MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
qua hơn 20 năm đã giành được những thành tựu quan trọng về tăng trưởng kinh
tế, về những tiến bộ văn hóa xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; về sự ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, hệ thống chính trị được củng cố. Điều đó chứng tỏ sự đúng đắn về
đường lối đổi mới của Đảng, góp phần xây dựng một xã hội phát triển bền vững
trong điều kiện thế giới đang có nhiều biến đổi sâu sắc. Trải qua q trình khảo
nghiệm, tìm tịi; BCH TW các khóa từ sau Đại hội VI (1986) của Đảng đã
không ngừng cụ thể hóa, bổ sung, phát triển đường lối trên nhiều lĩnh vực.
Trong đó, lấy việc đổi mới hệ thống chính trị là việc làm cần thiết và quan trọng.
Việc làm này gắn với quá trình đảm bảo quyền lực chính trị thật sự thuộc về
nhân dân, từng bước hồn thiện và nâng cao trình độ nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa; trong đó trọng tâm là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các
bộ phận cấu thành hệ thống; với vấn đề cơ bản nhất là đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của hệ
thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao hiệu quả và
hiệu lực quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, để đảm bảo Đảng là hạt nhân lãnh
đạo, Nhà nước là tổ chức cốt yếu để thực thi quyền lực của nhân dân trong hệ
thống chính trị ở nước ta thì vấn đề mấu chốt nhất và cũng khó khăn nhất là đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Từ khi cầm quyền, đặc biệt trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi, Đảng
Cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ
máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước và thực tế đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Thành tựu đó đã thể hiện sự trưởng thành, phát
triển của Nhà nước ta trong quản lý, tổ chức và hoạt động thực tiễn; đồng thời
1
cũng đánh dấu sự phát triển của tiến trình đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước.
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của bộ máy Nhà nước là một trong những phương diện quan trọng nhất
của mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước nói chung và q trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Ở nước ta, yêu cầu giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước được
đặt ra ngay từ khi đảng ta giành được chính quyền và trở thành Đảng cầm
quyền. Vấn đề này, ngay từ năm 1922, khi phát hiện được những “quan hệ
không đúng” giữa Đảng và các cơ quan Xô viết, V.I Lênin đã chỉ ra: “sửa chữa
được hiện tượng đó là việc làm rất khó vì ở nước ta chỉ có một đảng cầm quyền
duy nhất đang lãnh đạo”.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và cũng là mong muốn có
dịp đi sâu nghiên cứu vấn đề một cách có hệ thống, góp phần nâng cao hiệu quả
của hoạt động xây dựng đất nước phát triển bền vững; học viên chọn vấn đề
nghiên cứu “Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng với Nhà nước trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN” làm đề tài tiểu luận.
2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Đổi mới hệ thống chính trị là nhằm làm cho các bộ phận cấu thành hệ
thống hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao hơn, khắc phục bệnh quan liêu, hình
thức trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và xác lập cơ
chế vận hành thông suốt, chặt chẽ của cả hệ thống dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Vấn đề này có phạm vi và giới hạn rộng, bao gồm nhiều
lớp vấn đề nghiên cứu. Nhưng trong khuôn khổ của một tiểu luận môn Hệ thống
quan điểm đổi mới của Đảng, đề tài chỉ đề cập nội hàm của vấn đề trên bình
diện tổng thể về tầm quan trọng, nội dung lãnh đạo, thực trạng phương thức lãnh
đao, một số vấn đề đặt ra và phương hướng, hoàn thiện, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan
2
Đổi mới hệ thống chính trị là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta quan tâm
ngay từ những ngày đầu của thời kỳ đổi mới. Có nhiều văn bản đã ban hành
như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, lần thứ X về Đổi mới, chỉnh đốn Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, NXB Chính trị quốc
gia, năm 2006; Chuyên đề nghiên cứu nghị quyết Đại hội X của Đảng về Đổi
mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN, NXB Chính trị quốc gia năm 2006…
Gần đây, có nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến vấn đề này ở nhiều
góc độ khác nhau như: PGS TS Nguyễn Trọnh Phúc với Bước trưởng thành của
Đảng ta trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, Tạp chí Tư tưởng – Văn
hóa, tháng 2 năm 2003; TS Lưu Văn An với Đổi mới quan hệ kinh tế và chính
trị, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thơng, tháng 6 năm 2009… Ngồi ra có
một số sách đã xuất bản có nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu: Tài liệu
tham khảo (Dùng cho lớp tập huấn giảng viên các môn khoa học Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh các trường Đại học, Cao đẳng) của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, năm 2006; Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
(Dùng cho Sinh viên Đại học, Cao Đẳng) của Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB
Chính trị quốc gia, năm 2009.
Mặc dù những cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề đổi mới
hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động
quản lý của Nhà nước… nhưng rất chung, bao gồm một lớp các vấn đề tổng quát
hoặc là những bài viết nghiên cứu ở từng khía cạnh nhất định mà chưa thể hiện
cái nhìn cụ thể về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Do vậy, tiểu luận mong muốn làm
sáng tỏ “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước trong quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN”.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về sự lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, khảo sát thực trạng về
phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, tiểu luận đề xuất một số vấn đề
và phương hướng cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, tiểu luận giải
quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
tổ chức bộ máy của Nhà nước.
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới.
+ Đề xuất một số vấn đề và phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước pháp quyền XHCN.
5. Đóng góp mới của đề tài
Lần đầu tiên phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước được nghiên
cứu theo hướng những vấn đề lý luận chung, thực trạng, phương hướng đổi mới
phương thức, góp phần phác họa bức tranh tổng quát về nền chính trị Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới và phát triển đất nước.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận chung nhất của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng
trong công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: Tiểu luận sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp lơgíc và lịch sử
Phương pháp khái quát hóa - trừu tượng hóa
7. Kết cấu tiểu luận
4
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống tổ chức bộ máy Nhà nước.
1.1 Tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
1.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng với Nhà nứơc
Chương 2: Thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước trong thời
kỳ đổi mới.
2.1. Thành tựu
2.2. Hạn chế
Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và phương hướng hoàn thiện, đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước.
3.1. Tiếp tục phát triển mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
3.2. Thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xây dựng
hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước.
8. Dự kiến sản phẩm tạo ra
Tiểu luận là sự đóng góp về mặt lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn nên
có thể áp dụng trong nghiên cứu, giảng dạy, đấu tranh tư tưởng lý luận, làm tài
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu lý luận chính trị và truyền thông phát
triển nghiên cứu cao hơn.
NỘI DUNG
5
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về sự lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước.
1.1 Tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là hệ thống các phương
pháp, các hình thức, các biện pháp mà Đảng tác động vào Nhà nước để hiện
thực hóa ý chí và mục tiêu của Đảng. Về nguyên tắc, mục tiêu cao nhất của
Đảng lãnh đạo Nhà nước là tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân bằng Nhà nước, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của Nhà nước trong quá trình xây dựng xã hội mới nhằm làm cho mục
tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nói chung và của từng thời kỳ nói riêng
được thực hiện có hiệu quả. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước bị quy định bởi đặc tính khách quan và chức năng cơ bản của hệ
thống tổ chức Nhà nước và tính chất lãnh đạo của Đảng với Nhà nước. Nội dung
và phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước phản ánh mối quan hệ giữa
mục tiêu và phương tiện, điều kiện đạt mục tiêu hay nói rộng ra, đó là mối quan
hệ giữa chức năng của hệ thống và cơ chế thực hiện.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức thể hiện sự thống nhất giữa tính
giai cấp và tính dân tộc. Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho mọi hành động. Đảng là tổ chức chặt chẽ, thống nhất về ý chí và
hành động. Vai trị lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là
mang tính hiến định. Điều này xuất phat từ u cầu khách quan do sụ tín nhiệm
và tơn vinh của nhân dân Việt Nam đối với Đảng. Điều này cũng chỉ ra rằng,
Đảng Cộng sản Việt Nam không có đảng khác gây áp lực để nắm quyền. Do đó,
chủ thể cầm quyền trong hệ thống chính trị của nước ta vừa có nhiều mặt tích
cực như tính tập trung thống nhát quyền lực cao, các chính sách của đảng cầm
quyền dễ được thông qua và thực thi nhanh, có hiệu lực. Tuy nhiên lại vừa có
mặt hạn chế là dễ dẫn đến chuyên quyền, độc đoán, quan liêu, thiếu dân chủ. Để
khắc phục mặt hạn chế này, bản thân Đảng cũng phải luôn tự chỉnh đốn, đổi mới
6
phương thức lãnh đạo và cần có cơ chế để các tổ chức chính trị - xã hội thực
hiện vai trò giám sát và phản biện đối với chủ trương, đường lối của Đảng.
Ngược lại, trong quá trình đổi mới hiện nay, Nhà nước ta thực hiện chức
năng chính trị của mình thơng qua những nhiệm vụ chủ yếu như phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và phát triển kinh tế nhà nước
làm chủ đạo, xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng
và củng cố nền tảng tinh thần của xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại; xây dựng và thực
hiện chhiến lược an ninh quốc phòng, bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc và sự
nghiệp xây dựng đất nước…Ở nước ta hiện nay, các chức năng của Nhà nước
quy định, ràng buộc lẫn nhau, đó là sự liên hệ giữa các yếu tố trong cùng hệ
thống trong việc thực hiện quyền lầm chủ của nhân dân về mọi mặt của đời sống
xã hội.
Với ý nghĩa đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước là lãnh đạo về mặt chính trị, tức
là lãnh đạo bằng đường lối, bàng công tác tổ chứcc và cán bộ…Đảng không
nhân danh Nhà nước để thực hiện quyền lực, Còn Nhà nước có chức năng quản
lý trực tiếp xã hội. Vì vậy sự phân định rõ chức năng của đảng và Nhà nước
trong hệ thống chính trị sẽ có tác động tích cực và đem lại hiệu quả cao trong
q trình quản lý xã hội và xây dựng phát triển đất nước hiện nay.
1.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng với Nhà nứơc
Để thực hiện được chức năng lãnh đạo Đảng cần có nội dung lãnh đạo.
Nội dung đó là những vấn đề, nhiệm vụ cụ thể mà Đảng đặt ra và chủ yếu được
xác định ở mục tiêu trong đường lối chủ trương, chính sách. Nội dung đó bao
gồm tất cả các vấn đề thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mà cụ thể là
những vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảng xác định mục tiêu lãnh đạo với Nhà nước: Mục tiêu của
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là mục tiêu của toàn dân tộc Việt Nam, trong đó
có mục tiêu lâu dài, mục tiêu trước mắt, mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể.
7
Thứ hai, Đảng xác định chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước: đây là vấn đè
quan trọng trong nội dung lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình đổi mới Đảng ta
đã ngày càng xác định rõ hơn vai trò chức năng của Nhà nước.
Thứ ba, Đảng đề ra đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN;
đường lối chiến lược phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực; Đảng lãnh đạo
công tác kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà nước…Những nội dung trên
đã được thể hiện cụ thể trong các văn kiện Đại hội và Hội nghị của Đảng như:
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã quyết định đường lối đổi mới của đất
nước, trong đó có nội dung quan trọng là đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước trong điều kiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý. Đó là các
nhiệm vụ: Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp
luật cụ thể; xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và cụ thể hóa chiến lược đó
thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quản lý hành chính - xã hội và
hành chính - kinh tế; điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội theo kế hoạch, giữ
vững pháp luật, kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng và an
ninh; kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất cân
đối và đề ra biện pháp để khắc phục; thực hiện quy chế làm việc khoa học, có
hiệu suất cao; xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng với một đội ngũ cán bộ
có phẩm chất chính trị, năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã
hội.
Đại hội VII của Đảng (6 – 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH, trong đó nêu rõ quan điểm cần thiết sửa
đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện tồn các cơ
quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước. “Tổ
chức và hoạt động của bộ máy quản lý của nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân cơng phân cấp, đồng thời bảo đảm sự
thống nhất của Trung ương”. “Nhà nước Việt Nam thống nhất 3 quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp, với sự phân cơng rành mạch 3 quyền đó”. Đại hội lần này
8
cũng đã chủ trương cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, coi
trọng bàn bạc tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm và quyền hạn cá nhân của
người đứng đầu Chính phủ, đứng đầu bộ, ngành trong quản lý và điều hành.
Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đổi mới hệ thống tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân các cấp.
Theo đó, Nghị quyết Hội nghị TW2, khóa VII nhấn mạnh: “Đổi mới sự
lãnh đạo của Dảng đối với Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất để tiến hành
đổi mới và tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho swj lãnh đạo của
Đảng có chất lượng và hiệu quả hơn, đồng thời làm cho sự quản lý và điều hành
của nhà nước có hiệu quả, pháp luật được tôn trọng, quyền làm chủ của nhân
dân được phát huy”. Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ không làm thay Nhà nước.
Cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước. Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo đó, ngày 15-4-1992, Quốc hội khóa VIII đã
thơng qua hiến pháp sửa đổi quy định những vấn đề cơ bản nhất về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tịa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị TW8, khóa VII (1-1995), chủ trương tiếp tục xây
dựng và hồn thiện Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách
một bước nền hành chính. “Tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bănngf pháp luật, đồng thời coi trọng giáo
dục, nâng cao đạo đức XHCN”. Nghị quyết TW, khóa VIII (6-1997) tiếp tục đề
ra yêu cầu cần nắm vững và thực hiện tốt 3 nội dung trọng yếu về sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước là: Lãnh đạo các cơ quan Nhà nước kịp thời thể chế
hóa đường lối của Đảng thành pháp luật; Tăng cường quản lý cán bộ đảng viên
trong cơ quan nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững
mạnh, thực sự vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân;
9
Tăng cường kiểm tra đảng và đảng viên trong thực hiện các nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nứơc…
Chương 2: Thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới
2.1. Thành tựu
Trong những năm qua, công tác lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã
giành được nhiều kết quả quan trọng. Giảm dần sự can thiệp của các cơ quan
của Đảng với Nhà nước; khắc phục phong cách hoạt động theo kiểu quan liêu,
mệnh lệnh, hành chính…từng bước dân chủ hóa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước. Đồng thời về phía Nhà nước cũng hạn chế dần đi tới khắc phục tình trạng
quản lý sơ cứng, thụ đơng, ỷ lại vào cơ quan lãnh đạo của Đảng. Các hệ thống
trong bộ máy Nhà nước đã được kiện toàn, củng cố và từng bước thực hiện tốt
hơn chức năng nhiệm vụ của mình. Biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, Nhận thức về chức năng, vị trí, vai trị của Nhà nước ngày càng
đúng đắn và rõ ràng hơn. Đại hội VI của Đảng thừa nhận những bất cập, hạn
chế trong quá trình lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Những hạn
chế, bất cập này thể hiện trước hết ở mối quan hệ và phương thức làm việc của
các cơ quan TW của Đảng và Chính phủ. Đại hội VI xác định trong đổi mới
chính trị, hệ thống chính trị thì vấn đề đổi mới quan hệ giữa Đảng với Nhà nước
là vấn đề quan trọng. Đảng lãnh đạo theo cơ chế nào để thể hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của Đảng, khắc phục được tình trạng Đảng bao biện làm thay
những công việc của Nhà nước.
Tuy nhiên, khắc phục một thói quen, thậm chí là một tập quán lãnh đạo
Nhà nước theo lối chỉ ra lệnh, chỉ huy trực tiếp và tồn diện được hình thành và
phát huy tác dụng trong những thời kỳ lịch sử kéo dài là điều kiện khong dễ.
Thay thế phương thức lãnh đạo cũ là cần thiết, nhưng lãnh đạo theo phương thức
mới thế nào là vấn đề không đơn giản. Hơn nữa, trong q trình đổi mới có
nhiều quan điểm bảo thủ nhưng cấp ủy đảng, chính quyền và cá nhân do những
10
lợi ích riêng, cục bộ chi phối khơng muốn đổi mới hoặc tìm cách cản trở, làm
chậm chễ quá trình đổi mới.
Thực tiễn cho thấy, sự chuyển hướng phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta đã làm thay đổi vai trò quản lý của Nhà
nước. Theo đó, quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước
cũng có sự thay đổi nhất định.
Hai là, Sự phân định rõ hơn ngày càng rõ hơn chức năng lãnh đạo của
Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Sự phát triển nền kinh tế theo cơ
chế thị trường đã dần khắc phục được tình trạng Đảng bao biện, làm thay chức
năng của Nhà nước. Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về những hạn chế
trước đây trong mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ Đảng ta đã xác định lãnh đạo Nhà nước và
xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược các định hướng về chính sách và chủ trương;
thông qua tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiẻm tra và bằng hành
động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan chính quyền và các
đồn thể.
Đảng ta ngày càng nhận thức rõ, lãnh đạo là hướng dẫn người khác làm
theo bằng nhiều phương thức nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Trong quá trình lãnh
đạo, Đảng đã vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và tình hình thực tiễn của đất nước đề ra chiến lược và sách lược đấu tranh
cách mạng của mỗi thời kỳ lịch sử một cách đúng đắn. Trên cơ sở đó, Đảng
tuyên truyền, vận động, giác ngộ và đưa quần chúng tham gia vào các phong
trào cách mạng nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Cán bộ đảng viên của Đảng dù ở
cương vị nào cũng cố gắng gương mẫu làm cho quần chúng noi theo. Trong điều
kiện Đảng cầm quyền, sự phân định này mang tính chất tương đối.
Ba là, Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
theo hướng dân chủ trong thời kỳ đổi mới được thể hiện. Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng cơ chế dân chủ thông qua tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước để
11
tiến hành thể chế hóa những quan điểm đường lối của đảng thành Hiến pháp, các
đạo luật, các văn bản pháp quy của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm quyền lực của
nhân dân, quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Đảng đề cao nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước là thống nhất và thuộc
về nhân dân, do dân quyết định. Đây là quan điểm thể hiện Đảng từng bước
hướng tới nền dân chủ đích thực. Đảng đang tức bước giảm bớt sự can thiệp vào
các công việc của Nhà nước. Từ đó, Đảng đặt ra chủ trương cụ thể đối với từng
cơ quan quyền lực nhà nước (cả lập pháp, hành pháp và tư pháp). Các quan
điểm, nguyên tắc chung đó được thể hiện tập trung trong Nghị quyết Hội nghị
TW8 khóa VII, Nghị quyết Hội nghị TW3 khóa VIII, và đặc biệt là trong Nghị
quyết Hội nghị TW5 khóa X về Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Bốn là, Vị trí, vai trị của Nhà nước trong hệ thống chính trị ngày càng
được xác định và củng cố vững chắc hơn. Lần đầu tiên trong mấy thập kỷ lãnh
đạo xã hội lãnh đạo Nhà nước, Đại hội VIII, Đảng ta chính thức xác định Nhà
nước ta là trụ cột của hệ thống chính trị. Với quan điểm này, Đảng xác định
nhiệm vụ chủ yếu nhất, khó khăn, phức tạp và lâu dài nhất là đổi mới và hoàn
thiện Nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là nhiệm vụ trung tâm
của quá trình đổi mới hệ thống chính trị.
Thực tế cho thấy, cùng với xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đổi mới và hoàn
thiện Nhà nước có tầm quan trọng; làm cho nhà nước ngày càng trở thành tác
nhân quan trọng số một đối với sự phát triển của đất nước hiện nay. Việc khẳng
định Nhà nước là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã thể hiện bước phát triẻn mới về quan điểm chính trị của
Đảng ta; đồng thời cũng là sự đổi mới có tính ngun tắc trong quan hệ giữa
Đảng với Nhà nước nói chung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng. Nó đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn
chỉnh cả về Đảng và Nhà nứơc.
12
2.2. Hạn chế
Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX tại Đại
hội Đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ: “Khẩn trương xây dựng hoàn
thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng
lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và
từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước”. Điều này thể hiện bên cạnh những
thành tựu đạt được thì phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước còn
nhiều mặt hạn chê: còn nhiều biểu hiện vi phạm dân chủ, còn nhiều lúng túng
trong giẩi quyết mối quan hệ giữa đảng lãnh đạo chính quyền với xây dựng Nhà
nước pháp quyền, đảm bảo quyền lực của dân, giữa ý Đảng với lòng dân; năng
lực lãnh đạo của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế, chưa theo kịp yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới; phẩm chất đạo đức, lối sống
của một bộ phận đảng viên suy giảm.
Đối với cơ quan lập pháp: Quốc hội là cơ quan quyền lực dân cử cao nhất
nhung trong thực tế lãnh đạo, quan điểm này chưa được quán triệt đầy đủ. Trong
bầu cử đại biểu vào các cơ quan dân cử, khơng khí dân chủ đã có những tín hiệu
tiến bộ hơn trước nhưng vẫn còn những biểu hiện áp đặt của Đảng về cơ cấu,
thành phần, tiêu chuẩn đảng viên cịn q ít chỗ đứng cho các ứng cử viên tự do,
thậm chí có những địa phương khơng có ứng viên tự do.
Về mặt hình thức Quốc hội là của dân nhung trên thực tế, thành phần đảng viên
trong quốc hội quá cao đã biến mỗi đại biểu thành một nghị sĩ - Đảng, biến
Quốc hội hiện diện như một tổ chức Đảng.
Số đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân kiêm nhiệm chiếm tỷ trọng lớn.
Nhiều đại biểu là cán bộ chủ chót trong chính phủ, các cấp chính quyền. Sự
kiêm nhiệm đó vừa khơng đảm bảo hiệu quả, vừa dẫn đến tình trạng các đại biểu
“vừa đá bóng, vừa thổi cịi”.
Đối với cơ quan hành pháp: Mặc dù Đảng không can thiệp vào các công
việc hành pháp một cách trực tiếp nhưng vẫn cịn khơng ít những biểu hiện
Đảng đã ãnh đạo Chính phủ khơng chỉ thơng qua chủ trương lớn mà còn đưa ra
13
những mục tiêu, biện pháp rất cụ thể đến mức chi tiết đối với hoạt động và tổ
chức của Chính phủ.
Quan hệ công tác giữa Ban cán sự với đảng ủy cơ quan không phải lúc nào cũng
đảm bảo dân chủ. Đây là chỗ bất cập nhât trong việc phân định, thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa hai tổ chức này. Vai trò
lãnh đạo của Đảng với các cơ quan hành pháp còn chồng chéo; Tổ chức Ban cán
sự Đảng ở các bộ và các cơ quan ngang bộ đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp, đơn
tuyến của Bộ Chính trị và Ban bí thư, trong khi đó các bộ lại chịu sự lãnh đạo
trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ cũng là một sự chồng chéo. Sự tồn tại hai tổ
chức Đảng và cơ chế quan hệ như vậy làm khó cho hoạt động của Chính phủ và
các bộ, làm giảm vai trị tự chủ, sự quyết đốn của Thủ tướng và các bộ trưởng.
Đối với các cơ quan tư pháp: Trên thực tế, nhiều vụ án đước xét xử công
khai, đứng người, đúng tội. Tuy nhiên hoạt động tư pháp vẫn còn nhiều hạn chế.
Việc xết xử còn nhiều biểu hiện chưa tuân thủ pháp luật, chưa nghiêm, con
nhiều oan sai. Tình trạng trên có ngun nhân từ sự can thiệp của tổ chức đảng,
của cá nhân người lãnh đạo, của cơ quan chính quyền vào hoạt động xét xử.
Những năm gần đây, Đảng ta đã có những chủ trương đổi mới hơn nữa phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp…
14
Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và phương hướng hoàn thiện, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là hạt nhân
đạo hệ thống chính trị nhung khơng thể coi Đảng là cơ quan công quyền, không
được lấn sân vào các cơ quan quyền lực công. Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn hiện nay cần chú ý những vấn đề
sau:
3.1. Tiếp tục phát triển mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Trước hết, tiếp tục đổi mới nhận thức về Đảng và Nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, là cơ quan lãnh đạo nhưng
không không phải là cơ quan quyền lực nhà nước; quyền lực của Đảng khác với
quyền lực của Nhà nước. Sự khác nhau đó quy định những điểm khác biiệt về
chức năng, nhiệm vụ, phương thức và phương pháp hoạt động giữa Đảng và
Nhà nước, giữa Đảng với các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội khác. Nếu
khơng phân biệt rõ ràng, thấu đáo những khác biệt đó vad đặc biệt là không kiên
quyết mạnh dạn chuyển biến từ đổi mới nhận thức sang đổi mới tổ chức và hoạt
động của Đảng và cả Nhà nước thì khơng tránh khỏi tình trạng làm cho Đảng trở
nên hành chính hóa, quan liêu hóa kiểu nhà nước và Nhà nước thì khơng có thực
quyền, vừa thụ động, vừa xơ cứng trong quản lý. Thước đo hiệu qủa sự lãnh đạo
của Đảng phải thể hiện ở sức mạnh, hiệu lực thực tế của Nhà nước. Để quản lý,
Nhà nước buộc phải dùng đến sức mạnh của tổ chức và hành chính cũng như
sức mạnh cưỡng chế của luật pháp.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua tổ chức đảng trong các cơ quan Nhà
nước và thông qua các cơ quan chuyên trách của hệ thống đảng. Là lực lượng
lãnh đạo chính trị, Đảng quyết định những vấn đề chính trị thuộc về chiến lược
phát triển, về đường lối, chủ trương, quan điẻm, nguyên tắc đối với tổ chức và
hoạt động của Nhà nước nhưng Nhà nước lại tổ chức quyền lực, thực thi vai trò,
chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật. Do đó, Đảng
15
không thể can thiệp sâu vào Nhà nước; không thể bao biện, lấn sân, làm thay
những cơng việc của chính quyền các cấp trong hệ thống quản lý hành chính…
Điều đó làm tăng thêm sức mạnh bảo vệ và tự bảo vệ của Đảng, tránh cho Đảng
khỏi rơi vào tình trạng độc đoán, lạm quyền, vi phạm pháp luật và vi phạm dân
chủ.
Thứ hai, phân định rõ mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
mục tiêu hoạt động của Nhà nước.
Mục tiêu lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước là phát huy vai trò của Nhà
nước trong việc thể chế hóa, tổ chức thực hiện có hiệu qủa những quan điểm chỉ
đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng,
đối ngoại. Mục tiêu quản lý của Nhà nước là biến toàn bộ quan điểm chỉ đạo của
đảng trên các phương diện tương ứng thành hiện thực. Mục tiêu lãnh đạo của
đảng và mục tiêu quản lý của Nhà nước có nội dung tương tự như nhau nhưng
nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và nội dung quản lý
của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đó lại có nhiều điểm khác nhau. Điều đó được
bộc lộ ở sự khác biệt giữa nhiệm vụ của đảng và nhiệm vụ của Nhà nước.Với tư
cách là Đảng cầm quyền, Đảng đề ra chủe trường, đường lối có tính chiến lược
và lãnh đạo việc tun truyền, cổ động quần chúng thực hiện; mặt khác, Đảng
lãnh đạo cơ quan Nhà nước thể chế hóa, tổ chức thực hiện các chủ trương, quan
điểm đó. Đảng khơng trực tiếp giải quyết các công việc của Nhà nước.
Nhà nước, bằng quyền lực của mình có nhiệm vụ “bảo đảm và khơng
ngừng phát huy quyền làm chủ của dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm
lợi ích của tổ quốc và của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện
công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện”.
Thứ ba, hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng khác với hệ thống tổ chức bộ
máy của Nhà nước
Hiện nay cả hai hệ thống này đều đang đứng trước yêu cầu cần phải đổi
mới theo yêu cầu dân chủ - pháp quyền, trong sạch, vững mạnh, chống quan
16
liêu, tham những có hiệu quả. Đảng đổi mới cơ chế lãnh đạo của mình đối với
Nhà nước trên cơ sở tự chỉnh đốn Đảng, thực hiện dân chủ trong Đảng, “phải
kiện toàn bộ máy tổ chức của Đảng ở tất cảc các cấp từ TW đến cơ sở” theo
hướng tinh gọn và tinh nhuệ, thể hiện thật rõ tính đặc thù của lãnh đạo chính trị.
Việc sử dụng các chuyên gia giỏi vào lĩnh vực chuyên môn là cách tốt nhất để
khắc phục tình trạng “thừa” bộ máy mà “thiếu” hoạt động.
Đòi hỏi cơ bản hiện nay đối với Nhà nước trên con đường tiến tới Nhà
nước pháp quyền XHCN là tạo lập một hệ thống pháp luật đồng bộ, cải cách bộ
máy hành chính Nhà nước bảo đảm trong sạch, vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả
với đội ngũ cán bộ công chức được đào tạo cơ bản, tinh thông chuyên môn,
nghiệp vụ, tận tụy, mẫn cán, am hiểu pháp luật và tơn trọng pháp luật, có chế độ
công vụ và đạo đức công chức được đề cao.
Thứ tư, Phương pháp lãnh đạo của Đảng khác với phương pháp quản lý
của Nhà nước; đào tạo, huấn luyện và bố trí sử dụng cán bộ Đảng khác với đào
tạo bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ, cơng chức nhà nước.
Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả phương thức lãnh đạo của đảng cần đổi
mới tổ chức bộ máy đảng và nhà nước cùng đội ngũ cán bộ cơng chức, nâng cao
mặt bằng dân trí, nhất là tri thức pháp luật; nâng cao vai trò của các cơ quan có
chức năng thể chế hóa đường lơis, quan điểm của Đảng, tổ chức thực hiện pháp
luật, nâng cao chất lượng của các ban đảng có chức năng tư vấn trong việc chỉ
đạo của Đảng với các cơ quan nhà nước tương ứng.
Thứ năm, đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên
Tiếp tục xây dựng đảng trong tình hình mới, nâng cao năng lực lãnh đao,
chất lượng và hiệu quả thực tế của các nghị quyết, xây dựng đội ngũ cán bộ
đảng viên thực sự là đội ngũ tiên phong trong sự nghiệp đổi mới, mỗi cán bộ
đảng viên thực sự là hạt nhân lãnh đạo, là tấm gương có sức lơi cuốn, tập hợp
nhân dân trong tiến trình thực hiện các mục tiêu của đổi mới kinh tế, cải cách
hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trong cải cách tư pháp,
trong huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Phát huy truyền thống
17
người đảng viên cộng sản đã đi đầu, hy sinh trong sự nghiệp cách mạng giành
độc lập dân tộc trước đây và mãi là người đi đầu trong mọi lĩnh vực của sự
nghiệp đổi mới, xây dựng phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Lãnh đạo chính trị của Đảng là lãnh đạo tồn diện ở tầm quan điểm, đường lối,
nguyên tắc, phương hướng, chủ trương lớn, những vấn đề nhạy cảm. Do đó nố
địi hỏi phải có trình độ khoa học, tư tưởng, trí tuệ cao, nhạy bén, sâu sắc ln
vươn kịp tới trình độ hiện đại của thời đại.
3.2. Thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xây
dựng hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, những quan hệ
cơ bản, nhất là quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý phải được thể chế hóa. đảng
vừa là bộ phận cấu thành hệ thống chính trị, vừa là người lãnh đạo hệ thống đó.
Đảng là người lãnh đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật, nhung Đảng cũng là
một ttổ chức chính trị, một bộ phận hữu cơ của xã hội; do đó, trong tổ chức và
hoạt động của minh, Đảng phải tuân thủ đúng pháp luật, đảng viên và các hoạt
động của Đảng không được đứng trên, đứng ngoầi pháp luật. Hơn nữa, các tổ
chức đảng và đảng viên không chỉ chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước mà
còn chịu sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân và các tổ chức xã hội.
Mặt khác, trên phương diện pháp lý, trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền, mọi nghị quyết của Đảng chỉ có giá trị bắt buộc với đảng viên và
các tổ chức tương ứng. Vì vậy nếu muốn những nghị quyết đó được thực hiện
trong tồn dân thì phải được thể chể chế hóa thành pháp luật, chính sách của cơ
quan Nhà nước. Nói cách khác, trong quản lý xã hội, pháp luật là tối thượng,
việc quản lý Nhà nước đơn thuần bằng nghị quyết cần được khắc phục triệt để.
Nhu cầu thể chế hóa phương thức lãnh đạo cuẩ Đảng đối với Nhà nước
nói chung và hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước nói riêng xuất phát từ địi hỏi
khách quan của nền kinh tế thị trường, xã hội công dân ngày càng phát triển, tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng trở nên chuyên nghiệp, hiện
đại, nhu cầu dân chủ hóa đời ssống xã hội ngày càng cao…Thể chế hóa vai trị
18
và phương thức lãnh đạo của Đảng cịn có ý nghĩa đề cao trách nhiệm của Đảng
bằng pháp luật trước nhân dân. Nghĩa là, thể chế hóa phương thức lãnh đạo của
Đảng với Nhà nước cần được cụ thể hóa cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
cơ chế vận hành của từng cơ quan trong bộ máy lập pháp, hành pháp, thích hợp
với từng lĩnh vực và từng cấp hành chính. Ở đây cần xác định vai trị và phương
thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành TW với Quốc hội trong công tác
tổ chức bộ máy nhà nước và việc thực hiện các chức năng lập hiên, lập pháp;
giám sát tơíi cao; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đồng thời
cần tính đến khả năng ban hành đạo luật quy định chi tiết về vai trò và phương
thức lãnh đạo của các cấp ủy với chính quyền các cấp.
19
KẾT LUẬN
Như vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong
điều kiện Đảng cầm quyền là vấn đề rất hệ trọng. Đổi mới là nhằm củng cố Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quản lý Nhà
nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thực chất là
đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Đay là mối quan hệ cơ bản nhất
trong hệ thống chính trị; nó quy định nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ của việc thực
thi quyền lực chính trị, quyền lực của nhân dân. Trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước; mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước đang có nhiều vấn đề đặt ra. Để lãnh đạo Nhà nước
pháp quyền XHCN, Đảng cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng
dân chủ đúng pháp luật.
Việc lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được xây dựng theo thể chế sẽ
hạn chế sự can thiệp ngoài thể chế của cấp ủy, của đảng viên đối với tổ chức và
hoạt động của Nhà nước. Góp phần giải quyết mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng
và Nhà nước như các quan điểm trong văn kiện của Đảng. Tuy nhiên, phân biệt
chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước, trong điều
kiện một Đảng cầm quyền chỉ mang tính chất tương đối. Lãnh đạo và quản lý có
mối quan hệ hữu cơ với nha. Trong lãnh đạo của Đảng cũng có yếu tố của quản
lý và trong quản lý của Nhà nước cũng có yếu tố lãnh đạo. Lãnh đạo và quản lý
đều là sự tác động vào những khách thể nhất định nhằm thực hiện những mục
tiêu nhất định.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà chúng ta nêu cao tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì càng
cần phải quán triệt quan điểm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong tồn hệ
thống chính trị.
20