.5 Trình độ sở hữu.
Trình độ sở hữu là trình độ con người trong việc xác lập mối quan hệ
sở hữu. trình độ sở hữu được thể hiện trên ba lĩnh vực. đó là: dư luận xã hội,
quy định về mặt pháp lý, và vấn đề sở hữu kinh tế.
1.6 Chủ thể sở hữu.
Trong “Bản thảo kinh tế - triết học”( năm 1844), C. Mác đã phân tích
và vạch rõ, chính chế độ tư hữu đã làm cho con người bị tha hóa, biểu hiện
trên hai phương diện:
Thứ nhất, sự tha hóa của người cơng nhân trong sản phẩm lao động

làm ra, nhưng lại không thuộc về họ; “Người công nhân càng tạo ra nhiều
hàng hóa, anh ta lại trở thành một hàng hóa càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm
càng tăng thêm giá trị thì thế giới con người càng mất giá trị”. Như vậy, người
công nhân làm ra càng nhiều vật phẩm thì số vật phẩm mà họ có thể chiếm
hữu được càng ít và họ bị chính sản phẩm do mình làm ra (tức tư bản) thống
trị càng mạnh mẽ.
Thứ hai, sự tha hóa của người cơng nhân biểu hiện trong hành vi sản
xuất và trong bản thân hoạt động sản xuất. Người công nhân lẽ ra “phát huy
một cách tự do nghị lực thể chất và tinh thần” của mình thì họ lại cảm thấy
mình đang “làm kiệt quệ thân thể của mình và phá hoại tinh thần của mình”.
Những sản phẩm do người cơng nhân làm ra thuộc về những người nắm giữ
tư liệu sản xuất là địa chủ và nhà tư bản. C. Mác cho rằng, đó là những người
có đặc quyền và ăn không ngồi rồi, “ở đâu cũng đều ở trên công nhân và định
pháp luật cho cơng nhân”. Ơng cịn gọi đó là “những người sở hữu”. Đây
chính là chủ thể sở hữu.
Cịn người cơng nhân, do khơng có sở hữu về tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt xã hội nên phải làm thuê để nhận một khoản tiền cơng ít ỏi, khơng
tương xứng với lao động đã làm cho những người sở hữu. Lao động của
người công nhân chịu sự chi phối của sự tích tụ, tích lũy tư bản. Vì vậy, lao

13


động của họ khơng thuộc về mình, mà thuộc về những người sở hữu là giai
cấp tư bản.
Trong quan điểm của C. Mác về tư hữu và xóa bỏ chế độ tư hữu, có thể
thấy khơng chỉ “những cơng nhân khơng có sở hữu” mới bị tha hóa, mà ngay
cả những người sở hữu - “người không phải công nhân” cũng bị tha hóa.
Song, khác với hoạt động tha hóa ở người cơng nhân, sự tha hóa của những
người sở hữu biểu hiện ra ở “trạng thái tha hóa”. Trạng thái tha hóa này được

C. Mác phân tích sâu sắc trong những phần viết về sự tích lũy tư bản chủ
nghĩa và về lợi nhuận của tư bản ở tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học
năm”( 1844) và nhất là ở tác phẩm“Tư bản”.
Như vậy, nghiên cứu của C. Mác về chế độ tư hữu đã chỉ ra rằng, người
lao động làm thuê bị hạ thấp ngang với máy móc, họ cảm thấy mình chỉ cịn
là “con vật”. Người sở hữu thì khơng lao động, cịn người lao động thì khơng
được quyền sở hữu, và xã hội vận động trong hai cực đối lập ấy. Vì vậy, chỉ
có xóa bỏ chế độ tư hữu mới giải quyết được sự đối lập trong xã hội, đồng
thời mới thực hiện được giải phóng con người, và đó chính là “hình thứcchính
trị của sự giải phóng cơng nhân”. C. Mác cũng chỉ rõ: Chủ nghĩa cộng sản
khơng xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà chỉ xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản”
- biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu
sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc
lột những người kia. Điều đó có nghĩa là, xóa bỏ tư hữu ở đây khơng phải là
xóa bỏ sở hữu mang tính chất cá nhân, mà là xóa bỏ tư hữu về tư bản, vì tư
hữu tư bản là cơ sở để bóc lột sức lao động của người khác.
Có thể nói, bản chất của quan hệ sản xuất là do các điều kiện sau đây
quyết định: thứ nhất là, tư liệu sản xuất thuộc về ai. Thứ hai là, người sản xuất
kết hợp với tư liệu sản xuất như thế nào. Chính tính chất và phương thức thực
hiện sự kết hợp đó là cách phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau của xã hội.
Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quy định mục đích của sản xuất, hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh, phương thức quản lý, cách thức phân phối sản
14


phẩm, quyết định cơ cấu giai tầng xã hội. Giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư
liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất và
phân phối sản phẩm xã hội. Giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản
xuất các giá trị vật chất thì giai cấp đó cũng nắm quyền quyết định đời sống
tinh thần của xã hội.

1.7 Các hình thức sở hữu.
Cơng hữu và tư hữu là hai hình thức sở hữu cơ bản trong quan hệ sản
xuất. Ở mỗi nước, cơng hữu và tư hữu có quy mô và phạm vi sở hữu khác
nhau, phụ thuộc vào trình độ lực lượng sản xuất và lợi ích của chủ sở hữu chi
phối.
Trước tiên là hình thức sở hữu tư hữu. Trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ, ở giai đoạn cuối, sau ba cuộc phân công lao động xã hội (lần thứ nhất:
ngành chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; lần thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi
công nghiệp; lần thứ ba: sự xuất hiện của tầng lớn thương nhân), năng xuất
lao động đã ngày càng nâng cao, con người có kinh nghiệm hơn trong lao
động,v.v... khiến cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Khi đó, xã hội có sản phẩm dư thừa. Cùng với đó, xã hội xuất hiện
những người chiếm đoạt của cải dư thừa đó và trở thành giàu có(tư hữu riêng)
và có quyền lực trong cộng đồng. Mặt khác, có những người khơng có của
cải, nghèo đói, thấp cổ bé họng, trở thành những kẻ bị áp bức, bóc lột, dưới
đáy xã hội ... Tất cả những yếu tố đó đã đẩy nhanh q trình phân hố các
tầng lớp trong xã hội. Giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh
giai cấp. Để cuộc đấu tranh giai cấp nằm trong vịng trật tự nhất định khơng
phá vỡ xã hội thì có một tổ chức đặc biệt ra đời, tựa hồ như đứng trên xã hội
và quản lý xã hội. Đó là Nhà nứơc. Mỗi nhà nước khác nhau lại có cách thức
tổ chức, quản lý các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Ở mỗi chế

độ xã hội khác nhau, hình thức sở hữu lại có những biểu hiện khác nhau.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nước chủ nơ duy trì
và bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã
15


hội ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nơ lệ là cơng cụ biết nói khơng được
xem là người). Trong giai đoạn này, trình độ tư hữu của cịn thấp nhưng tính

chất khắc nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối.
Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp trong xã hội phong kiến thể
hiện rõ ở chế độ"phong tước, cấp điền" của các vua chúa phong kiến. Nhà
nước và pháp luật phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh
chúa phong kiến đối với ruộng đất. Người nông dân hầu như không có hoặc
sở hữu rất ít tư liệu sản xuất trong tay mình.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong
kiến, quan hệ sở hữu tư sản đã xuất hiện và ngày càng phát triển. Đó là chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng
dư (do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không). Đây là
giai đoạn của trình độ tư hữu gắn với đặc trưng của xã hội tư bản. Chế độ tư
hữu được pháp luật tư bản chủ nghĩa quy định là thiêng liêng bất khả xâm
phạm.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Theo các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lê nin thì có hai phương thức q độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với những nước như Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nghèo, lạc hậu chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì nhất thiết
cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế với đa hình
thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân để sử dụng sức mạnh và ưu thế của
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá, nhằm tạo ra tiền đề xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Mặc dù vậy,
trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, sở hữu nhà
nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư
nhân nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quỹ đạo tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai là hình thức sở hữu cơng hữu, hay cịn gọi là chế độ sở hữu xã
hội về tư liệu sản xuất. Nói chung, khi tư liệu sản xuất khơng thuộc quyền sở
16



hữu toàn xã hội mà thuộc quyền sở hữu tư nhân thì sớm muộn hình thức sở
hữu đó cũng tạo nên mối quan hệ thống trị và phục tùng, sản xuất phục tùng
lợi ích làm giàu của giai cấp bóc lột. Đặc trưng chung nhất của những quan hệ
sản xuất nô lệ, phong kiến, tư sản là như vậy. Sở hữu công hữu không giống
như lý luận của các nhà học giả tư sản đã khẳng định. Trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và F. Ănghen đã nhấn mạnh "chủ nghĩa
cộng sản khơng xố bỏ của ai quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ
việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác".
Sự xuất hiện tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng
trong lịch sử lồi người. Bởi vì, đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa là tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu xã hội. Sự hình thành chế độ
cơng hữu về tư liệu sản xuất tạo ra mối liên hệ hợp tác tương trợ giữa những
người lao động đã thốt khỏi bóc lột, và sản xuất được tổ chức nhằm thỏa
mãn nhu cầu vật chất và văn hóa của mọi thành viên trong xã hội.
Nếu chế độ tư hữu là một phần tất yếu kinh tế gắn bó với một trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất thì chế độ cơng hữu, đến lượt nó
cũng trở thành một tất yếu kinh tế khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến
một trình độ nhất định, khi nền sản xuất xã hội đạt đến một trình độ văn hóa
cao. Bàn về hình thức sở hữu này, trong tác phẩm “ Những nguyên lý của chủ
nghĩa cộng sản”, Ăngghen đã khẳng định, không thể làm cho lực lượng sản
xuất hiện có tăng ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế
công hữu, cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô sản... sẽ chỉ có thể cải tạo
xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên một khối lượng
tư liệu sản xuất cần thiết cho mọi việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được
chế độ tư hữu.
Chúng ta cần phải phân biệt chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa (biểu
hiện tập trung của chế độ sở hữu xã hội), với chế độ sở hữu công, công của tất
cả các thành viên xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đối với mọi của
cải xã hội (khơng có sự phân biệt thành phần, khơng ai có đặc quyền đặc lợi,
17



mọi người đều bình đẳng, hành vi của mọi người do các quy phạm xã hội điều
chỉnh...).
Ngồi hai hình thức sở hữu cơ bản nói trên cịn có hình thức sở hữu hỗn
hợp. Nó xuất hiện tất yếu do yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất và quy
trình xã hội hố nói chung địi hỏi. Sở hữu hỗn hợp hình thành thơng qua hợp
tác liên doanh liên kết tự nguyện phát hành mua bán cổ phiếu v.v...

2. Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.
2.1. Các giai đoạn phát triển của Cách mạng khoa học kỹ thuật.
“Cách mạng khoa học kỹ thuật” không phải là một thuật ngữ duy nhất ,
xung quanh nó, tùy theo từng mức độ mà người ta đưa ra những khái niệm
khác nhau, như: “cách mạng công nghiệp”, “cách mạng khoa học kỹ thuật”,
“cách mạng khoa học cơng nghệ”… Trong đó chúng ta thấy:
“Cách mạng công nghiệp” là thuật ngữ do Ph.Ăngghen đưa ra để chỉ
q trình lao động bằng máy móc chiến thắng lao động chân tay, q trình hệ
thống cơng xưởng thay thế các công trường thủ công. Cách mạng công nghiệp
nổ ra trước tiên ở Anh từ những năm 60 của thế kỷ XVIII sau đó lan ra các
nước Âu- Mỹ khác và kết thúc vào giữa thế kỷ XIX. Về thực chất, cách mạng
công nghiệp chỉ đơn thuần là cuộc cách mạng về kỹ thuật lần I, chứ chưa phải
là một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật theo đúng nghĩa của nó. Bởi ở cách
mạng cơng nghiệp thì yếu tố khoa học chưa gắn liền với yếu tố kỹ thuật,
những phát minh, cải tiến của nó chủ yếu đều do chính những người trực tiếp
sản xuất phát minh ra do yêu cầu trực tiếp của sản xuất. Nhưng nhìn chung,
người ta đều thống nhất gọi cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật lần thứ Nhất.
Từ những thập niên cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đã nổ ra cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ Hai. Ở cuộc cách mạng này thì yếu tố khoa
học đã giữ mối liên hệ mật thiết với yếu tố kỹ thuật; những phát minh được

các nhà khoa học, bác học tìm ra từ trong phịng thí nghiệm, trung tâm nghiên

18


cứu, sau đó mới được ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Chính vì thế, cuộc
cách mạng này đã mang đúng nghĩa là một cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật, và cịn có tên gọi khác là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ
Hai.
Từ sau Chiến tranh thế giới II đến nay, thế giới bước vào cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật lần thứ Ba. Trước đây, người ta cũng chỉ gọi đơn
thuần cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật (lần III), với
ý nghĩa là những công cụ, giải pháp, kiến thức được sử dụng trong sản xuất.
Nhưng hiện nay thì hầu hết đều nhất trí gọi cuộc cách mạng kể từ sau Thế
chiến II đến nay là cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ. Trong đó, cách
mạng khoa học và cơng nghệ là q trình biến đổi những yếu tố chủ yếu trong
lực lượng sản xuất của xã hội được thực hiện nhờ vào vai trò dẫn đường của
khoa học trong chu trình khép kín: khoa học- cơng nghệ- sản xuất xã hội- con
người- môi trường.
Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật dù diễn ra với những nội dung
và mức độ khác nhau, nhưng chúng đều tác động sâu sắc đến đời sống xã hội,
làm thay đổi một cách nhanh chóng bộ mặt thế giới. Riêng với chủ nghĩa tư
bản, các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã tác động rất lớn đến quá trình
xác lập cũng như phát triển của nó, đưa chủ nghĩa tư bản khơng ngừng tiến
đến những nấc thang cao hơn.

2.2. Tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật đến
chủ nghĩa tư bản.
2.2.1. Cuộc cách khoa học kỹ thuật lần I.
Cuộc cách mạng công nghiệp- hay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật

lần thứ nhất thực chất là một cuộc cách mạng về kỹ thuật. Cuộc cách này diễn
ra trước hết ở nước Anh. Từ những năm 60 của thế kỷ XVIII thì cuộc cách
mạng công nghiệp bắt đầu được khởi động ở Anh. Tiêu chí quan trọng nhất
của cuộc cách mạng kỹ thuật lần này là máy móc thay thế cơng cụ thủ công.

19


Cuộc cách mạng này diễn ra trước hết từ lĩnh vực công nghiệp nhẹ, trong
ngành dệt sợi bông và nhanh chóng gặt hái được nhiều thành tựu.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất có tác động sâu sắc
đến chủ nghĩa tư bản. Trước hết, nó đã có tác dụng dọn sạch đường cho sự
thống trị toàn diện của chủ nghĩa tư bản. Những thành tựu của cuộc cách
mạng này đều được ứng dụng vào sản xuất, dẫn tới sự đột phá trong sản xuất,
tạo nên một khối lượng của cải đồ sộ bằng nhiều thế kỷ trước cộng lại, từ đó
khẳng định ưu thế kinh tế của của chế độ tư bản trước chế độ phong kiến.
Theo đó, cách mạng cơng nghiệp đã góp phần khẳng định chiến thắng của chủ
nghĩa tư bản, mà trước nhất là trên bình diện kinh tế. Như Mác đã khẳng định:
“Đây được coi là phát minh có ý nghĩa quốc tế đầu tiên. Nó được chế tạo ra
khơng chỉ cho một vài lĩnh vực, mà được áp dụng phổ biến cho mọi lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân. Chính động cơ hơi nước đã đẻ ra chủ nghĩa tư
bản.”. Vì sự ưu việt của máy móc đem lại và sự cám dỗ của lợi nhuận, các nhà
tư bản không ngừng mở rộng sản xuất theo chiều rộng một cách tràn lan, vơ
chính phủ, nên tính chất của chủ nghĩa tư bản thời kỳ này là chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh.
2.2.2. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần II.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần hai (hay cách mạng khoa học kỹ
thuật lần II) nổ ra vào cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX.
Cuộc cách mạng lần này được chuẩn bị bằng quá trình phát triển hàng trăm
năm của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở của nền sản xuất đại cơ khí và

bằng sự phát triển của khoa học gắn liền với kỹ thuật. Yếu tố quyết định của
cuộc cách mạng này là chuyển nền sản xuất trên cơ sở cơ khí sang nền sản
xuất điện- cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất. Nhờ
đó, đã tạo ra những ngành mới có tính khoa học, biến khoa học trở thành một
ngành lao động đặc biệt.
Tác động rõ nét nhất của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai
đến chủ nghĩa tư bản chính là việc nó đã làm cho chủ nghĩa tư bản chuyển
20



×