Tải bản đầy đủ (.pdf) (261 trang)

(Luận án tiến sĩ) truyền kì việt nam thời trung đại từ góc nhìn huyền thoại (đối chiếu với truyền kì trung hoa thời trung đại)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.99 MB, 261 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỒNG THỊ THÙY DƯƠNG

TRUYỀN KÌ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
TỪ GĨC NHÌN HUYỀN THOẠI
(ĐỐI CHIẾU VỚI TRUYỀN KÌ TRUNG HOA
THỜI TRUNG ĐẠI)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021

luan an


luan an


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỒNG THỊ THÙY DƯƠNG

TRUYỀN KÌ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
TỪ GĨC NHÌN HUYỀN THOẠI
(ĐỐI CHIẾU VỚI TRUYỀN KÌ TRUNG HOA
THỜI TRUNG ĐẠI)
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số



: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐINH PHAN CẨM VÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021

luan an


luan an


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu khảo
sát, kết quả nghiên cứu trong luận án chưa được công bố trên bất cứ cơng trình nào
khác. Những đánh giá, nhận định trong luận án do cá nhân tôi nghiên cứu trên những
tư liệu xác thực.

Tác giả luận án
Hoàng Thị Thùy Dương

luan an


luan an



MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRUYỀN KÌ
VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI VÀ HƯỚNG TIẾP CẬN
CỦA ĐỀ TÀI ......................................................................................... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại ............. 8
1.1.1. Nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc độ thể loại .......... 8
1.1.2. Nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc độ tác phẩm...... 18
1.1.3. Nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc độ so sánh ........ 22
1.1.4. Nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc độ văn hóa
dân gian ................................................................................................. 25
1.2. Hướng tiếp cận của đề tài .............................................................................. 28
1.2.1. Lí thuyết cấu trúc ................................................................................... 29
1.2.2. Lí thuyết nhân học .................................................................................. 31
1.2.3. Lí thuyết phân tâm học ........................................................................... 32
1.2.4. Lí thuyết thi pháp học ............................................................................ 33
Tiểu kết ..................................................................................................................... 36
Chương 2. HUYỀN THOẠI VÀ SỰ THỂ HIỆN HUYỀN THOẠI TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM....................................................................... 37
2.1. Huyền thoại ................................................................................................... 37
2.2. Tư duy huyền thoại ........................................................................................ 44
2.2.1. Sự đồng nhất các phạm trù ..................................................................... 46
2.2.2. Sự dung chứa các cổ mẫu ....................................................................... 55
2.3. Nghệ thuật huyền thoại.................................................................................. 59
2.4. Sự thể hiện huyền thoại trong văn học Việt Nam ......................................... 64
2.4.1. Văn học dân gian .................................................................................... 65
2.4.2. Văn học viết ........................................................................................... 68

Tiểu kết ..................................................................................................................... 76

luan an


Chương 3. TRUYỀN KÌ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI – NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN TƯ DUY HUYỀN THOẠI (ĐỐI CHIẾU
VỚI TRUYỀN KÌ TRUNG HOA THỜI TRUNG ĐẠI) .............. 78
3.1. Thần thánh hóa các nhân vật của dân gian .................................................... 78
3.1.1. Nhân vật lịch sử ..................................................................................... 79
3.1.2. Nhân vật tôn giáo ................................................................................... 85
3.2. Tái sinh các cổ mẫu ....................................................................................... 91
3.2.1. Cổ mẫu thần ........................................................................................... 93
3.2.2. Cổ mẫu yêu ma ...................................................................................... 99
3.2.3. Cổ mẫu nước ........................................................................................ 104
3.2.4. Cổ mẫu đêm ......................................................................................... 109
Tiểu kết ................................................................................................................... 117
Chương 4. TRUYỀN KÌ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI – NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN HUYỀN
THOẠI (ĐỐI CHIẾU VỚI TRUYỀN KÌ

TRUNG HOA

THỜI TRUNG ĐẠI) ....................................................................... 118
4.1. Mơ típ huyền thoại trong truyền kì Việt Nam thời trung đại ...................... 119
4.1.1. Mơ típ hiển linh .................................................................................... 120
4.1.2. Mơ típ biến hình ................................................................................... 124
4.1.3. Mơ típ chinh phục cái chết ................................................................... 128
4.1.4. Mơ típ kết dun kì lạ .......................................................................... 132
4.2. Khơng gian huyền thoại trong truyền kì Việt Nam thời trung đại .............. 139

4.2.1. Không gian đồng hiện thực giới và hư giới ......................................... 140
4.2.2. Không gian đồng hiện trung tâm thần thiêng và ngoại vi thế tục ........ 150
4.3. Thời gian huyền thoại trong truyền kì Việt Nam thời trung đại ................. 154
4.3.1. Thời gian đồng hiện đồng đại .............................................................. 154
4.3.2. Thời gian đồng hiện lịch đại ................................................................ 158
Tiểu kết ................................................................................................................... 165
KẾT LUẬN............................................................................................................ 167
DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CƠNG BỐ CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.................................... 172
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 173
PHỤ LỤC

luan an


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong thế kỉ XX, huyền thoại học thực sự lớn mạnh bởi nhiều lí thuyết khác
nhau (lí thuyết triết học, lí thuyết nhân học, lí thuyết cấu trúc, lí thuyết phân tâm học,
lí thuyết biểu trưng...) phân tích vấn đề huyền thoại. Trên thế giới, trong những năm
gần đây, các lí thuyết đó đã tỏ rõ ưu thế của mình khi nó soi chiếu vào tác phẩm văn
học. Khi nhìn tác phẩm văn học từ góc nhìn huyền thoại, nhà nghiên cứu sẽ xác định
hình thái và chức năng gốc của các yếu tố huyền thoại trong văn hóa nguyên thủy.
Đặc biệt, nhà nghiên cứu có thể phân tích sự chuyển hóa của hình thái, chức năng của
các yếu tố huyền thoại khi di chuyển vào tác phẩm văn học.
1.2. Sự sáng tạo huyền thoại là một hiện tượng quan trọng của nhân loại. Huyền
thoại có tính ngun hợp, chứa đựng trong nó cả tư tưởng tôn giáo, khoa học, triết
học… của người nguyên thủy. Huyền thoại cũng từng là cái nôi của văn học. Về sau,

tùy từng thời đại mà văn học vẫn kế thừa huyền thoại theo những phương thức khác
nhau. Văn học dân gian dung chứa yếu tố huyền thoại thể hiện niềm tin thiêng liêng
của con người đối với một thế giới hoang đường, kì ảo tồn tại bên cạnh thế giới trần
tục. Văn học trung đại kế thừa các yếu tố huyền thoại từ góc độ tư duy lẫn nghệ thuật
xây dựng tác phẩm. Văn học hiện đại sử dụng huyền thoại thiên về phương thức nghệ
thuật huyền thoại. Việc tìm hiểu các yếu tố huyền thoại trong tác phẩm văn học là tìm
hiểu, phân tích, lí giải về sức sống bền bỉ của huyền thoại trong văn học. Qua đó, văn
hóa tâm linh của con người, của dân tộc được hé lộ; nhu cầu thể nghiệm những hình
thức nghệ thuật độc đáo được đề cao.
1.3. Truyện truyền kì là một thể loại của văn xi tự sự Việt Nam thời trung đại.
Sự ra đời của thể loại này đã khẳng định bước phát triển nhảy vọt về chất của văn
xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại. Truyền kì với nghệ thuật kết hợp ghi chép hiện
thực và hư cấu đã tạo nên những tác phẩm có hình thức mới lạ, hấp dẫn người đọc.
Truyền kì phản ánh hiện thực xã hội, tư tưởng con người đặc biệt là những vấn đề
tình cảm cá nhân. Các tác phẩm này xưa nay thường được nghiên cứu riêng lẻ dưới
góc độ xã hội học, thi pháp học… Tác phẩm văn học ln địi hỏi sự tìm hiểu dưới
nhiều góc độ để nó ln bộc lộ những ý nghĩa mới mẻ. Vì vậy, truyền kì Việt Nam

luan an


2
thời trung đại cần được nghiên cứu từ những góc nhìn khác để có thể bộc lộ những
giá trị đặc sắc của nó.
1.4. Là một thể loại bắt nguồn từ Trung Hoa, truyền kì đã bắt rễ sâu vào đời
sống văn hóa dân tộc Việt Nam. Q trình hình thành và phát triển của truyền kì ở
Việt Nam ghi nhận sự sáng tạo không ngừng của các nhà văn. Tuy nhiên, truyền kì
vẫn duy trì các đặc điểm thể loại: chứa đựng rất nhiều yếu tố kì ảo - minh chứng cho
sự ngả bóng của huyền thoại vào văn học. Các yếu tố huyền thoại trong truyền kì đã
tạo nên cái nhìn đa diện, đa chiều về hiện thực; làm mới nghệ thuật tự sự. Các yếu tố

huyền thoại này khẳng định truyền kì khơng chỉ là cầu nối của văn học dân gian và
văn học viết mà còn là một bước phát triển quan trọng của văn học trung đại và để lại
dấu ấn trong văn học hiện đại. Văn học hiện đại Việt Nam (đặc biệt là sau năm 1986)
có hàng loạt tác phẩm sử dụng nghệ thuật huyền thoại hóa để tìm về cội nguồn tâm
linh của con người... Việc tìm hiểu truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc nhìn
huyền thoại là sự tiếp cận vấn đề mang tính chất cốt lõi của thể loại. Tuy nhiên, vấn
đề này vẫn là một khoảng trống trong các đề tài nghiên cứu.
1.5. Vấn đề tìm hiểu truyện truyền kì là một nội dung quan trọng trong chương
trình giáo dục phổ thông và giáo dục đại học ở Việt Nam. Một số tác phẩm truyện
truyền kì được đưa vào chương trình Ngữ văn trung học cơ sở và trung học phổ thơng.
Một số tập truyện truyền kì là đối tượng nghiên cứu bắt buộc trong một số học phần
ở chương trình đại học, cao đẳng ngành Văn học, Sư phạm Ngữ văn… Huyền thoại
là một loại hình cổ xưa – ngắn gọn và đầy bí ẩn của lịch sử lồi người. Hình thái và
ý nghĩa của các yếu tố huyền thoại trong truyền kì thể hiện sự chi phối của đặc điểm
lịch sử, địa lí, văn học, văn hóa… của người Việt Nam qua từng thời đại. Việc giải
mã các yếu tố huyền thoại trong tác phẩm truyền kì sẽ giúp người đọc, người học hiểu
rõ hơn giá trị của tác phẩm. Điều này cũng phù hợp với xu thế tích hợp – lồng ghép
kiến thức liên quan với nhau trong từng môn và nhiều bộ môn - trong q trình giảng
dạy ở trường phổ thơng và đại học, cao đẳng.
1.6. Thể loại truyện truyền kì Việt Nam vốn có nguồn gốc từ truyện truyền kì
của Trung Hoa. Sự ảnh hưởng của thể loại truyền kì của Trung Hoa cũng lan tỏa sang
các nước Đông Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc… Truyện truyền kì Việt Nam đã có

luan an


3
quá trình hình thành và phát triển gắn liền với nền văn hóa và văn học dân tộc. Chúng
tơi xác định và lí giải sự tương đồng và khác biệt của việc sử dụng các yếu tố huyền
thoại trong truyền kì Việt Nam và Trung Hoa. Từ đó, chúng tơi làm rõ sự giao thoa

văn hóa và những giá trị văn hóa độc đáo của riêng mỗi nước. Bên cạnh đó, việc so
sánh này cịn làm rõ thêm những đặc điểm của một thời kì văn học dân tộc Việt Nam
như ý thức tự hào dân tộc trong bối cảnh Việt Nam thường xuyên có sự giao lưu với
các nước khác, đặc biệt là Trung Hoa. Hơn nữa, trong bối cảnh cả thế giới hội nhập,
việc đặt truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc nhìn huyền thoại (đối chiếu với
truyền kì Trung Hoa thời trung đại) cũng là tìm hiểu về sức sống của một thể loại văn
học vượt qua các bờ cõi và giới hạn.
Vì những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài Truyền kì Việt Nam thời trung đại từ
góc nhìn huyền thoại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại).
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được xây dựng nhằm nghiên cứu sự có mặt, nguồn gốc và ý nghĩa của
các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt Nam thời trung đại. Việc đối chiếu các
yếu tố huyền thoại trong truyền kì và trong thần thoại cho thấy các yếu tố huyền thoại
mặc dù vẫn giữ hình thái, ý nghĩa gốc nhưng đã có sự thay đổi cho phù hợp với dụng
ý nghệ thuật của tác giả truyền kì. Việc đối chiếu các yếu tố huyền thoại trong truyền
kì Việt Nam với truyền kì Trung Hoa cho thấy bên cạnh sự tương đồng cũng có khơng
ít sự khác biệt trong hệ thống truyền kì của hai nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát tổng quan tình hình nghiên cứu và xác định hướng tiếp cận của đề tài
- Phân tích các đặc điểm chủ yếu của huyền thoại và sự thể hiện huyền thoại
trong văn học Việt Nam
- Phân tích truyền kì Việt Nam thời trung đại từ phương diện tư duy huyền thoại
và phương diện nghệ thuật biểu hiện huyền thoại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa
thời trung đại).

luan an


4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là yếu tố huyền thoại trong các tác phẩm truyền
kì của Việt Nam, Trung Hoa thời trung đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chúng tôi khảo sát các tác phẩm tác phẩm truyền kì Việt Nam thời trung đại
trong văn bản: Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam; tập 1, 2 do Trần Nghĩa chủ
biên, nhà xuất bản Thế giới xuất bản năm 1997. Cụ thể, chúng tôi đã khảo sát các
truyện truyền kì trong các tác phẩm Thánh Tơng di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền
kì tân phả, Tân truyền kì lục, Vân nang tiểu sử, Truyện kí trích lục, Lan Trì kiến văn
lục. Một cơng trình khác mang tính quy mơ, hệ thống về truyền kì là tuyển tập Truyện
truyền kỳ Việt Nam (3 quyển gồm 6 tập) do nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi chủ
biên, do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1999. Tuyển tập này tập hợp 262 truyện
truyền kì và phỏng truyền kì của Việt Nam từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XX. Hiện nay
cơng trình này chỉ mới xuất bản quyển 2 (tập III, IV) và quyển 3 (tập V, VI). Vì thế,
chúng tơi chỉ có thể sử dụng cơng trình này như một tài liệu để tham khảo, để đối
chiếu với tài liệu khảo sát chính.
- Bên cạnh đó, chúng tơi khảo sát truyền kì Trung Hoa thời trung đại. Chúng
được thể hiện tập trung qua các tác phẩm truyền kì đời Đường; đoản thiên tiểu thuyết
đời Minh như Tiễn đăng tân thoại, đời Thanh với Liêu trai chí dị… Chúng tơi đã
khảo sát cụ thể các văn bản sau:
+ Đường đại truyền kì do Phùng Quý Sơn biên soạn, nhà xuất bản Đồng Nai
xuất bản năm 1995.
+ Tiễn đăng tân thoại trong Tiễn đăng tân thoại, Truyền kì mạn lục của Cù Hựu,
Nguyễn Dữ, nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1999.
+ Liêu trai chí dị, do Tản Đà, Đào Trinh Nhất, Nguyễn Văn Huyền dịch, nhà
xuất bản Văn học xuất bản năm 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phê bình huyền thoại là phương pháp chủ đạo. Cơ sở phương pháp luận của
phê bình huyền thoại là quan niệm cho rằng huyền thoại là nhân tố quyết định để hiểu


luan an


5
toàn bộ các tác phẩm nghệ thuật của nhân loại “Việc nhấn mạnh tính phổ qt của
huyền thoại trong tồn bộ hoạt động sáng tạo văn chương là một đặc điểm khu biệt
cơ bản của phê bình huyền thoại” (Đào Ngọc Chương, 2009, tr.67). Phương pháp này
sử dụng các lý thuyết của huyền thoại học để phân tích yếu tố huyền thoại trong tác
phẩm văn học, từ đó có sự đánh giá, định hướng cho sự sử dụng, sáng tạo huyền thoại.
Hiện nay, phê bình huyền thoại là một phương pháp nghiên cứu khá mới mẻ trên thế
giới, đang từng bước xác lập nội hàm khái niệm. Tuy mới mẻ nhưng ngành nghiên
cứu này đã tỏ ra rất hữu hiệu khi đưa các yếu tố ảo trong tác phẩm văn học về với cội
nguồn của nó là huyền thoại.
- Phê bình lịch sử, xã hội: chúng tơi tiến hành phân tích những yếu tố lịch sử,
xã hội tác động đến sự tồn tại của truyền kì Việt Nam thời trung đại. Ngồi ra chúng
tơi cũng phân tích vai trị của lịch sử, xã hội đối với sự thể hiện các yếu tố huyền thoại
trong truyền kì nói riêng, trong văn học Việt Nam nói chung.
- Phê bình thi pháp học: chúng tơi sử dụng các khái niệm của lí thuyết thi pháp
học để mơ hình hóa tác phẩm và phân tách các yếu tố.
Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản nêu trên, chúng tôi
sử dụng một số thao tác nghiên cứu cơ bản sau:
- Thao tác phân tích, tổng hợp: chúng tơi khảo sát các tư liệu để tổng hợp thành
bức tranh tổng quan nghiên cứu về truyền kì Việt Nam thời trung đại và các lí thuyết
chủ yếu của huyền thoại học. Chúng tơi phân tích hình thái, chức năng của các yếu
tố huyền thoại có trong thần thoại và trong tác phẩm truyền kì (Việt Nam và Trung
Hoa). Từ đó, chúng tơi đưa ra cái nhìn tổng thể về hình thái, ý nghĩa của các yếu tố
huyền thoại và sự thay đổi của chúng khi di chuyển từ hệ thống thần thoại sang hệ
thống truyền kì (nếu có).
- Thao tác so sánh, đối chiếu: chúng tôi so sánh, đối chiếu các yếu tố huyền

thoại trong thần thoại và trong truyền kì, các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt
Nam và truyền kì Trung Hoa để thấy sự tương đồng và khác biệt.
- Thao tác thống kê, phân loại: chúng tôi đưa ra những số liệu cụ thể về vấn đề
các yếu tố huyền thoại chiếm số lượng như thế nào trong tác phẩm truyền kì Việt
Nam và Trung Hoa.

luan an


6
5. Đóng góp của luận án
- Luận án xác định, thống kê và phân loại các yếu tố huyền thoại trong truyền
kì Việt Nam và Trung Hoa.
- Luận án vận dụng lí thuyết của huyền thoại học để lí giải, phân tích hình thái
và ý nghĩa của các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt Nam và Trung Hoa thời
trung đại.
- Luận án xác định, phân tích sự tương đồng của hình thái, ý nghĩa của huyền
thoại trong các tác phẩm truyền kì và trong thần thoại. Bên cạnh đó, luận án cũng xác
định, phân tích sự khác biệt của huyền thoại trong truyền kì và trong thần thoại. Qua
đó, luận án phân tích văn hóa dân gian, dấu ấn thời đại và sự sáng tạo của nhà văn
trong việc kế thừa các yếu tố huyền thoại.
- Luận án xác định, phân tích và lí giải sự tương đồng và khác biệt trong hình
thái và ý nghĩa của các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt Nam và Trung Hoa.
Từ đó, luận án chỉ rõ sự giao thoa văn hóa và những giá trị riêng biệt của mỗi quốc
gia.
- Luận án là cơng trình đầu tiên xác định, phân tích các yếu tố huyền thoại trong
truyền kì Việt Nam thời trung đại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại).
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu và
giảng dạy vấn đề huyền thoại trong văn học Việt Nam trung đại.
6. Cấu trúc của luận án

Luận án bao gồm các phần chính là mục lục, phần mở đầu, nội dung, kết luận,
tài liệu tham khảo và phụ lục.
Phần mở đầu giới thiệu ngắn gọn về cơng trình nghiên cứu, bao gồm lí do chọn
đề tài, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu, đóng góp của luận án, cấu trúc của luận án.
Phần nội dung bao gồm bốn chương. Chương một trình bày tổng quan tình hình
nghiên cứu và hướng tiếp cận của đề tài. Chương hai, ba và bốn trình bày kết quả
nghiên cứu của đề tài; cụ thể là huyền thoại và sự thể hiện huyền thoại trong văn học
Việt Nam, truyền kì Việt Nam thời trung đại nhìn từ phương diện tư duy huyền thoại

luan an


7
(đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại) và phương diện nghệ thuật biểu
hiện huyền thoại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại).
Phần kết luận trình bày khái quát kết quả nghiên cứu.

luan an


8

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
TRUYỀN KÌ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
VÀ HƯỚNG TIẾP CẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại
Khi tìm hiểu đề tài Truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc nhìn huyền thoại
(đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại), chúng tơi đã căn cứ vào đặc điểm
nội dung, nghệ thuật của tác phẩm tự sự ở Việt Nam từ thế kỉ X - XIX; sự phân chia

thể loại của các nhà nghiên cứu đi trước. Từ đó, chúng tơi xác định phạm vi khảo sát
các tác phẩm truyền kì tiêu biểu của Việt Nam thời trung đại bao gồm các tác phẩm
chủ yếu sau: Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông ?), Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn
Dữ), Truyền kỳ tân phả (Đồn Thị Điểm), Tân truyền kỳ lục (Phạm Q Thích),
Truyện ký trích lục (Khuyết danh), Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục), Lan Trì kiến
văn lục (Vũ Trinh). Là một trong những thể loại tiêu biểu của văn xuôi tự sự trung
đại, truyền kì Việt Nam nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
1.1.1. Nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc độ thể loại
1.1.1.1. Tên gọi
Xung quanh các tác phẩm này nói riêng và thể loại truyền kì nói chung, các nhà
nghiên cứu đã gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau để thể hiện các đặc điểm của tác
phẩm và thể loại.
Nhiều nhà nghiên cứu gọi tên các tác phẩm này là truyện truyền kì và cho rằng
các truyện này thuộc kho tàng truyện chữ Hán của văn học Việt Nam thời trung đại.
Trong Thi pháp văn học trung đại, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã xác định văn học
trung đại Việt Nam gồm 5 loại lớn: các thể thơ trữ tình, phú và các thể văn (chiếu,
cáo, sách, dụ, hịch; tấu, nghị, biểu, khải, sớ, đối sách; thư, luận, biện, thuyết; văn tế,
điếu văn; bi, minh, chí; tự, bạt; truyện, trạng; kí, tạp kí, kí sự), thể loại truyện chữ
Hán (truyện thần linh, kì quái, anh tú; truyện truyền kì; tiểu thuyết chương hồi), diễn
ca lịch sử và truyện thơ Nôm. Trong Loại hình văn học trung đại Việt Nam, nhà
nghiên cứu Biện Minh Điền phân chia văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam thành
truyện, kí, tiểu thuyết chương hồi. Theo nhà nghiên cứu này, “truyền kì” khơng chỉ

luan an


9
là một thể loại tiêu biểu của truyện mà còn là một xu hướng. Bởi vì sau thành cơng
của Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Thánh Tơng di thảo (Lê Thánh Tơng ?); Đồn
Thị Điểm đã biên soạn Truyền kì tân phả, Phạm Q Thích biên soạn Tân truyền kì

lục… nhằm làm mới truyện truyền kì trên cơ sở kế thừa. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Huệ Chi đã biên soạn bộ Truyện truyền kì Việt Nam với 262 truyện truyền kì và phỏng
truyền kì của Việt Nam từ thế kỉ XIV đến XX. Trong đó, 216 truyện dịch từ chữ Hán
được chọn lọc từ 21 tập truyện chữ Hán. Ông xác định truyện truyền kì là một bộ
phận của truyện chữ Hán. Ơng cũng đã khẳng định truyền kì là một loại hình văn xi
nghệ thuật có sự tham gia đậm nét của yếu tố kì ảo; thơ và văn xi biền ngẫu làm
thành những thành phần hữu cơ trong kết cấu.
Một số nhà nghiên cứu gọi tên các tác phẩm Truyền kì mạn lục, Thánh Tơng di
thảo… là tiểu thuyết truyền kì bên cạnh thuật ngữ truyện truyền kì. Từ điển thuật ngữ
văn học đã xác định tiểu thuyết truyền kì cịn gọi là truyện truyền kì, là:
thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở thời
Đường. Tên gọi này đến cuối đời Đường mới có. “Kì” nghĩa là khơng có thực,
nhấn mạnh tính chất hư cấu (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi,
2011, tr.342).

Trong Tiếp cận thể loại văn học cổ Trung Quốc, nhà nghiên cứu Đinh Phan
Cẩm Vân xác định truyền kì/ tiểu thuyết truyền kì là một thể loại. Từ thế kỉ IV-III
trước công nguyên, Trang Tử đã dùng từ “tiểu thuyết”. Về sau, một số người dùng từ
này để khẳng định tính chất vụn vặt, nhỏ bé của những ghi chép, những tác phẩm
khơng thuộc dịng văn học chính thống. Các tác phẩm chí qi thuộc dịng tiểu thuyết
này. Các tác phẩm truyền kì có nguồn gốc từ chí quái. Các tác phẩm tiêu biểu như
Sưu thần kí, Thế thuyết tân ngữ, Thập di kí… tuy là tiểu thuyết chí quái nhưng các
tác giả đều nhấn mạnh đến tính xác thực của câu chuyện. Điều này chứng tỏ các tác
phẩm này có sự gắn bó chặt chẽ với lịch sử. Đến đời Đường, sự hội tụ của nhiều yếu
tố như kinh tế thịnh trị, tam giáo đồng nguyên, chế độ thi cử đề cao thi ca, sự phát
triển của các loại hình nghệ thuật… đã có sự ảnh hưởng trực tiếp/ gián tiếp tới sự ra
đời và phổ biến của thể loại truyền kì. Thời kì này, truyền kì có bước nhảy vọt về chất
và thực sự chín muồi. Truyền kì viết về những nhân vật đời thường. Đặc biệt, truyền

luan an



10
kì bày tỏ nỗi bất bình của con người trước thời cuộc lúc bấy giờ. Khơng chỉ có nội
dung phong phú, truyền kì cịn có nghệ thuật khúc chiết, tình tiết đa dạng. Các tác giả
đã đan xen khéo léo các yếu tố hư và thực. Truyền kì cũng thường chứa đựng những
câu văn biền ngẫu, thơ ca thể hiện tài năng, sở thích của tác giả và sự trau chuốt dành
cho tác phẩm. Sang đời Minh, tiểu thuyết truyền kì - với đặc trưng “truyền kì có nghĩa
truyền đi một sự lạ” - được coi là một thể loại độc lập với kinh sử. Nhìn chung, ở
Trung Hoa, truyền kì là một trong các thể loại tiêu biểu của văn ngôn. Trong Tổng
tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Nghĩa xác định tiểu thuyết là
thể loại bao gồm các loại cụ thể: tiểu thuyết bút kí, tiểu thuyết chí qi, tiểu thuyết
truyền kì, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết cơng án, tiểu thuyết diễm tình, du kí. Trong
đó, truyền kì gắn liền với “tác ý hiếu kì”, được viết để thỏa mãn trí tị mị của con
người:
Loại tiểu thuyết này ra đời và phát triển trên cơ sở chí quái nhưng khác với
chí quái ở chỗ tác giả truyền kì sử dụng hư bút một cách hồn tồn chủ động, có
ý thức. Nếu cơng việc của chí quái là biên chép nhằm lưu lại cho đời một chuyện
lạ có ý nghĩa răn khun thì cơng việc chủ yếu của truyền kì lại là sáng tác, mượn
câu chuyện hiếm thấy để gửi gắm tâm sự của người cầm bút (Trần Nghĩa, 1997a,
tr.11).

Trong cơng trình Nghiên cứu so sánh “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn
lục”, nhà nghiên cứu Trần Ích Nguyên phân chia tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam thành
năm loại: truyền thuyết thần thoại, tiểu thuyết truyền kì, lịch sử diễn nghĩa, tiểu thuyết
bút kí và tiểu thuyết hiện đại. Ơng đã liệt kê các tác phẩm truyền kì được in trong Việt
Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san: Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Thánh Tơng
di thảo, Việt Nam kì phùng sự lục. Ngồi ra, theo ơng, Đại Nam kì truyện, Tân truyền
kì lục, Hội chân biên cũng là tiểu thuyết truyền kì. Trong bài báo Từ truyền kì Trung
Quốc đến truyền kì Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc An cũng xác định các tác

phẩm như Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục, Truyền kì tân
lục… là tiểu thuyết truyền kì. Sách Kho tàng truyện truyền kì Việt Nam bao gồm 83
truyện truyền kì tiêu biểu. Các truyện trong sách này được Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn
Quang Ân chọn lọc từ Tang thương ngẫu lục, Truyền kì mạn lục, Cơng dư tiệp ký,

luan an


11
Kiến văn tiểu lục, Hát đông thư dị, Vũ trung tùy bút, Thánh Tơng di thảo, Tân truyền
kì lục, Lan Trì kiến văn lục, Sơn cư tạp thuật.
Một số nhà nghiên cứu gọi các tác phẩm thường được xem là truyền kì là truyện
ngắn trung đại. Trong bài viết Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sách văn học (sách
Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam), nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na
cho rằng:
Truyền kì nếu đứng riêng, là một thể tài của truyện ngắn trung đại. Do các
nhân vật, tình tiết, kết cấu… của truyện phần lớn là lạ kì đặc biệt, nên người ta
gọi chúng là truyền kì. Nhưng đứng trong cụm từ “Truyền kì mạn lục” thì,
“truyền kì” làm định ngữ, chỉ tính chất của thể “mạn lục” – một thể tự sự viết tự
do, tùy hứng theo ý đồ sáng tác của tác giả, khơng bị câu thúc bởi bất kì một lí
do nào cả (Nguyễn Đăng Na, 2006, tr.212).

Trong Văn học trung đại Việt Nam: thể loại, con người, ngôn ngữ, nhà nghiên
cứu Đinh Thị Khang phân chia văn học trung đại thành văn học chức năng (chức năng
hành chính, chức năng tôn giáo, chức năng nghi lễ tập tục) và văn học nghệ thuật.
Trong đó, truyền kì là một thể loại quan trọng của văn học nghệ thuật. Nhà nghiên
cứu này cũng gọi các tác phẩm của Truyền kì mạn lục là truyện ngắn truyền kì, truyện
ngắn nghệ thuật, tác phẩm văn học kì ảo. Trong bài viết Thi pháp truyện ngắn trung
đại Việt Nam (sách Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa), nhà nghiên
cứu Trần Nho Thìn cho rằng:

Khái niệm truyện ngắn trung đại là một khái niệm rất tương đối của khoa
nghiên cứu văn học hiện đại áp dụng cho thực tế văn học thời trung đại. Thời
trung đại chưa hề biết đến khái niệm này. Thay vì dùng một khái niệm có tính
chất khái quát, người xưa có tên gọi riêng cho mỗi cuốn sách (chí, lục, phả, bút,
tùy bút, kí, kí sự, thuyết…). Ngay trong một cuốn sách lại có những tác phẩm
khơng hoàn toàn giống nhau về đặc trưng thể loại (Trần Nho Thìn, 2008, tr.143).

Ơng đã dựa vào cốt truyện để phân loại truyện ngắn trung đại theo ba nhóm
chính: nhóm tác phẩm lấy cốt truyện từ chính sử (Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm
trong Cơng dư tiệp kí…), nhóm tác phẩm vay mượn cốt truyện Trung Quốc (Mộc
miên thụ truyện trong Truyền kì mạn lục…), nhóm tác phẩm có cốt truyện hư cấu
thuần túy Việt Nam. Ngồi ra, ơng đã tiến hành phân tích thi pháp truyện ngắn trung

luan an


12
đại trên cơ sở xác định hai loại truyện chủ yếu, viết về hai nhóm nhân vật chính: loại
truyện viết về các nhân vật lịch sử, các mẫu hình nhân cách cao thượng, những kiểu
“thánh nhân”, “dị nhân” có nét phi thường, kì vĩ; loại truyện viết về những người bình
thường, con người tự nhiên kiểu “phàm nhân”. Như vậy, khái niệm truyện ngắn trung
đại chỉ một đối tượng tác phẩm rộng rãi, bao gồm các tác phẩm thường được xem là
bút kí, chí qi, truyền kì. Ơng cũng đánh giá Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ) là tác
phẩm truyền kì tiêu biểu nhất. Trong cuốn Truyện ngắn – những vấn đề lý thuyết và
thực tiễn thể loại, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng xác định các tác phẩm truyền kì là
truyện ngắn dân tộc hình thành trong buổi đầu tiên của lịch sử thể loại.
Ngoài những tên gọi phổ biến như trên, các tác phẩm thuộc phạm vi nghiên cứu
của chúng tơi cịn có một số tên gọi khác. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân xem Thánh
Tông di thảo là một tập truyện kí tự sự, là cột mốc đánh dấu sự trưởng thành của văn
tự sự ở Việt Nam (sách Khảo và luận một số thể loại tác gia – tác phẩm văn học trung

đại Việt Nam, tập 1). Nhà nghiên cứu này cũng xác định các tác phẩm truyền kì là
một loại văn (sách Khảo và luận một số thể loại tác gia – tác phẩm văn học trung đại
Việt Nam, tập 2). Trong bài viết Tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học cổ
trung đại và cận đại Đông Tây (thuộc sách Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học),
nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã xác định văn học Việt Nam có dịng văn học kỳ
ảo với số lượng tác phẩm phong phú. Trong bài viết Thể loại truyện kì ảo Việt Nam
trung đại – quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm, nhà nghiên cứu Vũ Thanh
cũng dùng khái niệm truyện kì ảo thời trung đại để chỉ chung các loại truyện như u
linh, chích qi, truyền kì, chí dị. Vương Tiểu Thuẫn chia tiểu thuyết cổ của Việt
Nam thành bốn loại: truyền kì tiểu thuyết, lịch sử tiểu thuyết, bút kí tiểu thuyết, thần
thoại tiểu thuyết (Vương Tiểu Thuẫn, 2000). Trong đó, các truyền kì tiểu thuyết cịn
được gọi là các đoản thiên bằng văn ngơn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân gọi
chung các tác phẩm Lĩnh Nam chích qi, Truyền kì mạn lục… của Việt Nam, Liêu
trai chí dị của Trung Hoa là văn xi huyễn tưởng. Từ “huyễn tưởng” ở đây được
dùng để chỉ một hình thái nhận thức thẩm mĩ dùng thủ pháp kết hợp hư và thực để
thể hiện tư tưởng của nhà văn (Nguyễn Văn Dân, 1984). Trong cơng trình Truyện ký
Việt Nam trong thư tịch cổ, nhà nghiên cứu Lâm Giang, Nguyễn Văn Tuân xác định

luan an


13
truyện truyền kì là những tác phẩm có những tình tiết li kì được viết ra để khuyên răn
người đời, gửi gắm tâm sự của người viết. Các truyện truyện truyền kì này cùng với
truyện chí qi, truyện bút kí hay tạp kí, truyện lịch sử, truyện hài hước châm biếm,
truyện cơng án, truyện sự tích được gọi chung là truyện ký.
Qua quá trình khảo sát cách dùng khái niệm “truyền kì” và cách gọi tên thể
loại/thể tài của các tác phẩm trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các nhà
nghiên cứu đã có nhiều cách gọi tên, phân loại khác nhau. Điều này xuất phát từ cái
nhìn đa chiều của các nhà nghiên cứu đối với văn chương và sự không thuần nhất về

tên gọi, đặc điểm của các truyện, tập truyện trung đại Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm
“truyền kì” được số đơng nhà nghiên cứu đề cập.
1.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển
Trong Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại: Những vấn đề văn xi tự sự, khi
xác định tiến trình văn xi tự sự Việt Nam trung đại, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Na đã đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của truyền kì như sau:
-Thế kỉ X – XIV
Các tác phẩm văn học ra đời dựa vào văn học dân gian (Lĩnh Nam chích quái...)
và văn học chức năng (Việt điện u linh tập, Thiền uyển tập anh ngữ lục, Tam Tổ thực
lục…). Nội dung chủ yếu của các tác phẩm này là khẳng định nước Việt là một quốc
gia độc lập. Các tác phẩm này sử dụng nhiều mơ típ kì ảo của văn học dân gian, là
cơ sở cho sự ra đời của truyền kì.
-Thế kỉ XV – XVI
Truyện truyền kì xuất hiện, tạo nên sự thành công vượt bậc của văn xuôi tự sự
trung đại. Các tác phẩm tiêu biểu là Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Thánh Tông di
thảo (Lê Thánh Tông ?)… đã lấy con người làm đối tượng và trung tâm phản ánh,
dùng hình thức kì ảo làm phương tiện chuyển tải nội dung. Đặc biệt, Nguyễn Dữ đã
“phát hiện ra con người có sức mạnh làm chúa tể mn lồi” (Nguyễn Đăng Na, 2007,
tr.21) và cùng với Lê Thánh Tông “đưa người đọc vào một thế giới diệu huyền của
tình yêu” (Nguyễn Đăng Na, 2007, tr.22).
-Thế kỉ XVIII – XIX

luan an


14
Văn học đề cao sự phản ánh hiện thực. Một số tác phẩm thể hiện kì vọng “canh
tân” truyền kì như Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục… Tác phẩm đã tăng cường
việc phản ánh hiện thực, lịch sử; giảm bớt việc sử dụng các yếu tố kì ảo. Sự phóng
khống, huyền ảo của truyền kì bị giảm sút. Bên cạnh đó, số lượng các tác phẩm

truyền kì cũng bị suy giảm.
Theo nhà nghiên cứu Đinh Thị Khang, văn học thế kỉ XV – XVII có thành tựu
tiêu biểu nhất là truyền kì với các tác phẩm tiêu biểu là Thánh Tơng di thảo và Truyền
kì mạn lục. Trong bài viết Từ truyền kì Trung Quốc đến truyền kì Việt Nam, nhà
nghiên cứu Nguyễn Phúc An đã khái quát bước đi của truyền kì Trung Quốc: từ thần
thoại (tiên Tần), chí qi (Lục triều) đến truyền kì (đời Đường) với thời gian rất dài.
Truyền kì Việt Nam cũng có bước đi tương tự: đi từ thần thoại, chí quái đến truyền
kì với thời gian được rút ngắn lại. Ở thời nhà Trần (1255-1400), Việt điện u linh (Lý
Tế Xuyên) ghi chép về những nhân vật, sự kiện lịch sử… Đời Lê (1428-1789), Lĩnh
Nam chích quái ghi chép các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết… Các tác phẩm
này đã tạo nên nền móng vững chắc cho thể loại truyền kì. Sự xuất hiện của Truyền
kì mạn lục (Nguyễn Dữ) tạo nên sự mở đầu cho truyền kì Việt Nam. Về sau, hàng
loạt các tác phẩm truyền kì ra đời. Giai đoạn nửa sau thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ
XIX, tác phẩm truyền kì tiêu biểu là Truyền kì tân phả (Đồn Thị Điểm), Việt Nam
kì phùng sự lục (khuyết danh)… Nhà nghiên cứu này khẳng định Truyền kì mạn lục
là tác phẩm truyền kì có nội dung, nghệ thuật đặc sắc nhất trong số các tác phẩm
truyền kì Việt Nam.
Nhiều nhà nghiên cứu khác đã khẳng định Truyền kì mạn lục đánh dấu sự phát
triển đến đỉnh cao của truyền kì “Truyền kì mạn lục được xem là quyển truyền kì đầu
tiên trong văn học viết của ta và cũng là quyển hay nhất so với những quyển cùng
loại được viết sau này…” (Lê Trí Viễn, 2002, tr.114). Trước khi tác phẩm này ra đời,
văn học đã có bước chuẩn bị bằng thần thoại, truyền thuyết, chí quái… Truyền kì mạn
lục ra đời đã góp phần tạo nên sự xuất hiện của hàng loạt các tác phẩm truyền kì. Về
sau, các tác phẩm truyền kì khơng cịn giữ được sự đặc sắc về nghệ thuật. Như vậy,
các nhà nghiên cứu đều cho rằng truyền kì có sinh mệnh thể loại: có giai đoạn khởi
đầu, manh nha; phát triển rực rỡ; suy thối. Mặc dù truyền kì Việt Nam sau này không

luan an



15
cịn giữ được vị trí đỉnh cao của thể loại nhưng nó đã làm một chiếc cầu nối giữa văn
học dân gian và văn học viết và dấu vết ảnh hưởng của nó vẫn kéo dài cho tới văn
học đương đại.
Quá trình hình thành và phát triển của truyền kì cịn được phân tích và đề cập
bởi nhiều nhà nghiên cứu khác. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ khẳng định Việt điện u
linh chép chuyện của những “hạo khí anh linh”; Lĩnh Nam chích quái chép lại những
thiên thần thoại cổ và truyện cổ tích; Truyền kì mạn lục bắt đầu phản ánh những câu
chuyện xảy ra hằng ngày trong xã hội phong kiến (Phan Cự Đệ, 2006). Nhà nghiên
cứu Nguyễn Nam phân tích mối quan hệ tuyến tính giữa Việt điện u linh, Lĩnh Nam
chích qi, Thánh Tơng di thảo, Truyền kì mạn lục (Nguyễn Nam, 2002). Nhà nghiên
cứu B.L. Riftin nghiên cứu về các bước đi của tiểu thuyết cổ điển Việt Nam (Riftin,
2012). Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng chỉ ra các nguồn gốc hình thành nên truyền
kì Trung Quốc và Việt Nam (Bùi Việt Thắng, 2000).
Khi viết về quá trình hình thành và phát triển của truyền kì Việt Nam, một số
nhà nghiên cứu đã đề cập sự ảnh hưởng của truyền kì Trung Hoa đến truyền kì Việt
Nam. Trong đó, sự tương đồng và khác biệt của Truyền kì mạn lục (Việt Nam) và
Tiễn đăng tân thoại (Trung Hoa) luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà
nghiên cứu. Truyền kì Trung Hoa khơng chỉ ảnh hưởng đến truyền kì Việt Nam mà
cịn ảnh hưởng đến truyền kì các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên…
Nhìn chung, các tác giả truyền kì Việt Nam đã có một sự tiếp thu truyền kì
Trung Hoa một cách linh hoạt và sáng tạo. Đặc biệt, các nhà văn đã gắn chặt truyền
kì với hiện thực, lịch sử, con người Việt Nam. Truyền kì Việt Nam cịn là sự kế thừa
sâu sắc các tác phẩm, các yếu tố của văn học dân gian nước nhà. Truyền kì Việt Nam
đã khẳng định vai trò của thể loại trong dòng chảy văn học nước nhà bằng hàng loạt
các tác phẩm thể hiện sự vận động và biến đổi không ngừng, có đỉnh cao và sự thối
trào.
1.1.1.3. Đặc trưng
Với tư cách là một thể loại văn học, truyền kì đã có sự định hình những đặc
trưng về mặt nội dung và nghệ thuật. Nhà nghiên cứu S.Iu.Nekliudov khẳng định

truyền kì là những truyện kể về những điều kì diệu, huyền bí của cuộc sống và sinh

luan an


16
tồn (Nekliudov, 2007). Trong cơng trình Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, nhà
nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đã dành một chương để nói về thể loại truyền kì và tác
phẩm Truyền kì mạn lục. Theo ơng, truyện truyền kì là một thể loại văn xi nghệ
thuật độc đáo, kể về những chuyện kì lạ được truyền tụng. Nhân vật chủ yếu của
truyền kì là người, ma quỷ. Nội dung chủ yếu của truyền kì là tình yêu nam nữ. Một
trong các tiêu chí bắt buộc của truyền kì là tác phẩm phải phản ánh các yếu tố kì ảo.
Trong cuốn Văn hóa tính dục ở Việt Nam thế kỉ X-XIX, nhà nghiên cứu Phạm Văn
Hưng khẳng định sự đề cập, miêu tả vấn đề tính dục rất táo bạo, phóng túng trong
truyền kì. Vì Nho giáo cấm đốn, răn đe nữ sắc nên một số tác phẩm truyền kì như
Truyền kì mạn lục có những lời bình mang đậm tinh thần Nho giáo.
Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử (sách Thi pháp văn học trung đại Việt Nam),
truyền kì kể những việc khác thường và là sự kết hợp của tài viết sử, tài làm thơ, tài
nghị luận, “cái gọi là truyền kì, chủ yếu là truyền cái kì trong tình yêu nam nữ và cái
kì trong thế giới thần linh, ma quỷ” (Trần Đình Sử, 2005, tr.294). Về nghệ thuật,
truyền kì đã tạo nên phong cách riêng của mình. Cốt truyện của truyền kì có thắt nút,
phát triển và mở nút. Nhiều truyện chỉ gói gọn trong một giấc mơ, một cuộc kì ngộ.
Bố cục truyện truyền kì thường là mở đầu giới thiệu nhân vật, tên họ, q qn, tính
tình, phẩm hạnh. Kế đó là kể chuyện kì ngộ. Phần kết kể lí do kể chuyện. Nhân vật
chủ yếu là nhân vật đời thường: thư sinh, con bn, thiếu nữ… Thậm chí, các nhân
vật kì ảo cũng thể hiện khía cạnh đời thường như thần thánh ham danh lợi, các nàng
ma đa tình… Thời gian trong truyện là thời gian lịch sử ước lệ; thời gian thần thoại,
vĩnh hằng; thời gian truyện khép kín. Lời văn của truyền kì rất uyển chuyển, có sự
kết hợp của văn xuôi, văn biền ngẫu, thơ.
Nhà nghiên cứu Đinh Phan Cẩm Vân đã khẳng định “truyền kì có nghĩa là

truyền đi một sự lạ” (Đinh Phan Cẩm Vân, 2011, tr.54). Theo nhà nghiên cứu này,
thể loại truyền kì bắt nguồn từ Trung Hoa. Sự định hình thể loại của truyền kì Trung
Hoa diễn ra vào đời Đường (617 – 907). Đời Đường đánh dấu một thời kì hội tụ nhiều
yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” như kinh tế cực thịnh, tam giáo đồng nguyên,
chế độ thi cử chuộng thơ ca, sự phát triển của các ngành nghệ thuật… không chỉ làm
nảy sinh một thời đại thơ ca rực rỡ mà cịn giúp cho văn xi như truyền kì định hình

luan an


17
thể loại và khẳng định vị thế của mình. Ở thời kì này, nhiều thành phố lớn xuất hiện
như Trường An, Lạc Dương, Dương Châu, Thành Đô… Việc buôn bán, trao đổi hàng
hóa trong và ngồi nước phát triển cao nhất so với các giai đoạn trước đó. Tầng lớp
thị dân ngày càng lớn mạnh. Tầng lớp này có đời sống khá tự do so với nơng dân. Thị
dân địi hỏi những tác phẩm văn học ít gắn bó với đạo lí thánh hiền và phải gắn bó
nhiều hơn với cuộc sống thực, với những vấn đề tình cảm, bản năng của con người…
Chính vì vậy, truyền kì xuất hiện ngày càng nhiều để đáp ứng nhu cầu của thị dân và
được họ u thích. Truyền kì nói nhiều về những tài tử giai nhân, những mối tình thư
sinh và mĩ nữ, những anh học trò nghèo lên kinh ứng thí… Qua đó, truyền kì đã miêu
tả, bênh vực cho tình u trai gái, giấc mộng cơng danh, những đổi thay trong chớp
mắt của đời người. Như vậy, mặc dù cái “kì” trong truyền kì có nguồn gốc từ thể loại
chí qi, từ đời sống của người nơng dân nhưng đến đời Đường đã được chắp cánh
bởi tầng lớp thị dân. Cái “kì” trong truyền kì khơng chỉ nằm ở nội dung mà còn ở tư
tưởng, ở nghệ thuật. Truyền kì Việt Nam đã tiếp nhận một cách sáng tạo một số mơ
típ của truyền kì Trung Hoa như mơ típ hơn nhân khác thường (người lấy tiên; người
chung sống với hồn phách; người chung sống với tinh loài vật, hồn cây cỏ), mơ típ
nhập mộng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na khẳng định truyền kì “dùng hình thức kì ảo
làm phương thức chuyển tải nội dung” (Nguyễn Đăng Na, 2007, tr.20). Trong truyện

truyền kì, khơng gian vơ định, thời gian vĩnh hằng, nhân vật biến huyễn khôn lường.
Tất cả đã tạo nên một thế giới truyền kì vừa ảo vừa thực, vừa cao thượng vừa thấp
hèn. Đặc biệt, truyện truyền kì hay sử dụng các mơ típ của văn học dân gian. Tuy
nhiên, truyền kì sử dụng những gì được kế thừa nhằm mục đích của mình:
Trên con đường văn học hóa truyện dân gian, các tác gia truyện thế tục đã
tìm được cho mình một hình thức nghệ thuật phù hợp với yêu cầu và tâm lí thời
đại – hình thức truyền kì. Dưới hình thức truyền kì, người cầm bút có thể trực
diện với hiện thực đương thời và dễ dàng lách vào những miền cấm kị (Nguyễn
Đăng Na, 2007, tr.37, 38).

Luận án Truyện truyền kì Việt Nam thời trung đại (Nhìn từ phương diện tổ chức
cốt truyện và xây dựng nhân vật) của Đỗ Thị Mỹ Phương đã phân tích cốt truyện và

luan an


×