Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

(Luận án tiến sĩ) điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.02 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NHÀN

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ THU HỒI NỢ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019

luan an


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NHÀN

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ THU HỒI NỢ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. VŨ THỊ LAN ANH

Hà Nội - 2019


luan an


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Luận văn
chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học
và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Học
viện khoa học xã hội.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhàn

luan an


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
DỊCH VỤ THU HỒI NỢ VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ....................... 6
1.1. Khái quát chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ ........... 6
1.2. Khái quát chung pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ...... 18
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ THU HỒI NỢ ...................................... 28
2.1. Quy định về điều kiện thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ thu hồi nợ ........................................................................................... 28
2.2. Quy định về điều kiện để doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
dịch vụ thu hồi nợ ................................................................................... 41
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN

THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH
DOANH DỊCH VỤ THU HỒI NỢ .............................................................. 53
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu
hồi nợ - kết quả, hạn chế và nguyên nhân............................................... 53
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh
dịch vụ thu hồi nợ ................................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81

luan an


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐKKD

Điều kiện kinh doanh

DVTHN

Dịch vụ thu hồi nợ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự

NLHVDS


Năng lực hành vi dân sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

GCNĐKKD

Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

luan an


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn,
quan trọng, thế và lực ngày càng tăng, diện mạo đất nước có nhiều đổi thay. Từ một
nền kinh tế thuần nông lạc hậu trên 90% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, Việt
Nam đã tạo dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại, từng bước đáp ứng u cầu sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
tạo ra mơi trường năng động, thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển đất nước.
Những nỗ lực đổi mới hơn 30 năm qua đã giúp môi trường đầu tư của nước ta liên
tục được cải thiện, thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển đất
nước. Cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại; cơ cấu ngành
nghề chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và
công nghiệp [7] [8]. Bên cạnh những ngành nghề kinh tế truyền thống, có thế
mạnh, nhiều ngành nghề kinh tế mới ra đời góp phần thúc đẩy xã hội ngày càng
phát triển. Trong số những ngành nghề mới, có ngành nghề dịch vụ trong lĩnh vực
tài chính nói chung, dịch vụ xử lý, thu hồi nợ nói riêng.

DVTHN ra đời là một xu hướng phản ánh quy luật kinh tế thị trường và đáp
ứng nhu cầu xã hội. Sự ra đời của ngành nghề kinh doanh DVTHN sẽ giúp cho
doanh nghiệp, giúp cho các nhà đầu tư bớt đi nỗi lo về gánh nặng tài chính bị khủng
hoảng do nợ xấu kéo dài và có xu hướng ngày càng tăng cao.
Thực tiễn chứng minh, nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khơng
phải do thiếu khả năng chiếm lĩnh thị trường hoặc kinh doanh thua lỗ mà do doanh
nghiệp mất cân đối về tài chính. Một trong những nguyên nhân khiến doanh nghiệp
mất cân đối tài chính là do dư nợ xấu lên cao và kéo dài đẩy doanh nghiệp vào tình
trạng mất khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn. Tình trạng tài chính mất cân
đối trầm trọng đã vơ tình đẩy doanh nghiệp đi vào phá sản, trong khi uy tín và
thương hiệu của doanh nghiệp vẫn đang rất tốt.
Trên thương trường, các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động kinh doanh,
dù ít, dù nhiều sẽ ln có nguy cơ phải đối đầu với nợ đọng. Tuy nhiên, khó khăn
đặt ra cho doanh nghiệp khi bị nợ đọng là tìm giải pháp khắc phục nhằm thu hồi vốn

1

luan an


một cách nhanh chóng và hiệu quả. Đa số các doanh nghiệp giao việc giải quyết và
xử lý công nợ tồn đọng cho một người hoặc bộ phận phụ trách (và thường được gọi
là bộ phận kế tốn cơng nợ). Song, người được giao phụ trách hoặc bộ phận được
giao xử lý công nợ thường là cán bộ thuần túy chỉ có chun mơn về kế tốn và
hạch tốn cơng nợ trên số sách. Họ khơng có kỹ năng nghề nghiệp để đàm phán,
thương thảo, xử lý và thu hồi nợ cho doanh nghiệp. Chính vì vậy sự ra đời của các
doanh nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ xử lý, thu hồi nợ sẽ là rất cần thiết đối với
các doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực đến thị trường thì ngành nghề
kinh doanh DVTHN được coi là ngành nghề kinh doanh nhạy cảm và có khả năng

bị lợi dụng để hoạt động phạm tội. Trong những năm qua, trên địa bàn cả nước
(nóng nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) xảy ra nhiều vụ việc đòi nợ thuê
kiểu xã hội đen gây trấn động dư luận, ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự trị an, đe dọa
đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của cơng dân, điển hình như các vụ việc của Công
ty cổ phần Thu nợ Phương Đông hay Công ty TNHH dịch vụ thu nợ Quang Anh
[1][14]. Trước tình hình diễn biến phức tạp bởi những vụ việc đòi nợ kiểu xã hội
đen, dư luận dấy lên những luồng ý kiến khác nhau về việc có nên thừa nhận nghề
DVTHN (địi nợ th) hay khơng? Và nếu tồn tại thì cần phải ràng buộc những điều
kiện, tiêu chuẩn gì? Các quy định pháp luật về ĐKKD DVTHN có cịn phù hợp hay
khơng? Cần có sự điều chỉnh bổ sung nào để cơng tác quản lý, kiểm sốt ngành
nghề này trở nên thực chất, có hiệu quả? Và đây chính là lý do để tác giả lựa chọn
đề tài “Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ theo pháp luật Việt Nam hiện
nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học với mong muốn sau khi hồn thành, luận
văn có những đóng góp tích cực về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho công tác xây
dựng và hoàn thiện quy định pháp luật về ngành nghề kinh doanh DVTHN.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Quy định của pháp luật về kinh doanh DVTHN nói chung và ĐKKD
DVTHN nói riêng là nội dung thuộc phạm vi hẹp và có ít người nghiên cứu. Chỉ khi
trên thực tiễn, hàng loạt các vụ đòi nợ theo kiểu xã hội đen xảy ra (nhất là ở các địa
bàn trung tâm) mới thu hút được nhiều sự quan tâm của cơ quan báo chí và dư luận.

2

luan an


Chính vì vậy các cơng trình nghiên cứu, các bài viết về kinh doanh DVTHN, về
ĐKKD DVTHN là rất hiếm. Có thể kể đến một vài bài viết, cơng trình nghiên cứu sau:
Bùi Thị Thu Thảo (2014), “Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam”, Luận
văn Thạc sĩ Luật học; Đặng Hồng Chiến (2001), “Các hình thức pháp lý địi nợ trong

kinh doanh”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; C.M, “Hà Nội thêm
một cơng ty thu nợ có dấu hiệu phạm pháp”, đăng trên: ;
Dương Hóa, “Truy nóng nhóm xã hội đen chun địi nợ th”, đăng trên:
của Cơng an thành phố Đà Nẵng; Xuân Mai, “Hãi hùng với những
vụ đòi nợ theo kiểu xã hội đen”, đăng tải trên: ; Th.S Nguyễn Thị
Huyền Trang (2017), “Pháp luật về điều kiện kinh doanh của một số quốc gia trên thế
giới”, đăng trên: .
Với một số bài viết, cơng trình nghiên cứu nói trên, chỉ có một cơng trình
nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ về quy định pháp luật đối với DVTHN ở Việt
Nam. Chưa có tác giả nào nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ trở lên, nghiên cứu
đánh giá một cách toàn diện từ mặt lý luận, thực trạng quy định đến thực tiễn áp
dụng các quy định về ĐKKD DVTHN, để từ đó kiến nghị hoàn thiện, nâng cao hiệu
lực hiệu quả các quy định về ĐKKD DVTHN ở Việt Nam. Đây cũng chính là một
trong những lý do mà tác giả lựa chọn đề tài “Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi
nợ theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của
mình. Tác giả mong muốn rằng: khi đề tài bảo vệ thành cơng thì các vấn đề lý luận
và thực tiễn về ĐKKD DVTHN sẽ được giải quyết một cách thỏa đáng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về lý luận, nghiên cứu các quy định của pháp
luật về ĐKKD DVTHN; đánh giá những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn tác giả

đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về điều kiện, tiêu chuẩn kinh
doanh DVTHN góp phần phát huy quyền làm chủ của doanh nghiệp.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra tại mục 3.1 thì luận văn cần tập trung
giải quyết các nhiệm vụ sau:

3


luan an


- Làm rõ các vấn đề lý luận về ĐKKD DVTHN như khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa và lược sử lập pháp về ĐKKD DVTHN;
- Làm rõ thực trạng quy định của pháp luật về ĐKKD DVTHN;
- Đánh giá những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật
hiện hành về ĐKKD DVTHN;
- Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh DVTHN.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về kinh doanh DVTHN;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động
kinh doanh DVTHN;
- Nghiên cứu thực tiễn hoạt động DVTHN thông qua tư liệu, số liệu thống kê
của một số doanh nghiệp như Cơng ty CP Dịch vụ tài chính và xử lý nợ DFC;
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đối với các vấn đề lý luận, luận văn tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa và lược sử lập pháp về ĐKKD DVTHN;
- Đối với các quy định pháp luật hiện hành, luận văn tập trung chủ yếu vào
phân tích quy định của Nghị định 104/2007/NĐ-CP ngày 14/6/2007 về kinh doanh
dịch vụ đòi nợ, các quy định về ĐKKD DVTHN khác;
- Đối với các giải pháp kiến nghị, luận văn tập trung vào những vướng mắc,
bất cập lớn trong các quy định hiện hành về ĐKKD DVTHN nhằm hoàn thiện các
quy định này góp phần nâng cao hiệu quả trong cơng tác quản lý, kiểm soát ngành
nghề kinh doanh nhạy cảm của Nhà nước nhưng không làm hạn chế quyền tự chủ
kinh doanh của doanh nghiệp.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:

Cơ sở lý luận được sử dụng trong nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ là quan
điểm triết học Mác xít và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật, quyền con
người, quyền tự do kinh doanh và tư tưởng đổi mới tư duy kinh tế nhằm phát huy
mọi nguồn lực xã hội vào sự nghiệp xây dựng, phát triển, sự nghiệp công nghiệp

4

luan an


hóa, hiện đại hóa đất nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội
vào nghiên cứu làm rõ những vấn đề mà luận văn đặt ra như: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, so sánh, đối chiếu, quy nạp, diễn dịch, thống kê và phương
pháp phỏng vấn chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ luận văn
thạc sĩ, nghiên cứu về ĐKKD DVTHN. Với kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần củng cố và làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và
lược sử lập pháp về ĐKKD DVTHN.
- Về mặt thực tiễn: khi luận văn được bảo vệ thành công sẽ trở thành nguồn
tài liệu có giá trị tham khảo trong học tập, nghiên cứu khoa học liên quan đến hoạt
động DVTHN nói chung và các quy định về ĐKKD DVTHN nói riêng. Kết quả
nghiên cứu cũng có giá trị tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý, nhà lập pháp
trong việc xây dựng, ban hành các quy định điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên
quan đến hoạt động kinh doanh DVTHN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, như sau:
- Chương 1: Khái quát chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ và

pháp luật điều chỉnh.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ .
- Chương 3: Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ.

5

luan an


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ
THU HỒI NỢ VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
1.1. Khái quát chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
1.1.1. Khái niệm Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
* Khái niệm Dịch vụ thu hồi nợ
Để tìm hiểu về khái niệm DVTHN, luận văn cần tập trung làm rõ hai khái
niệm bộ phận hợp thành, bao gồm khái niệm “Dịch vụ” và khái niệm “thu hồi nợ”.
- Khái niệm Dịch vụ: Theo Từ điển tiếng Việt, Dịch vụ được hiểu là “Công
việc trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đơng, có tổ chức và được trả
công” [9]. Theo cách định nghĩa này, khái niệm dịch vụ trở lên trừu tượng, khó
hiểu. Tác giả cho rằng, khái niệm “dịch vụ” trong trường hợp này cần được hiểu là
một loại ngành nghề kinh doanh phi sản xuất, đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá
nhân trong xã hội và được hưởng thù lao trên cơ sở thỏa thuận giữa bên cung cấp
dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ.
- Khái niệm thu hồi nợ: “nợ” là một khái niệm phổ thông, gần gũi và được sử
dụng phổ biến, rộng rãi trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo Từ
điển tiếng Việt, “nợ” được định nghĩa là “Cái vay phải trả” [9]. Với cách định
nghĩa này, nợ ở đây đã được hiểu là một loại nghĩa vụ của bên vay với bên cho vay
tài sản phát sinh trong mối quan hệ vay tài sản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển

của xã hội, quan hệ tài sản giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tổ chức ngày càng
trở nên đa dạng, phong phú hơn. Bên cạnh quan hệ vay mượn, giữa các tổ chức cá
nhân cịn nhiều quan hệ khác có thể làm phát sinh nghĩa vụ trả tài sản cho nhau,
như: quan hệ mua bán, quan hệ thuê mướn, quan hệ dịch vụ, quan hệ trao đổi, cho
tặng ... Và như vậy, với cách định nghĩa về nợ là “cái vay phải trả” sẽ không bao
trùm được các quan hệ tài sản phát sinh trong thực tiễn đời sống cộng đồng.
Khác với Từ điển tiếng Việt, từ góc độ quản lý nhà nước về ngành nghề kinh
doanh DVTHN, Chính phủ đã định nghĩa về nợ như sau: “Nợ” được hiểu là “...nghĩa vụ
của các tổ chức kinh tế, cá nhân này phải trả tài sản cho tổ chức kinh tế, cá nhân khác”

6

luan an


(Điều 1, Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ).
So với định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, định nghĩa về nợ của Chính phủ
đã mở rộng hơn về phạm vi; cụ thể, chi tiết hơn về chủ thể. Về phạm vi của nợ,
Chính phủ xác định nợ không chỉ dừng lại ở các khoản nợ vay phát sinh trong quan
hệ hợp đồng vay tài sản; nợ có thể xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời
sống xã hội thông qua các giao dịch hợp pháp khác nhau [15]. Về chủ thể, Chính
phủ giới hạn chỉ những nghĩa vụ trả tài sản của cá nhân, tổ chức kinh tế này với cá
nhân, tổ chức kinh tế khác mới thuộc phạm vi điều chỉnh của khái niệm. Các nghĩa
vụ trả tài sản của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức khác không
nằm trong đối tượng, phạm vi điều chỉnh của khái niệm này.
Từ những phân tích trên cho thấy định nghĩa về nợ của Chính phủ tuy đã
rộng hơn cách định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, nhưng vẫn chưa phải là một
định nghĩa có khả năng bao quát nhất về nợ. Song, do tính chất nghiên cứu của đề
tài, tính đến thời điểm hiện tại Nghị định 104/2007/NĐ-CP vẫn là văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất điều chỉnh những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu. Vì vậy

định nghĩa này sẽ là cách hiểu được sử dụng thống nhất, xun suốt trong q trình
hồn thành đề tài luận văn thạc sĩ này.
Về khái niệm “thu hồi”, thu hồi được hiểu là sự lấy lại, nhận lại, địi lại một
cái gì đó. Và nếu thu hồi được hiểu là việc lấy lại một cái gì đó thì “thu hồi nợ” có
thể được hiểu “là việc lấy lại tài sản mà cá nhân, tổ chức kinh tế này có nghĩa vụ
trả cho cá nhân, tổ chức kinh tế khác” còn khái niệm “Dịch vụ thu hồi nợ” được
hiểu là “dịch vụ lấy lại, nhận lại, đòi lại tài sản mà cá nhân, tổ chức kinh tế

này có nghĩa vụ trả cho cá nhân, tổ chức kinh tế khác”.
Bên cạnh khái niệm “thu hồi nợ”, luận văn có sử dụng một khái niệm đồng
nghĩa là khái niệm “đòi nợ”. Xét về nghĩa của khái niệm thì cả “thu hồi nợ” và “đòi
nợ” đều được hiểu là việc lấy lại tài sản. Và việc thu hồi nợ hay đòi nợ đều là quyền
gắn với chủ nợ. Song xét về căn cứ pháp lý thì hệ thống các văn bản pháp luật liên
quan đều sử dụng khái niệm “đòi nợ”; còn trong đề tài luận văn lại sử dụng khái
niệm “thu hồi nợ”. Để nhất quán trong thể hiện kết quả nghiên cứu, luận văn sẽ sử
dụng khái niệm “đòi nợ” khi trích dẫn các quy định pháp luật và sử dụng khái niệm

7

luan an


“thu hồi nợ” trong các nội dung còn lại của luận văn.
* Khái niệm Điều kiện kinh doanh
Theo Từ điển luật học, ĐKKD được hiểu là “Điều kiện mà pháp luật quy
định chủ thể kinh doanh cần phải có khi kinh doanh trong một số ngành nghề nhất
định” [10]. Với cách diễn giải trong Từ điển Luật học thì khái niệm ĐKKD tuy
ngắn gọn, dễ hiểu nhưng chưa cụ thể rõ ràng.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp (khoản 2 Điều 7, Luật Doanh nghiệp
2005) thì ĐKKD được hiểu “là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực

hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh,
giấy chứng nhận đủ ĐKKD, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác”. Mặc dù đến
Luật Doanh nghiệp 2014, khái niệm về ĐKKD đã không được đề cập, nhưng trong
Luật Đầu tư hiện hành (Khoản 1 Điều 7) đã xác định “Ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh
trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia,
trật tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Như vậy, trong mỗi định nghĩa nêu trên thì “ĐKKD” lại được tiếp cận và thể
hiện một cách khác nhau. Dưới góc độ ngơn ngữ học, Từ điển định nghĩa thiên về
giải thích nội dung nghĩa của từ thì trong Luật Doanh nghiệp 2005, bên cạnh việc
giải thích nghĩa của từ, các nhà làm luật cịn chỉ ra các hình thức xác nhận doanh
nghiệp đáp ứng các ĐKKD thông qua giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề
...; còn trong Luật Đầu tư hiện hành, các nhà làm luật lại nhấn mạnh cơ sở, lý do
của việc chủ thể tham gia kinh doanh những ngành nghề nhất định phải đáp ứng
những điều kiện mà pháp luật quy định.
Mặc dù, mỗi định nghĩa có cách thức và phạm vi tiếp cận, thể hiện khác
nhau, song cả ba định nghĩa trên đều hướng đến xác định các tiêu chuẩn cụ thể yêu
cầu doanh nghiệp phải đáp ứng nếu muốn tham gia hoạt động kinh doanh những
ngành nghề mà pháp luật quy định phải có ĐKKD. Và để có sự thống nhất trong
cách hiểu, luận văn đưa ra định nghĩa về ĐKKD như sau: “ĐKKD là yêu cầu cụ thể
do pháp luật quy định mà chủ thể tham gia hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh

8

luan an


phải đáp ứng tùy theo loại ngành nghề kinh doanh cụ thể”.
Với cách định nghĩa như trên, khái niệm “ĐKKD” có những dấu hiệu nhận

biết như sau:
- Là yêu cầu cụ thể đối với chủ thể tham gia hoạt động đầu tư sản xuất, kinh
doanh phải đáp ứng;
- ĐKKD phải do pháp luật quy định;
- Mỗi ngành nghề kinh doanh khác nhau, ĐKKD có thể khác nhau.
Đối với ngành nghề kinh doanh DVTHN, nội dung và giới hạn ĐKKD được
tiếp cận trên hai bình diện:
Thứ nhất, điều kiện để thành lập tổ chức kinh doanh DVTHN (điều kiện
thành lập doanh nghiệp kinh doanh DVTHN). Đây là điều kiện mà cá nhân, tổ chức
khi muốn tham gia thành lập doanh nghiệp kinh doanh DVTHN phải đáp ứng: như
điều kiện về vốn, điều kiện về người quản lý ...;
Thứ hai, điều kiện để doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh DVTHN tổ
chức hoạt động kinh doanh DVTHN trên thực tế. Khác với nhiều ngành nghề kinh
doanh có điều kiện khác, ngành nghề kinh doanh DVTHN sau khi được cấp
GCNĐKKD, doanh nghiệp không đương nhiên được đi vào hoạt động. Doanh
nghiệp muốn tổ chức hoạt động trên thực tế phải tiếp tục đáp ứng những điều kiện
tiêu chuẩn khác như: điều kiện tiêu chuẩn về người lao động, điều kiện tiêu chuẩn
về khoản nợ thu hồi ...vv.
Từ những khái niệm bộ phận được trình bày trên, khái niệm về ĐKKD
DVTHN được hiểu như sau:
“ĐKKD DVTHN là những tiêu chuẩn, yêu cầu cụ thể do pháp luật đặt ra
buộc các chủ thể phải đáp ứng khi tham gia hoạt động kinh doanh DVTHN”.
1.1.2. Đặc điểm Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
* Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
ĐKKD DVTHN là những tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp
phải đáp ứng nếu muốn đăng ký và được cấp GCNĐKKD DVTHN. Các tiêu chuẩn,
yêu cầu đặt ra luôn hướng đến xây dựng môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh,
kích thích và thu hút sự đầu tư sản xuất, kinh doanh trong xã hội. Các tiêu chuẩn,

9


luan an


u cầu này khơng phải tự nhiên mà có, cũng không phải do doanh nghiệp muốn
hoặc tự đặt ra. Các điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra xuất phát từ yêu cầu công tác quản lý
nhà nước về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành.
Trước ngày 01/7/2015 – thời điểm Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực trên thực tế,
việc xác định điều kiện tiêu chuẩn đối với các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề
có điều kiện nói chung, ngành nghề kinh doanh DVTHN nói riêng được quy định
bởi nhiều văn bản, nhiều cơ quan chức năng, nhiều cấp thẩm quyền khác nhau.
ĐKKD trở thành một nỗi ám ảnh của doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước; ĐKKD đã vơ tình tạo ra rào cản cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Với
sự ra đời của Luật Đầu tư hiện hành, khoản 3 Điều 7 quy định về cấp có thẩm quyền
ban hành điều kiện đầu tư kinh doanh, theo đó điều kiện đầu tư kinh doanh phải
được quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Các cơ quan cấp Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không
được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh.
Với nội dung quy định trên, Luật Đầu tư 2014 lần đầu tiên làm sáng tỏ, rạch ròi
những lĩnh vực nào là cấm, lĩnh vực nào là hạn chế; đã bãi bỏ hơn 6.000 giấy phép con;
ban hành Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện góp phần nâng cao quyền tự
chủ, tự quyết của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh [12].
Ngành nghề kinh doanh DVTHN, đây là ngành nghề kinh doanh nhạy cảm
và được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện (được liệt kê tại phục lục
4, Luật Đầu tư 2014). Các tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra đối với tổ chức kinh doanh dịch
vụ này chủ yếu được quy định tại Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ
đòi nợ. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước đối với
DVTHN, Chính phủ cịn bổ sung các điều kiện, tiêu chuẩn về an ninh trật tự theo quy

định tại Nghị định 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 (Nghị định quy định về Điều kiện
an ninh, trật tư đối với một số ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện).
* Là công cụ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh DVTHN
Quản lý doanh nghiệp là chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Mục tiêu công

10

luan an


tác quản lý Nhà nước về doanh nghiệp là một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh hiệu quả; mặt khác kiểm sốt tốt
những nguy cơ, những tác động thiếu tích cực đến hiệu ứng thị trường, bất ổn đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương chung của Đảng, Nhà nước
trong việc phát huy mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ
và các Bộ, ngành, địa phương đang nỗ lực xây dựng hành lang pháp lý thơng
thống để doanh nghiệp có mơi trường thuận lợi trong đầu tư sản xuất, kinh
doanh. Một trong những hoạt động cụ thể và có ý nghĩa thiết thực của Nhà nước
đối với việc khuyến khích tổ chức, cá nhân trong đầu tư, sản xuất kinh doanh là
việc thực hiện chính sách minh bạch hóa trong quản lý doanh nghiệp; tháo gỡ và
loại bỏ mọi rào cản đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh việc tạo dựng môi trường thuận lợi giúp doanh nghiệp
cạnh tranh bình đẳng, cơng bằng, phát huy quyền tự chủ, tự quyết của doanh nghiệp
thì yếu tố đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội; đảm bảo sức khỏe của cộng đồng là những vấn đề cần được quan tâm, cân nhắc
đến. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình thực thi nhiệm vụ, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền luôn phải song hành hai nhiệm vụ: vừa kiến tạo để doanh nghiệp có thể
phát huy tối đa mọi thế mạnh trong đầu tư sản xuất, kinh doanh tạo cơ sở vật chất
cho xã hội; vừa quản lý kiểm sốt những doanh nghiệp, những lĩnh vực kinh doanh

có khả năng tác động tiêu cực đến cộng đồng. Và để thực hiện tốt việc kiểm soát
những hoạt động kinh doanh có khả năng tác động tiêu cực trên, thơng qua quy định
của pháp luật, Nhà nước đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể yêu cầu doanh nghiệp phải
đáp ứng khi muốn kinh doanh những ngành nghề nhạy cảm. Các điều kiện đặt ra
ln hướng đến việc kiểm sốt và triệt tiêu những yếu tố có khả năng tác động tiêu
cực từ doanh nghiệp, góp phần phát huy quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp
nhưng vẫn đảm bảo an ninh, trật tự công cộng, đảm bảo môi trường và sức khỏe cho
người dân.
Đối với ngành nghề kinh doanh DVTHN cũng vậy. Được xác định là ngành
nghề kinh doanh nhạy cảm, dễ phát sinh những tác động tiêu cực đến đời sống cộng

11

luan an


đồng, gây mất trật tự trị an. Hoạt động kinh doanh DVTHN cũng dễ làm phát sinh
việc lợi dụng ngành nghề để thực hiện hành vi phạm tội. Vì lẽ đó, để quản lý và
kiểm sốt tốt những tác động không mong muốn từ các doanh nghiệp kinh doanh
ngành nghề này, Nhà nước đã ban hành các điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp phải
đáp ứng khi muốn được cấp phép hoạt động.
Trên thực tế, mặc dù ngành nghề kinh doanh DVTHN vẫn còn nhiều phức
tạp; Song với việc xác định đây là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tiêu chuẩn
khắt khe đối với doanh nghiệp khi muốn đầu tư kinh doanh DVTHN đã góp phần
quan trọng giúp Nhà nước quản lý, kiểm soát tốt hơn; đưa doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực này dần đi vào nền nếp.
* Các điều kiện đặt ra đối với chủ thể kinh doanh DVTHN không phải là
bất biến
So với thế giới, Việt Nam là quốc gia hội nhập sau, hội nhập muộn. Chính vì
vậy các lĩnh vực ngành nghề kinh doanh nói chung ở Việt Nam cũng phát triển sau và

muộn hơn, nhất là đối với ngành nghề kinh doanh dịch vụ (trong đó có DVTHN).
DVTHN ở Việt Nam, với tính chất là một ngành nghề được pháp luật thừa
nhận, ngành nghề này mới chỉ ra đời và phát triển được hơn chục năm (kể từ khi có
Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ). Sự ra đời của ngành
nghề kinh doanh DVTHN có gắn với những yếu tố kinh tế, xã hội cụ thể. Khi mà
trong đời sống xã hội, nhu cầu thuê tổ chức, cá nhân chuyên nghiệp thực hiện việc
thu hồi một khoản tài sản của mình ngày càng nhiều. Trong khi đó, hành lang pháp
lý thì bỏ ngỏ; hoạt động thu hồi nợ chủ yếu được điều chỉnh bởi “luật rừng”; các
băng nhóm tội phạm đâm thuê, chém mướn – đòi nợ kiểu xã hội đen ngày càng gia
tăng. Thực tế đó địi hỏi cần có sự điều chỉnh của pháp luật, vì vậy Nghị định
104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ra đời.
Nghị định 104/2007/NĐ-CP ra đời với nhiều chế định pháp luật cụ thể, điều
chỉnh lĩnh vực kinh doanh ngành nghề nhạy cảm, trong đó có chế định về ĐKKD,
như: điều kiện về vốn, điều kiện về người quản lý và giám đốc chi nhánh và điều
kiện về người lao động làm việc tại doanh nghiệp kinh doanh DVTHN. Đây là ba
điều kiện tiền đề bắt buộc đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào muốn thành lập và

12

luan an


đăng ký kinh doanh DVTHN. Song, các điều kiện trên khơng phải là bất biến. Sở dĩ
ĐKKD DVTHN có thể thay đổi là bởi điều kiện này được hình thành trên cơ sở
những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể. Và khi những điều kiện kinh tế, xã hội làm
cơ sở hình thành thay đổi thì ĐKKD phải thay đổi theo. ĐKKD DVTHN có thể
được thay đổi theo những xu hướng sau:
Thứ nhất, điều kiện, tiêu chuẩn được siết chặt hơn: Do kinh doanh DVTHN
là lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm. Việc ràng buộc các điều kiện tiêu chuẩn cụ thể
khi hoạt động kinh doanh ngành nghề này chính là thực hiện chức năng quản lý nhà

nước nhằm kiểm sốt những hoạt động kinh doanh có khả năng tác động khơng tốt
đến đời sống cộng đồng. Chính vì vậy, nếu hoạt động kinh doanh DVTHN vẫn diễn
ra phức tạp thì việc duy trì và bổ sung các điều kiện để siết chặt hoạt động kinh
doanh lĩnh vực này vẫn được đặt ra và cần thiết phải đặt ra.
Thứ hai, điều kiện tiêu chuẩn sẽ được nới lỏng, thậm chí bỏ đi: sở dĩ xác định
ngành nghề kinh doanh DVTHN là ngành nghề nhạy cảm, phức tạp là bởi những
hiện tượng xã hội tiêu cực xảy ra từ hoạt động này (như bắt người, dùng vũ lực
cưỡng đoạt tài sản, khủng bố về tinh thần đối với khách nợ và người thân của khách
nợ ...). Chính vì vậy, các ĐKKD sẽ được nới lỏng hoặc thậm chí bỏ đi khi các hiện
tượng tiêu cực trên thun giảm hoặc khơng cịn xảy ra.
* ĐKKD DVTHN luôn gắn liền với hạn chế quyền tự do kinh doanh của tổ
chức, cá nhân, quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp
Kể từ sau đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng, đề cao vai
trò của doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh) đối với sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước. Trên thực tế doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vai
trị ngày càng quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất
nước, nhất là trong bối cảnh tái cấu trúc, điều chỉnh phạm vi hoạt động của Doanh
nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp ngồi quốc doanh đóng góp 43,22% GDP và 39%
vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế [2].
Tuy nhiên, bên cạnh việc xác định rõ vai trò tầm quan trọng của doanh
nghiệp ngồi quốc doanh nói riêng, doanh nghiệp nói chung đối với sự nghiệp cách
mạng chung của đất nước thì vấn đề ln được đặt ra đối với cơ quan nhà nước có

13

luan an


thẩm quyền là phải quản lý, kiểm soát được doanh nghiệp, nhất là những doanh
nghiệp kinh doanh ngành nghề có khả năng tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.

Một trong những công cụ mà Nhà nước thường sử dụng để quản lý, kiểm sốt
doanh nghiệp là chính sách pháp luật thông qua những điều kiện, những yêu cầu
phải đáp ứng khi hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Điều kiện đặt ra đối với doanh nghiệp là sự ràng buộc tiêu chuẩn pháp lý mà
cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh ngành nghề có điều kiện phải đáp
ứng. Mặc dù xác định ĐKKD là công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước và là cơng
cụ cần thiết để kiểm sốt đối với những ngành nghề kinh doanh có khả năng tác
động xấu đến an ninh, quốc phịng, an tồn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe cộng
đồng ... song, ĐKKD luôn là rào cản đối với việc khai thác và phát huy mọi nguồn
lực vào phát triển kinh tế đất nước. Nhà nước càng ban hành nhiều điều kiện, tiêu
chuẩn đối với doanh nghiệp thì quyền tự chủ, tự quyết của doanh nghiệp càng bị
hạn chế và khả năng thu hút đầu tư đối với tổ chức, cá nhân càng giảm sút. Chính vì
vậy, trong bối cảnh hiện nay Nhà nước cần phát huy tốt vai trị của mình trong quản
lý doanh nghiệp. Quản lý doanh nghiệp của Nhà nước phải vừa đảm bảo phát huy
mọi khả năng sáng tạo, thu hút mọi nguồn lực xã hội vào phát triển đất nước; vừa
phải quản lý kiểm sốt có hiệu quả về doanh nghiệp; phải giúp doanh nghiệp nhận
thức được sự quản lý Nhà nước đối với những ngành nghề nhất định thông qua các
ĐKKD là sự cần thiết. Sự ràng buộc các điều kiện kinh doanh khơng phải vì mục
tiêu hạn chế quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp mà nhằm đảm bảo môi
trường xã hội, môi trường kinh doanh được lành mạnh hơn.
1.1.3. Ý nghĩa của Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
* Tạo cơ sở pháp lý để DVTHN tồn tại và phát triển
Quy định pháp luật về kinh doanh DVTHN nói chung, về ĐKKD DVTHN
nói riêng là cơ sở pháp lý đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nghề thu nợ.
Trong lịch sử, đã có một thời gian dài nghề thu nợ khơng được pháp luật cơng nhận.
Vì vậy trong hệ thống ngành nghề đăng ký kinh doanh được cấp mã ngành, khơng
có ngành nghề DVTHN. Các tổ chức kinh doanh muốn hành nghề thu nợ thì phải
đăng ký dưới dạng là dịch vụ hậu mãi (một mã ngành khác). Chính vì vậy trên thực

14


luan an


tế DVTHN kém phát triển; đồng thời mỗi doanh nghiệp kinh doanh DVTHN hoạt
động theo một kiểu, gây khó khăn cho công tác quản lý.
Kể từ khi Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ra đời đã
mở ra cho nghề DVTHN một giai đoạn mới; DVTHN đã chính thức được cơng
nhận là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện và được cấp mã ngành độc lập.
Các điều kiện hành nghề thu hồi nợ theo quy định đã tạo ra hành lang pháp lý để
Nhà nước quản lý và kiểm sốt doanh nghiệp có hiệu quả.
Tuy nhiên, thời gian qua dư luận xã hội rất hoang mang khi những vụ việc
đòi nợ thuê theo kiểu xã hội đen liên tục xảy ra. Với nhiều thủ đoạn phi pháp khác
nhau, như bắt giữ người, chiếm giữ tài sản, khủng bố tinh thần đối với con nợ hoặc
người thân của con nợ, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ... các đối tượng đã cưỡng
đoạt tài sản trái phép nhằm siết nợ, trừ nợ. Các vụ việc xảy ra đã làm dấy lên sự lo
ngại cho công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự xã hội. Trước tình hình đó, có
nhiều ý kiến quan điểm trái chiều, khác nhau về việc có nên thừa nhận hay khơng
loại hình DVTHN.
Phải nói rằng, trước khi Nhà nước thừa nhận thu hồi nợ là một ngành nghề
kinh doanh có điều kiện thơng qua việc ban hành hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh lĩnh vực ngành nghề này, nghề thu hồi nợ đã ra đời và tồn tại khách
quan. Bên cạnh các doanh nghiệp kinh doanh DVTHN dựa trên nền tảng pháp luật,
các “dịch vụ” đòi nợ theo kiểu xã hội đen cũng song song tồn tại. Điển hình là các
băng nhóm tội phạm được cầm đầu bởi những tay anh chị khét tiếng như Khánh
Trắng, Năm Cam, Phúc “bồ”. Riêng đối với Khánh trắng, vào những năm chín
mươi, địi nợ là một nguồn thu nhập lớn của Khánh. Để địi được nợ, Khánh khơng
chỉ tàn ác với con nợ mà còn tàn nhẫn cả với chủ nợ. Vào năm 1992 Khánh thực
hiện “dịch vụ” đòi nợ thuê cho chị Phạm Thị Ngọc Trang ở 105/3 đường Nguyễn
Kiệm, thành phố Hồ Chí Minh. Chị Trang thuê Khánh đòi tiền chị Nhung ở 58 phố

Hàng Bạc, Hà Nội với tổng số tiền gần 925 triệu đồng và chị Trang đã phải chi cho
Khánh 500 triệu đồng. Để “hợp pháp” hóa việc thuê mướn này, chị Trang phải viết
giấy là vay của Khánh “trắng” 500 triệu đồng [13].
Và cho đến nay, mặc dù đã có quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực ngành

15

luan an



×