TIỂU LUẬN MƠN LỊCH SỬ LÝ LUẬN BÁO CHÍ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí ra đời muộn hơn báo in, báo phát
thanh và truyền hình. Trước đây, khi một sự kiện xảy ra thì” phát thanh đưa tin,
truyền hình minh họa, báo in phân tích và giải thích. Nhưng giờ đây báo mạng
điện tử có thể đảm đương nhiệm vụ của cả phát thanh, truyền hình và báo in một
cách dễ dàng. Bản thân nó mang trong mình sức mạnh của phương tiện truyền
thông đại chúng truyền thống, cùng kết hợp với mạng máy tính nên có nhiều ưu
điểm vượt trội, trở thành kênh truyền thông vô cùng hiệu quả đặt các phương
tiện truyền thông khác vào một cuộc đua quyết liệt. Việc tìm hiểu sự tác động
của báo mạng đối với các loại hình báo chí khác sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
đặc điểm và xu hướng phát triển của các loại hình báo chí khác( phát thanh,
truyền hình, báo in…) trong thời kỳ hiện nay. Tác giả lựa chọn đề tài “Sự ra đời
của Báo mạng điện tử và những tác động của nó đến các loại hình báo chí
khác”.
Tác giả lựa chọn đề tài “Mối quan hệ tác động qua lại giữa các loại hình
báo chi
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về sự ra đời của báo mạng điện tử ở Việt
Nam, sự tác động của nó đối với các loại hình báo chí: báo phát thanh, báo
truyền hình, báo in…Xu hướng phát triển của các loại hình báo chí này để cạnh
1
tranh với báo mạng điện tử. Qua đó chỉ rõ sự tác động qua lại của các loại hình
báo chí với nhau trong bối cảnh hiện tại.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Báo mạng, báo phát thanh, báo truyền hình, báo in
4. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu tài liệu: các tài liệu, bài viết có liên quan.
Phân tích và tổng hợp: Phân tích các bài viết, tài liệu sau đó lựa chọn và
tổng hợp lại.
5. Kết cấu tiểu luận
Mở đầu
Nội dung gồm có 4 chương:
Chương I: Báo mạng điện tử
Chương II: Sự tác động của Báo mạng điện tử đối với Báo in
Chương III: Sự tác động của Báo mạng điện tử đối với Báo phát thanh
Chương IV: Sự tác động của Báo mạng điện tử đối với Báo truyền hình
Kết luận
NỘI DUNG
2
Chương I: Báo mạng điện tử
1. Khái niệm.
Trên thế giới và Việt Nam đang tồn tại nhiều cách gọi khác nhau đối với
loại hình báo chí này: Báo điện tử( Electronic Journal), Báo trực tuyến( Online
Newspaper),
Báo mạng( Cyber Newspaper), Báo chí Internet ( Internet
Newspaper) và báo mạng điện tử.
Báo mạng điện tử là khái niệm thông dụng nhất ở nước ta. Nó gắn liền
với tên gọi của nhiều tờ báo mạng điện tử thuộc cơ quan báo in. Tên gọi này nó
khẳng định loại hình báo chí mới này là con đẻ của sự phát triển vượt bậc của
công nghệ thông tin, hoạt động được nhờ các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, số
hóa, các máy tính nối mạng và các server và các phần mềm ứng dụng. Nó cho
phép hiểu một cách chính xác về bản chất, đặc trưng của loại hình báo chí này:
tính đa phương tiện, tính tương tác cao, phi định kỳ, khả năng truyền tải thông
tin không hạn chế, với cách lưu trữ thông tin dướu dạng dữ liệu siêu văn bản,
khả năng siêu liên kết- các trang báo được tổ chức thành từng lớp, cơ chế “nở”
ra với số trang không hạn chế…tên gọi này chỉ rõ người làm báo và người đọc
báo đều phải có trình độ nhất định. Đây là sự kết hợp các tên gọi có nội dung
riêng biệt như: báo mạng , điện tử. Chính vì vậy tên gọi này thỏa mãn được các
yếu tố Việt hóa, đặc trưng khu biệt của loại hình báo chí mới, khắc phục được
sự” thiếu” về nghĩa, sự máy móc của từ ngoại lai.
Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình
thức của một trang web và phát hành trên mạng Internet.
2. Lịch sử ra đời của báo mạng điện tử
3
Chỉ một tháng sau khi Việt Nam nối mạng Internet, ngày 31-12-1997 tạp
chí Quê Hương( tạp chí của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài trực thuộc
Bộ Ngoại giao Việt Nam) có địa chỉ đã trở thành tờ
báo mạng điện tử đầu tiên ở nước ta. Sự kiện có ý nghĩa mở đường này đã ghi
một dấu ấn quan trọng trong lịch sử báo chí nước nhà. Từ đây hệ thống các
phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam đã có thêm một thành viên
mới, một loại hình báo chí mới vừa hiện đại vừa đặc biệt hữu dụng. Có thể chia
q trình hình thành và phát triển của báo mạng điện tử thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ năm 1997- 2001.
Mặc dù đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của báo mạng điện tử ở Việt
Nam nhưng thời kỳ này xuất hiện chủ yếu là những trang thông tin điện tử của
các cơ quan báo chí. Nội dung chủ yếu lấy thông tin từ báo in đưa lên, giao diện
cũng như bố cục hết sức đơn giản, ít gây ấn tượng. Báo mạng điện tử giai đoạn
này gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất, về hạ tầng công nghệ , đường truyền kém( 2Mb). Hầu hết các
trang web đều là trang web tĩnh, tốc đọ cập nhật thường chỉ 1 lần/ ngày. Việc
này khơng chỉ gây khó khăn cho các tờ báo mà còn làm cho người sử dụng phải
trả nhiều tiền hơn cho mỗi lần truy cập.
Thứ hai, về nhân sự. Những người đang làm việc tại các tờ báo mạng điện
tử đều rất bỡ ngỡ với loại hình báo chí này, ngồi ra sự rè rặt trong tâm lý cơng
chúng cũng như cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện cho báo ảnh phát triển còn rất
hạn chế, Bản thân các cơ quan báo chí chỉ xem báo mạng là “ con nuôi”, do vậy
báo mạng thời kỳ này gặp rất nhiều khó khăn các thành tựu đạt được là rất
khiêm tốn.
Giai đoạn thứ hai từ năm 2001- 2005.
4
Giai đoạn này là sự xuất hiện đến chóng mặt của hàng loạt các trang thông
tin điện tử của các cơ quan báo chí lớn. Đặc biệt sự ra đời của các tờ báo mạng
điện tử độc lập đã tạo ra luồng gió mới thúc đẩy báo mạng điện tử Việt Nam
phát triển. Tuy nhiên sự phát triên nóng của báo mạng điện tử giai đoạn này đã
nảy sinh hàng loạt vấn đề: đội ngũ những người làm báo vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tế, còn thiếu chuyên nghiệp, thơng tin của các tờ báo mạng
vẫn cịn phụ thuộc nhiều vào báo in…
Giai đoạn thứ ba từ năm 2005 đến nay.
Giai đoạn này đánh dấu sự trưởng thành cả về chất và lượng của báo mạng
điện tử nước ta. Các trang thông tin điện tử dần dần thoát khỏi cái bong của tờ
báo mẹ, các tờ báo độc lập bước đầu đã khẳng định được vị thế của mình trong
lịng độc giả. Nội dung, giao diện, tin bài của các tờ báo đã được cải thiện hơn
rất nhiều chiếm được cảm tình của bạn đọc.
Tuy nhiên các tờ báo mạng điện tử hiện nay vẫn không tránh khỏi một số
khó khăn: vấn đề tài chính, trình độ trang thiết bị kỹ thuật vẫn chưa theo kịp
châu lục và thế giới, tốc độ truy cập chậm, an ninh mạng chưa cao, thông tin
trùng lặp, chất lương thông tin kém tin cậy…
Tóm lại gần 15 năm hình thành và phát triển báo mạng điện tử Việt Nam
đã khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống các phương tiện thông tin
đại chúng. Hàng triệu lượt người truy cập mỗi ngày vào các trang báo mạng
điện tử đã chứng tỏ đây là một phương tiện thông tin đối nội, đối ngoại hiệu
quả, thực hiện tốt chức năng thông tin, giáo dục, giải trí của mình.
3. Đặc trưng cơ bản của báo mạng điện tử.
Khả năng đa phương tiện
5
Đa phương tiện trên báo mạng điện tử là việc sử dụng nhiều loại phương
tiện( ngôn ngữ văn tự và phi văn tự) để thực hiện và tạo nên một sản phẩm báo
chí. Một sản phẩm báo chí được coi là sản phẩm đa phương tiện khi nó tích hợp
nhiều trong số các phương tiện truyền tải thông tin sau: Văn bản (text), hình ảnh
tĩnh(still image), hình ảnh động( animation), đồ họa (graphic), âm
thanh( audio), video, và các chương trình tương tác(interactive program).
Tính tức thời và phi định kỳ
Báo mạng điện tử vượt qua được các rào cản mà các loại hình báo chí khác
gặp phải,nội dung thơng tin không bị giới hạn bởi khuôn khổ của trang báo, thời
lượng phát sóng hay thời gian tuyến tính , quy trình sản xuất thơng tin lại đơn
giản, dễ dàng nên có thể cập nhật, bổ sung bất cứ lúc nào với số lượng bao
nhiêu. Thơng tin trên báo mạng có thể sống động nóng hổi, cập nhật đến từng
giờ, từng phút, thậm chí là từng giây.
Chỉ có ở báo mạng điện tử mới có khái niệm “tờ báo mở” theo hai khía
cạnh sau:
Một là: bài báo sau khi phát hành vẫn sẽ tiếp tục được cập nhật thơng tin
nếu có thông tin mới.
Hai là: bài báo mạng điện tử thường xuất hiện các đường dẫn “mở” ra nội
dung khác giúp người đọc có thể tham chiếu đến từng bài báo có cùng chủ đề.
Theo đường dẫn đó người đọc có thể đi từ bài báo này đến bài báo khác, trang
báo này sang trang báo khác, tờ báo này sang tờ báo khác…cứ như thế đi vào
hành lang vô tận trên internet.
Tính tương tác
6
“Tính tương tác là sự tác động qua lại có ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
đối tượng người hoặc vật”, tính tương tác của báo mạng điện tử được
hiểu ở 3 góc độ:
a. Tính tương tác có định hướng: là sự định vị trên các nút văn bản như
“xem tiếp”, “trở về đầu trang”, điều này giúp cho công chúng chủ đọng
và dễ dàng di chuyển trong một trang báo hay giữa các trang báo với
nhau.
b. Tương tác chức năng: là sự linh hoạt của các đường dẫn cho phép người
đọc khả năng tham chiếu đến các nội dung khác.
c. Tương tác tùy biến: là tính thơng minh của các công cụ cá nhân( hộp
thu điện tử) cho phép báo mạng điện tử tự thích ứng để tiếp đón cơng
chúng, nhận sự phản hồi về tin bài, về tác giả bài báo, về hình thức tờ
báo…và nhanh chóng trả lời họ.
Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thơng tin
Báo mạng điện tử không bị giới hạn bởi số trang, khn khổ hay thời
lượng chương trình như các thể loại báo khác. Thông tin dược lưu trữ dưới dạng
đĩa từ với dung lượng lớn nên có thể chứa hằng trăm cuốn từ điển bách khoa
tồn thư.Thơng tin trên báo mạng phong phú, đa dạng cả về nội dung. Thơng tin
chính xác, khách quan và được kiểm chứng. Thông tin lưu trữ lâu dài và có hệ
thống.
7
Chương II: Báo in và báo mạng điện tử
1. Đặc điểm của loại hình báo in.
Khái niệm :”Báo in là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông
tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội”. Báo in bao
gồm các loại: nhật báo( báo hằng ngày), báo thưa kỳ, tuần báo, đặc san, chuyên
san …
Báo in truyền tải nội dung thông tin thông qua văn bản in gồm chữ in, hình
vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ,v.v…Tồn bộ nội dung thơng tin của sản phẩm báo
xuất hiện đồng thời trước mắt người đọc. Việc tiếp nhận thông tin của công
chúng đối với báo in chỉ qua thị giác- giác quan quan trọng nhất của con người
trong mối quan hệ với thế giới xung quanh. Do phương thức thông tin đặc thù
trên , báo in có những đặc điểm ưu việt sau:
-
Một là: người đọc hồn tồn chủ động trong việc tiếp nhận thơng tin
từ báo in. Sự chủ động bao gồm từ việc bố trí thời điểm đọc, cách thức đọc .
Đặc điểm này tạo cho báo in khả năng thông tin những nội dung sâu sắc, phức
tạp. Nhà báo có thể trình bày, lý giải các nội dung thơng tin có logic rắc rối , với
những mối quan hệ đan chéo, chồng chất lẫn nhau,với nhiều biểu hiện, bình
diện, nhiều tầng lớp khác nhau mà người đọc vẫn có thể hiểu được, miễn là nội
dung đó bổ ích, đáp ứng u cầu chờ đợi của người đọc.
-
Hai là: sự tiếp nhận thông tin từ báo in là quá trình chủ động , đòi hỏi
người đọc phải tập trung cao độ, phải huy động sự làm việc tích cực của trí não.
Hơn nữa nguồn thơng tin từ báo in đảm bảo sự chính xác và độ xác định cao. Vì
thế nó làm tăng khả năng trí nhớ, giúp người đọc có thể nhận thức sâu sắc
những mối quan hệ bên trong phức tạp và tế nhị của các vấn đề, sự kiện.
8
-
Ba là: việc lưu giữ báo in rất đơn giản và thuận lợi, phù hợp với thói
quen của người đọc. Do đó báo in trở thành nguồn tư liệu quý giá đối với người
đọc. Nguồn tư liệu đó có thể được lưu giữ lâu dài nguyên bản hoặc lưu giữ
riêng nhưng in tức, bài vở được quan tâm, có thể trở thành dẫn liệu, minh chứng
trong các cơng trình nghiên cứu xã hội, lịch sử…
Bên cạnh đó, báo in cũng có những hạn chế
-
Một là: báo in chỉ xuất hiện vào một thời điểm cụ thể và nhất định
với nội dung thông tin đề cập các vấn đề, sự kiện trong cả một chu kỳ xuất bản.
Thông tin về các vấn đề, sự kiện thời sự xảy ra trong chu kỳ, sau đó chỉ có thể
được đề cập đến trong sản phẩm được xuất bản vào thời điểm định kỳ sau Vì
thế, trong báo in bao giờ cũng tồn tại một khoảng thời gian trống thơng tin hay
nói cách khác, độ nhanh, tính cập nhật thời sự của báo bị hạn chế hơn so với
phát thanh, truyền hình và đặc biệt là báo mạng điện tử.
-
Hai là: sự đơn điệu và giới hạn khả năng giải mã tín hiệu thơng tin dễ
làm cho việc đọc báo in bị giảm sự hứng thú nếu nội dung không được chú ý
cần thiết. Mặt khác, nó hạn chế phạm vi tác động của báo in vì chỉ có người biết
chữ mới có khả năng đọc báo . Riêng về mặt này phát thanh và truyền hình có
ưu thế hơn hẳn so với báo in khi mà hầu như toàn bộ các thành viên của xã hội
bất kể trình độ văn hóa như thế nào đều có thể tiếp nhận thơng tin do chúng
mang lại.
-
Ba là: việc phát hành báo in được thực hiện theo phương thức trao
tay, vì thế việc báo in đến tay người đọc sớm hay muộn phụ thuộc vào trình độ
phát triển giao thông và các phương tiện chuyên chở, phân phối báo. Đối với
các nước chậm phát triển , báo in chủ yếu chỉ được phát hành ở các thành phố,
thị trấn đông dân cư, thuận lợi về giao thông đi lại. Ở các địa phương xa trung
9
tâm, báo in thường đến muộn, tin tức trở nên lạc hậu. Vì thế ở khu vực này, ảnh
hưởng của thông tin từ báo in rất hạn chế.
2. Sự tác động của báo mạng điện tử đến loại hình báo in
Vì những hạn chế của báo in trong tương quan với những lợi thế của phát
thanh- truyền hình và báo mạng mà trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX, một vài
nhà nghiên cứu truyền thơng đã tiên đốn rằng báo in sẽ bị phát thanh, truyền
hình và báo mạng thay thế hoàn toàn vào cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên thực tế đã
chứng minh và cho thấy : vai trị của báo in là khơng thể thay thế. Một khi con
người cịn cần có những thơng tin thời sự có chiều sâu, có tính xác định cao thì
báo in còn tồn tại và phát triển. Dựa vào vai trò, thế mạnh đó, báo in có thể tìm
ra con đường rộng rãi cho mình bằng sự phân chia chức năng, tìm tịi, phát huy
những thế mạnh của mình mà phát thanh, truyền hình và báo mạng khơng thể
thay thế.
Một trong những tác động lớn nhất của báo mạng đối với báo in đó là: việc
các tờ báo in cho xuất bản phiên bản điện tử. Hiên nay các tờ báo in lớn như:
báo Nhân dân , báo Dân trí, các tạp chí như tạp chí Đảng Cộng Sản, tạp chí kinh
tế, tạp chí truyền hình, các tờ báo lớn nhỏ khác đều có các phiên bản điện tử .
10
( Báo nhandan.com phiên bản điện tử của báo Nhân dân)
Bên cạnh việc cho sản phẩm báo in của mình lên mạng thì báo in cịn có
những thay đổi khác để khẳng định vị trí của mình trong làng truyền thơng, đó
là sự thay đổi về hình thức và nội dung. Báo in đang phát huy những lợi thế của
mình, đó là việc đi sâu phân tích, tổng hợp lại các sự kiện để bạn đọc thấy rõ
hơn, có cái nhìn tồn cảnh hơn về sự kiện đó. Điều này khác với báo mạng hay
truyền hình đó là chỉ đưa tin nhanh mà khơng phân tích sự kiện một cách sâu
sắc.
11
Báo in tiếp tục phát huy những ưu điểm của loại hình báo chí truyền thống,
sự thân thiện gần gũi với bạn đọc. Ở báo in bạn đọc không cần có nhiều kỹ kiến
thức hay trình độ để sử dụng báo mạng ( trình độ tin học, thiết bị kết nối
internet, ngoại ngữ…) hay các phương tiện cồng kềnh, đắt tiền để xem truyền
hình. Báo in vừa tiện lợi, bạn đọc có thể cầm nắm hay cất giữ dùng làm tài liệu
khi cần, điều này tác động trực tiếp đến tâm lý bạn đọc đặc biệt là người lớn
tuổi.
12
Chương III: Sự tác động của Báo mạng điện tử đối với
Báo Phát thanh
1. Đặc điểm của báo phát thanh.
Phát thanh( radio) là loại hình truyền thơng đại chúng, trong đó nội dung
thơng tin được truyền tải qua âm thanh. Âm thanh trong phát thanh bao gồm lời
nói, âm nhạc, các loại tiếng động làm nền hoặc minh họa cho lời nói như tiếng
mưa, gió, nước chảy, sóng vỗ, chim hót, tiếng ồn đường phố…
Thuật ngữ phát thanh( radio) thực ra bao gồm cả hai loại hình nhỏ trong đó
là phát thanh qua làn sóng điện và loại hình thứ nhất là cơ bản, yếu tố quan
trọng nhất làm nên chất lượng và sức mạnh to lớn của phát thanh. Nhờ nguyên
tắc hoạt động này mà phát thanh có thể chuyên chở thông tin đến bât cứ đâu.
Phát thanh đã trở thành quen thuộc trong nếp sống của mỗi chúng ta. Cho
dù truyền hình, báo in, báo mạng.v..v.. vẫn tiếp tục mở rộng phạm vi ảnh
hưởng, nâng cao chất lượng và khả năng đáp ứng nhu cầu phong phú của xã
hội, song phát thanh vẫn là một phương tiện thông tin đại chúng không thể thay
thế. Phát thanh mang trong mình những ưu điểm sau:
-
Một là: hơn hẳn các loại hình truyền thơng bằng ấn phẩm, hình họa,
phát thanh chuyển tải thông tin cùng với sự biểu cảm, cho phép thể hiện trạng
thái tâm lý và thái độ tình cảm. Tiếng nói, âm nhạc và những âm thanh sống
động làm cho phát thanh gần gũi hơn với cuộc sống thực, thu hút sự chú ý của
công chúng.
-
Hai là: phát thanh có khả năng to lớn trong việc cung cấp cho cơng
chúng những thơng tin nhanh nhất, những chương trình âm nhạc giải trí với
13
chất lượng cao. Phương tiện, thiết bị và phát thu tín hiệu, phát thanh cũng gọn
nhẹ hơn. Phát thanh có lợi thế hơn hẳn trong việc tiếp cận nguồn tin đối với
những địa điểm hiểm trở, cách xa các trung tâm đô thị. Thông tin truyền dẫn
qua phát thanh, về tổng thể đều nhanh hơn hẳn truyền hình và báo in.
-
Ba là: phát thanh có sức mạnh đặc biệt trong việc truyền phát thông
tin theo diện rộng nhằm tạo ra những hiệu ứng xã hội một cách nhanh chóng.
Cụ thể: máy thu thanh nhỏ bé tiện dụng, giá rẻ phù hợp với mọi đối tượng; việc
tiếp nhận thông tin diễn ra nhanh và tiện lợi không gây ảnh hưởng tới các hoạt
động khác của con người, người ta có thể vừa lái xe vừa ăn uống, vừa làm nội
trợ…
Vì vậy, phát thanh trở thành một phương tiện truyền thanh gắn bó và thân
thiết với từng cá nhân…Đó là những yếu tố tạo nên sức mạnh của phát thanh
mà các loại hình truyền thơng đại chúng khác khơng thể có. Tuy nhiên những
hạn chế của phát thanh có thể nhận thấy dễ dàng:
-
Một là: mức độ xác định của thông tin tiếp nhận. Do cách tiếp nhận
duy nhất là nghe nên thơng tin xuất hiện theo chuỗi tín hiệu âm thanh tuyến
tính. Người nghe hồn tồn phụ thuộc và bị động vào tốc độ, trình tự vận hành
của dịng âm thanh. Chỉ cần một thời điểm không tập trung chú ý đã có thể hiểu
khơng đúng hay khơng đầy đủ nội dung thơng điệp.
-
Hai là: những thơng tin có logic thường có nhiều mối quan hệ đan xen
phức tạp, nên khi phát trên phát thanh sẽ có hiệu quả thấp. Bởi vì, người ta rất
khó theo dõi những thơng tin đó khi mà trí nhớ nhanh của con người rất có hạn.
Thậm chí sự diễn đạt dài dịng và phức tạp thì người ta khơng thể ghi nhớ kịp
những thơng tin đầu tiên nên khơng thể hình dung đầy đủ tồn bộ nội dung
phán đoán.
14
3. Sự tác động của báo mạng đến loại hình báo phát thanh
Cuộc cách mạng của công nghệ kỹ thuật số và sự bùng phát mạnh mẽ của
mạng thông tin toàn cầu interrnet đã buộc người ta phải đặt ra những câu hỏi về
sự tồn tại của các loại hình báo chí truyền thống như báo in, phát thanh và kể cả
truyền hình.
Riêng với báo phát thanh ở Việt Nam - một loại hình báo chí vốn đang
chịu nhiều sức ép trong mấy thập kỷ vừa qua thì vấn đề này lại càng trở nên bức
xúc hơn bao giờ hết.
Là loại hình truyền thơng ra đời sớm nhất, gắn với sự ra đời của nướcViệt
Nam độc lập từ năm 1945, phát thanh Việt Nam đã gắn với từng bước thăng
trầm của lịch sử dân tộc qua hơn 65 năm với rất nhiều biến động khốc liệt và
hào hùng của lịch sử. Tuy nhiên, trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ
trước và kể cả khi bước vào thập niên đầu tiên của thế kỷ này, báo chí phát
thanh dần mất vị thế số một của mình do sự lớn mạnh của truyền hình. Nói cách
khác, việc truyền hình lên ngơi cũng đồng nghĩa với việc phát thanh trở thành
một loại hình yếm thế; truyền hình càng phát triển thì phát thanh – đặc biệt là
phát thanh ở các địa phương nghèo ngày càng trở nên teo tóp, mất dần thính
giả.
Trong bối cảnh đó, sự bùng nổ với tốc độ chóng mặt của mạng interrnet đã
tiếp tục đẩy các loại hình báo chí truyền thống (trong đó có phát thanh) vào cái
thế phải chống đỡ, phải gồng lên để tồn tại… Trong những năm vừa qua, báo
phát thanh luôn phải đứng trước sự lựa chọn:hoặc sẽ bị tiêu diệt, hoặc phải tiếp
tục vận động vươn lên để thích ứng và tồn tại. Ngay cả truyền hình cũng phải
đối mặt với sự thách thức của interrnet.
15
Tuy nhiên, bất chấp những dự đoán bi quan, một số nhà nghiên cứu về báo
chí phát thanh trên thế giới lại đưa ra những dự đoán sáng sủa về tương lai của
phát thanh trong bối cảnh bùng nổ các phương tiện truyền thông đầu thế kỷ
XXI này
Theo xu hướng biến đổi của ngôn ngữ truyền thông, ngôn ngữ đa giọng
của phát thanh hiện đại phù hợp với tâm lý và nhu cầu hưởng thụ thông tin của
công chúng báo chí nhiều hơn. Trong cuộc sống hiện đại, tác phong công
nghiệp tạo ra áp lực rất lớn về công việc và thời gian cho con người, báo phát
thanh sẽ tạo ra sự thư giãn giải trí cũng như tiếp nhận thông tin tiện lợi bất cứ ở
đâu và bất cứ lúc nào, kể cả khi đang nghỉ ngơi cũng như đang làm việc mà các
loại hình báo chí khác khơng thể có được. Với thế mạnh riêng của mình, báo
phát thanh sẽ khơng ngừng củng cố vị trí của mình trong hệ thống báo chí,
truyền thơng.
Ở thời điểm này, bức tranh chung về hệ thống phát thanh ở Việt Nam vẫn
có cả hai gam màu sáng – tối như đã nêu trên. Gam màu tối là sự teo tóp của
phát thanh trước sự lấn át của truyền hình, báo in, báo mạng. Hiện tượng này
thể hiện khá phổ biến ở hệ thống các đài phát thanh và truyền hình cấp tỉnh, cấp
huyện, thị và cấp xã, phường tại các địa phương trong cả nước, đặc biệt là tại
các tỉnh miền núi vốn còn nghèo và tại các vùng sâu vùng xa…
Gam màu tươi sáng chủ yếu được thể hiện trong sự vận động phát triển của
Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN) và một số Đài địa phương mạnh như Đài
Tiếng nói Nhân dân TP Hồ Chí Minh, Đài Tiếng nói Nhân dân tỉnh Phú Yên,
Đài Phát thanh và Truyền hình các tỉnh Vĩnh Long, Bình Dương, Quảng Ninh,
Hải Phịng v.v. Ở các đài này, phát thanh vẫn tiếp tục phát huy hiệu quả và có
được lượng cơng chúng thính giả thường xun và đông đảo.
16
Một trong những thế mạnh của báo phát thanh được thính giả đánh giá cao
là những người làm báo phát thanh biết cách tôn trọng người nghe và tác động
nhanh, hiệu quả đến cơng chúng. Nói cách khác, sức hấp dẫn của báo phát
thanh chính là ở là sự thân mật, gần gũi với cơng chúng thính giả.
Với mục tiêu thu hút thính giả, tạo ra sức sống cho làn sóng phát thanh,
những người làm báo phát thanh hiện đại không chỉ quan tâm đến việc đem lại
cho công chúng những thơng tin nóng hổi, bổ ích, gần gũi với cuộc sống thường
nhật của người nghe mà còn là ở cách thể hiện những thơng tin đó một cách
thân tình, gần gũi “như nói với một người bạn”. Người làm báo phát thanh ngày
này rất quan tâm đến những thói quen và sở thích của từng nhóm cơng chúng
nghe đài, khơng ngừng cải tiến về hình thức để các chương trình phát thanh
ngày càng gần gũi hơn với thính giả, phù hợp với từng đối tượng nghe đài, đáp
ứng thị hiếu ở từng độ tuổi.
Có thể lấy ví dụ về một kênh phát thanh rất thành công hiện nay là Kênh
VOV Giao thơng phát trên sóng FM 91Mhz của Đài TNVN. Ngay từ khi ra đời,
VOV Giao thông lập tức đã trở thành bạn đồng hành thân thiết, là nơi giao lưu,
tương tác, trao đổi tình cảm của hàng trăm nghìn người lái xe ơ tơ - nhất là ở
các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Có thể thấy chương
trình phát thanh hiện đại này vừa là phát thanh trực tiếp, vừa là phát thanh
tương tác, phát thanh thực tế và được phát đồng thời trên cả sóng FM và trong
chương trình của Hệ phát thanh có hình của Đài TNVN trên mạng interrnet.
17
( Đài tiếng nói Việt Nam- VOV)
Tiếp đến là chuyên mục kể chuyện đêm khuya, câu chuyện của bạn nghe
đài, quà tặng âm nhạc, thông tin về những người con hy sinh, thế giới tuổi thơ...
Như vậy, trong xu hướng chung của báo chí hiện đại là hội tụ tất cả các
phương tiện biểu đạt (lời nói, âm nhạc, tiếng động, hình ảnh, màu sắc, bố cục,
giao diện trang báo…), phát thanh hiện đại ở Việt Nam khơng đứng ngồi cuộc
và bước đầu đã tìm được cách thích ứng hợp lý.
Những người làm phát thanh Việt Nam hiện nay đang cố gắng nâng cao
hiệu quả của thông tin phát thanh trong đời sống xã hội, đảm bảo vai trò định
hướng và hướng dẫn dư luận xã hội; hoàn thiện và tăng thêm các hệ chương
trình phát thanh; chú trọng nâng cao chất lượng nội dung các hệ chương trình,
vừa tồn diện vừa chuyên sâu, đáp ứng nhu cầu thông tin của mọi đối tượng
thính giả; tăng thời lượng, nâng cao chất lượng nội dung chương trình để đáp
ứng nhu cầu thông tin và mục tiêu giáo dục cộng đồng, nhất là đối với vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường phát thanh đối ngoại, tập trung vào tuyên
truyền đường lối đối ngoại của Việt Nam, phản ánh công cuộc xây dựng phát
18
triển của nhân dân ta; tăng cường hợp tác quốc tế, phát triển có trọng điểm các
cơ quan thường trú ở nước ngồi, đảm bảo thơng tin quốc tế nhanh nhạy, chính
xác, hấp dẫn…
Tuy nhiên, đó là với Đài Quốc gia và các Đài địa phương có truyền thống
và có tiềm lực mạnh, còn với hệ thống phát thanh cấp tỉnh, cấp huyện trong cả
nước thì vẫn cịn nhiều vấn đề cần phải được giải quyết để phát thanh tiếp tục
tồn tại và phát triển. Ngay cả với Đài TNVN, việc vận dụng các phương thức
sản xuất chương trình phát thanh hiện đại cũng đang còn nhiều câu hỏi đặt ra cả
về lý luận và thực tiễn chưa được trả lời.
Trong tình hình đó, việc nghiên cứu để chỉ ra những đặc điểm cơ bản của
phương thức sản xuất các chương trình phát thanh hiện đại, khẳng định xu
hướng vận động phát triển của phát thanh Việt Nam và những giải pháp giúp
cho hệ thống phát thanh Việt Nam phát triển đúng hướng, phù hợp với hoàn
cảnh và những điều kiện cụ thể của Việt Nam đang là một yêu cầu bức xúc đặt
ra không chỉ cho thực tiễn mà cịn cho cả cơng tác lý luận báo chí, truyền thơng
nói chung và lý luận chun ngành báo phát thanh ở Việt Nam.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể dự đốn trong thế kỷ XXI, báo phát
thanh nói chung và phát thanh ở Việt Nam sẽ lấy lại vị thế trước đây trong hệ
thống các phương tiện báo chí, truyền thơng đại chúng và sẽ có bước phát triển
mạnh cả về bề rộng và chiều sâu trong xu thế đa phương tiện.
19
Chương IV: Sự tác động của Báo mạng điện tử đối với
Báo truyền hình
1. Đặc điểm của báo truyền hình
Truyền hình là là một loại hình phương tiện truyền thơng đại chúng chuyển
tải thơng tin bằng hình ảnh động và âm thanh.
Sự xuất hiện của truyền hình như một điều thần kỳ trong sáng tạo của con
người, nó mang trong mình nhiều ưu điểm vượt trội:
-
Một là : truyền hình chuyển tải thơng tin bằng hình ảnh động và âm
thanh, sự kết hợp hài hịa này tạo cho truyền hình khả năng truyền tải vô cùng
phong phú . Hơn nữa khả năng đặc biệt này tạo cho truyền hình một khả năng
đặc biệt trong việc đa dạng hóa chức năng, đáp ứng nhu cầu thông tin xã hội
theo một dải tần rất rộng.
-
Hai là: truyền hình có sức hấp dẫn đặc biệt nhờ khả năng giao tiếp với
con người bằng cả thị giác và thính giác- hai giác quan quan trọng nhất. Ngày
nay khi mà chất lượng kỹ thuật hình ảnh ngày càng hồn thiện, khn khổ màn
hình ngày càng mở rộng, thì truyền hình ngày càng có khả năng hấp dẫn cơng
chúng hơn. Vì thế truyền hình trở thành kẻ cạnh tranh khổng lồ, đầy uy lực đối
với các loại hình truyền thơng đại chúng khác như: báo in, phát thanh…
-
Ba là: sức mạnh của truyền hình càng tăng lên do phạm vi ảnh hưởng
rộng rãi của nó. Với hình ảnh động, âm thanh, truyền hình đạt tuyệt đối về
phạm vi công chúng xã hội. Bất cứ người nào dù thuộc hệ thống ngơn ngữ cũng
có thể xem và hiểu (ít hay nhiều) những gì thể hiện trên truyền hình miễn là
20