Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

(Luận án tiến sĩ) bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình từ thực tiễn tỉnh đắk nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ VIỆT HÀ

BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THƠNG TIN TRONG
LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

luan an


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ VIỆT HÀ

BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THƠNG TIN TRONG
LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THANH HÀ


HÀ NỘI, năm 2020

luan an


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận văn “Bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực
phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Đắk Nơng” là hồn tồn trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp
với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Đắk Nông, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Vũ Thị Việt Hà

luan an


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP
CẬN THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
................................................................................................................................ 9
1.1. Quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ...................... 9
1.2. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình .17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực
phát thanh - truyền hình .......................................................................................31
1.4. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của quốc tế và một số địa

phương ..................................................................................................................36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG
TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐẮK NƠNG ...................................................................................42
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực
phát thanh - truyền hình của tỉnh Đắk Nông ........................................................42
2.2. Thực trạng các quy định của Trung ương và tỉnh Đắk Nông về bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ........................45
2.3. Thực trạng các hoạt động bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực
Phát thanh - Truyền hình ở tỉnh Đắk Nơng ..........................................................52
2.4. Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình của tỉnh Đắk Nơng ................................................................57
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP
CẬN THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYÊN HÌNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG ..............................................................64
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình............................................................................................................64

luan an


3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình ...............................................................................................66
3.3. Giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình tỉnh Đắk Nơng ...................................................................................74
KẾT LUẬN .........................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO

luan an


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

1

TCTT

Tiếp cận thông tin

2

QTCTT

Quyền tiếp cận thông tin

3

UBND

Ủy ban nhân dân

4

HĐND

Hội đồng nhân dân


5

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

6

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

7

PT-TH

Phát thanh truyền hình

8

TT-TT

Thơng tin truyền thơng

9

KT-XH

Kinh tế - xã hội


10

TT-TH

Truyền thanh – truyền hình

11

QLNN

Quản lý nhà nước

luan an


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm thực hiện quyền TCTT là điều kiện cần thiết cho hoạt động quản
lý dân chủ, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Trong một
quốc gia, việc không công khai thông tin đồng nghĩa với thiếu trách nhiệm giải
trình của các cơ quan cơng quyền trong q trình thực thi quyền lực cơng và có
thể quyền lực đó sẽ mâu thuẫn hoặc đi ngược lại lợi ích của công chúng, của
cộng đồng xã hội. Để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, việc bảo
đảm cơng khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan công quyền được xác
định là một trong những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của bộ máy Nhà
nước. Phù hợp nguyên tắc này, bảo đảm quyền được thông tin của công dân, tạo
cơ chế để nhân dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, qua
đó sẽ hạn chế tình trạng quan liêu, tham nhũng và tăng cường trách nhiệm của

cán bộ, công chức là nội dung đặc biệt quan trọng. Đây là những điều kiện, tiền
đề cho hoạt động quản lý dân chủ, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất
nước. Trong một nền quản trị công hiện đại, chun nghiệp, cùng với trách
nhiệm giải trình, tính dự đốn được và sự tham gia của cơng chúng vào hoạt
động quản lý, tính minh bạch được coi là một trong bốn trụ cột cơ bản. Yêu cầu
công khai các thông tin, hoạt động của cơ quan nhà nước là yêu cầu được đặc
biệt quan tâm bởi lẽ các cơ quan này nắm giữ các thông tin mà người dân quan
tâm. Theo đó, trách nhiệm cơng khai thơng tin của các cơ quan nhà nước nói
chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng có mối quan hệ mật thiết với
quyền được TCTT của người dân. Tại Việt Nam, Hiến pháp và luật của nước ta
trước đây chỉ quan tâm chủ yếu đến quyền của người dân được phổ biến, được
tuyên truyền các đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, đến việc công
khai, công bố các văn bản của các cơ quan nhà nước. Quyền thông tin là quyền
rất mới ở Việt Nam, chỉ đến năm 1992, lần đầu tiên Hiến pháp đã ghi nhận
“quyền được thông tin” của công dân (Điều 69, Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ

1

luan an


sung năm 2001). Tuy nhiên, đó vẫn là tinh thần cũ, người dân là đối tượng thụ
động tiếp nhận thông tin từ các cơ quan nhà nước. Đến gần đây, “quyền tiếp cận
thông tin” mới được ghi nhận một cách đầy đủ hơn tại Điều 25 của Hiến pháp
năm 2013. Cùng với đó, Luật Tiếp cận thơng tin được Quốc hội thơng qua ngày
06/4/2016, có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/7/2018 là một động thái cho thấy,
Nhà nước ta đã nhận thức và đang từng bước hoàn thiện cơ chế đảm bảo cho
quyền tiếp cận thông tin dần được ứng dụng vào đời sống.
Với đa phần dân số sống ở nông thôn và tỷ lệ đồng bào người dân tộc
thiểu số nhiều, chủ yếu lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, việc hiểu và thực

hiện bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin của tỉnh Đắk Nơng gặp nhiều khó khăn,
các hình thức, biện pháp giúp người dân tiếp cận thơng tin như băng rơn, khẩu
hiệu, các chương trình phát thanh - truyền hình tiếng Việt và tiếng dân tộc…
Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như thể chế chưa hoàn thiện, nhận thức của
xã hội về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình chưa được nâng cao, việc tổ chức thực hiện cịn nhiều bất cập, chưa có
hướng dẫn thực hiện một cách chi tiết,... việc thực hiện bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nơng chưa đạt được
những kết quả như mong muốn. Người dân chủ yếu tiếp cận thông tin thụ động
thông qua mạng lưới đài phát thanh, truyền hình Trung ương, địa phương, qua
người quen mà việc tiếp cận thơng tin qua hệ thống báo chí điện tử, các kênh
truyền hình khác… chưa được nhiều. Từ đây, những thơng tin chính sách kinh tế xã hội của địa phương chưa được người dân tiếp cận một cách đầy đủ và chính
xác. Đây là một trong những lý do khiến tỉnh Đắk Nông chưa thể khai thác tối đa
các tiềm năng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Từ các lý do trên cho thấy, việc chọn và nghiên cứu đề tài về “Bảo đảm
quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn
tỉnh Đắk Nông” là yêu cầu khách quan, tất yếu, cấp thiết cả về lý luận cũng như
thực tiễn, tạo điều kiện cho cá nhân tại tỉnh Đắk Nơng có thể sử dụng quyền này
một cách hợp pháp và hợp lý, đảm bảo lợi ích chính đáng, khai thác thơng tin
một cách chính xác tạo đà cho sự phát triển của tỉnh nhà.

2

luan an


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ thời điểm quyền được thông tin được đề cập trong Hiến pháp năm
1992, quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và đặc
biệt là từ khi Luật tiếp cận thông tin năm 2016 được đưa vào chương trình xây

dựng luật của Quốc hội thì số lượng sách, bài viết, cơng trình nghiên cứu liên
quan đến quyền tiếp cận thông tin, bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thơng tin
phát triển một cách mạnh mẽ. Điều đó chứng tỏ, bảo đảm quyền tiếp cận thơng
tin có sức thu hút lớn về mặt khoa học và thực tiễn. Việc nghiên cứu về bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, trực tiếp hay
gián tiếp trong các cuộc hội thảo, các công trình nghiên cứu, luận án, luận văn,
các bài nghiên cứu của các nhà khoa học trong những năm gần đây:
Cuốn sách “Tiếp cận thông tin: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và Việt
Nam”, GS.TS Nguyễn Đăng Dung và đồng chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2011. Cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu của nhiều tác giả, cung cấp cho
người đọc một cái nhìn tổng thể, tồn diện về nhiều khía cạnh khác nhau của
quyền tiếp cận thơng tin: lịch sử hình thành, các quy định của pháp luật quốc tế,
pháp luật các nước và của Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin.
Luận án “Quyền tiếp cận thơng tin trong quản lý hành chính nhà nước ở
Việt Nam hiện nay” của TS Bùi Thị Hải (2016). Luận án đã làm rõ những vấn đề
lý luận, pháp lý về quyền tiếp cận thông tin trong quản lý hành chính nhà nước,
chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông
tin, đánh giá thực trạng thực hiện quyền tiếp cận thông tin; đề xuất các quan
điểm, giải pháp xây dựng, củng cố khuôn khổ pháp lý về quyền tiếp cận thơng
tin trong quản lý hành chính nhà nước phù hợp với Hiến pháp, thơng lệ quốc tế
và hồn cảnh, điều kiện thực tế của Việt Nam.
Luận án “Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Thái Thị Tuyết Dung (2014) đã làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn và thực trạng việc thực hiện quyền được thông tin của cơng dân ở Việt
Nam, từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và các biện
pháp bảo đảm quyền được thông tin trong điều kiện nước ta.

3

luan an



Luận văn “Quyền tiếp cận thông tin và viện bảo đảm thực hiện ở Việt
Nam” của tác giả Đoàn Ngọc Chung (2014) nghiên cứu tổng quát về tình hình
thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, đánh giá lại hệ thống chính sách,
pháp luật liên quan đến quyền tiếp cận thơng tin, từ đó đề xuất các giải pháp đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam.
Luận văn “Xây dựng cơ chế bảo đảm quyền quyền tiếp cận thông tin ở
Việt Nam từ kinh nghiệm ở các nước trên thế giới” của tác giả Đinh Quỳnh Mây
(2014) làm rõ khái niệm, nhận diện đúng bản chất về quyền tiếp cận thông tin,
khái quát pháp luật tiếp cận thông tin ở các nước khác nhau để đưa vào các
nhóm, các xu thế khác nhau và rút ra kinh nghiệm trong việc hoàn thiện thể chế
ở Việt Nam.
Thái Vĩnh Thắng (2009), Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện
các quyền con người và quyền công dân; Dương Thị Bình (2009), Thực trạng
quyền tiếp cận thơng tin ở Việt Nam; Nguyễn Thị Hạnh (2009), Sự cần thiết ban
hành luật tiếp cận thông tin; Mai Thị Kim Huế (2009), Phạm vi chủ thể có trách
nhiệm cung cấp thơng tin; Chu Thị Thái Hà (2009), Thông tin được tiếp cận và
nội hàm của quyền tiếp cận thông tin; Nguyễn Thị Thu Vân (2009), Cơ chế bảo
đảm quyền tiếp cận thông tin…
Các bài viết, bài tạp chí của các tác giả như: Đào Trí Úc (2011), Tự do
thơng tin trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 4; Trần Ngọc Đường (2008), Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam với quyền được tiếp cận thơng tin, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01
(112+114); Vũ Văn Nhiêm (2010), Quyền được thơng tin từ góc độ bảo đảm
quyền con người và liên hệ với dự luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam (Nghiên
cứu lập pháp số 9 (170); Nguyễn Cơng Hồng và Hồng Thị Ngân (2010), Nhà
nước pháp quyền và đảm bảo quyền tiếp cận thơng tin của cơng dân, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số chuyên đề; Lê Thị Hồng Nhung (2011), Quyền tiếp cận
thơng tin dưới góc độ quyền con người, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp và luận

văn thạc sĩ “Bảo đảm pháp lý về quyền được thông tin của công dân trong quản
lý nhà nước về đất đai” (2011)… Những bài viết này đã đề cập đến một số khía

4

luan an


cạnh về quyền tiếp cận thông tin trên những phương diện và phạm vi khác nhau
như thực trạng pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam, những nội dung cơ
bản quyền tiếp cận thơng tin ở nước ngồi, những giới hạn của quyền tiếp cận
thông tin, những kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện luật tiếp cận
thơng tin ở các quốc gia, tính cấp thiết của việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin
ở Việt Nam…
Qua nghiên cứu các tài liệu, cơng trình có liên quan đến đề tài luận văn về
bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình, tác giả
nhận thấy kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước đã có sự thống nhất chung
khi đề cập đến khái niệm, sự hình thành và phát triển; các nội hàm và vai trị của
quyền tiếp cận thơng tin. Nhiều cơng trình nghiên cứu tiếp cận quyền tiếp cận
thơng tin khơng chỉ dưới góc độ là một quyền dân sự, chính trị mà cịn dưới góc
độ khác như một quyền cơ bản của công dân, một quyền kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đây là những giá trị quan trọng giúp tác giả củng cố nhận thức về vấn đề này,
làm cơ sở cho các nghiên cứu cụ thể trong lĩnh vực phát thanh – truyền hình
trong luận văn. Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và phân tích cơ sở
lý luận về bảo đảm QTCTT trước hết là xuất phát từ mối quan hệ giữa quyền con
người, quyền công dân và những bảo đảm QTCTT trong lĩnh vực phát thanh truyền hình. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên
cứu một cách cụ thể và riêng biệt về việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nơng thời gian qua. Chính vì vậy,
đề tài nghiên cứu có tính cấp thiết và kết quar nghiên cứu của đề tài có thể giải
đáp các câu hỏi về giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực

phát thanh - truyền hình của tỉnh Đắk Nơng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình, trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực
tiễn tỉnh ĐắkNơng, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường bảo đảm quyền

5

luan an


tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình nói chung và ở tỉnh
Đắk Nơng nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình;
Hai là, đánh giá về thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh
vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nơng như: thực trạng pháp luật về bảo
đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đak
Nơng, thực trạng vận hành việc bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực
phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông.
Ba là, nghiên cứu về các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nơng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những quan niệm, tư tưởng, các
quy định pháp luật, thực tiễn thực hiện bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong

lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nơng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền
tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình thơng qua việc nghiên cứu
một số quy định pháp luật nước ta và các văn bản có liên quan cũng như các quan
điểm học thuật về khái niệm này. Cùng với đó, liên hệ tới thực tiễn tại địa phương,
đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm mục đích đảm bảo quyền tiếp cận thông tin
trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình nói chung và tỉnh Đắk Nơng nói riêng.
Khái niệm “bảo đảm quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình”
trong luận văn tập trung nghiên cứu ở khía cạnh bảo đảm pháp lý và được hiểu theo
nghĩa là việc Nhà nước thông qua các hoạt động của mình thực hiện trách nhiệm
bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình.

6

luan an


Về thời gian, học viên nghiên cứu bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nơng từ khi ban hành Hiến pháp
năm 2013 và Luật tiếp cận thông tin năm 2016 cho đến nay.
Về không gian, luận văn nghiên cứu không gian bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nơng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn cũng vận dụng quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tiếp cận
thơng tin; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình. Luận văn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu: hệ thống, thống kê, phân tích tài liệu, tổng
hợp, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Trong đó, phương
pháp hệ thống được sử dụng xuyên suốt để đảm bảo các vấn đề, nội dung của luận

văn được trình bày theo trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, phát triển
các vấn đề để đạt được mục tiêu nghiên cứu. Luận văn cũng khai thác thơng tin tư
liệu của các cơng trình nghiên cứu đã công bố, các bài viết nghiên cứu để chứng
minh cho các luận điểm.
Ở mỗi chương sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ đạo để làm rõ
mục đích nghiên cứu. Cụ thể là:
Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp thống kê để trình bày những vấn đề lý luận cơ bản, những quan điểm về
thông tin, quyền tiếp cận thông tin cũng như các bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình.
Chương 2,3 sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá để đưa ra thực trạng
hiện nay của bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình ở tỉnh Đắk Nông đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, đánh giá
để nhận xét về thực trạng đó nhằm đề ra những giải pháp phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp bổ sung những tri thức khoa học
cơ bản mang tính lý luận, giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ và tồn diện hơn về
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình; nhận xét

7

luan an


về thực trạng thực hiện tại Đắk Nơng; góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ,
cơ quan nhà nước và nhân dân tỉnh Đắk Nông về thực hiện quyền tiếp cận thông
tin và bảo đảm để quyền tiếp cận thơng tin được thực hiện một cách hiệu quả.
Ngồi ra, kết quả của luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học cũng như một số chuyên
ngành liên quan.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin
trong lĩnh vực Phát thanh - Truyền hình
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực
phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình của tỉnh Đắk Nơng

8

luan an


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG
TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
1.1. Quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình
1.1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình
Ngày nay, trong đời sống hàng ngày, thông tin là yếu tố thường xuyên
được đề cập đến, ở đâu người ta cũng nói đến thơng tin. Nói cách khác, thông tin
là nền tảng của tất cả các hoạt động của xã hội. Xét từ góc độ lịch sử, thông tin
tạo ra các cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật, gắn bó chặt chẽ, mật thiết và có
tính quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người. Mọi tri thức của nhân
loại đều được cập nhật, lưu trữ và phổ biến dưới dạng thông tin về những điều đã
diễn ra, về những điều người ta đã biết, đã nói, đã làm.
Thơng tin khơng thể cầm giữ như các hiện vật được. Chính vì vậy, tùy

theo góc độ và mục đích sử dụng, có rất nhiều cách hiểu về thơng tin. Thơng tin
hình thành trong q trình nhận biết hiện tượng xung quanh, trong quá trình giao
tiếp. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “thông tin là tin tức được truyền đi cho biết
hoặc tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh”. Theo các cách
hiểu trên, mọi tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới tự nhiên và xã hội đều
trở thành thông tin.
Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi thơng tin đều có ý nghĩa với nhà
nước, xã hội và đều được sử dụng trong quản lý nhà nước, đều là nhu cầu cần
tiếp cận của mọi công dân. Khoản 1 Điều 2 Luật TCTT năm 2016 quy định
“Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn,
tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản
ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra” [41]. Theo
đó, khái niệm thơng tin được đề cập trong Luật TCTT có nghĩa rằng, thơng tin đó

9

luan an


phải do cơ quan nhà nước tạo ra trong quá trình thực thi cơng vụ, được người có
thẩm quyền ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản và được lưu giữ trong văn
bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh,
ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác.
Như vậy, mỗi lĩnh vực nghiên cứu khác nhau thì có định nghĩa về thơng
tin khác nhau. Các khái niệm, quan điểm về thông tin nêu trên rất đa dạng và đều
phù hợp theo từng lĩnh vực nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài, chỉ đề cập đến
thơng tin mà cơng dân có thể tiếp cận do cơ quan nhà nước tạo ra.
Ngày nay, trong một thế giới mở, nhu cầu thông tin của cá nhân, tổ chức
ngày càng nhiều, càng đa dạng, phong phú, tùy theo nhu cầu của mình mà cần
những thơng tin khác nhau: thông tin về tri thức của nhân loại trên các lĩnh vực

tự nhiên, xã hội; thơng tin chính trị, thông tin kinh tế, xã hội, thôngtin pháp luật;
thông tin trong nước, thơng tin quốc tế... Với vai trị của thơng tin như đã nói ở
trên thì nó có tầm quan trọng như một thứ tài sản, tài sản ấy thuộc sở hữu chung
của cộng đồng mà không một cá nhân hay tổ chức nào được độc quyền nắm giữa
hay ngăn cản và ngăn cấm người khác tiếp cận, trừ phi những thơng tin này có
liên quan đến việc đảm bảo an ninh quốc gia hoặc đời tư cá nhân được luật pháp
quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Vì lẽ đó, tiếp cận thơng tin dần trở thành một
thuật ngữ ngày càng phổ biến. Đó là quyền được tiếp cận các thông tin đang
được các cơ quan nhà nước quản lý, kiểm soát để thỏa mãn nhu cầu trong của
sống của mình hay để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác được pháp luật
ghi nhận. Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin và nhu cầu TCTT đối
với con người và xã hội, quyền TCTT được quốc tế cũng như các quốc gia ghi
nhận ở hai góc độ là quyền con người và quyền cơng dân.
Thứ nhất, quyền TCTT luôn là một bộ phận không thể thiếu của quyền
con người. Trong tất cả các công ước quan trọng về quyền con người như Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị (ICCPR) năm 1966… đều ghi nhận quyền thông tin, quyền TCTT như một
cấu thành căn bản. Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên
hợp quốc năm 1948 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngơn luận và bày

10

luan an


tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tực do giữ quan điểm khơng có sự can thiệp
và tự do tìm kiếm, tiếp nhận cà chia sẻ các ý tưởng và và thơng tin bằng bất kì
bằng phương tiện nào mà khơng có giới hạn về biên giới”. Phát triển những nội
trên, khoản 2 Điều 19 ICCPR cũng quy định: “Mọi người đều có quyền giữ quan
điểm của mình mà không ai được can thiệp vào...” [24].

Mặc dù Điều 19 ICCPR không đề cập đến thuật ngữ “quyền tiếp cận
thông tin” nhưng tại Bình luận chung số 34 của Ủy ban nhân quyền (HRC) đã
đặc biệt lưu ý đến quyền tiếp cận các thông tin được nắm giữ bởi cơ quan nhà
nước. HRC giải thích rằng, quyền này được bao hàm trong khoản 2 Điều 19
ICCPR. Theo đó, mọi người có quyền tiếp cận thơng tin mà các cơ quan công
quyền nắm giữ. Các thông tin ấy bao gồm các dạng hồ sơ do một cơ quan công
quyền nắm giữ, bất kể hình thức lưu trữ, nguồn tin và ngày xác lập. Các cơ quan
công quyền là các cơ quan được nêu trong đoạn 7 của Bình luận chung này bao
gồm “Tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp)
và các cơ quan công quyền và tổ chức của Chính phủ, dù ở cấp độ nào quốc gia,
khu vực hay địa phương”. Quyền TCTT làm tăng tính chủ động của chủ thể có
nhu cầu thơng tin khi có thể u cầu cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin phải
cung cấp thông tin mà họ cần với điều kiện thơng tin đó nằm trong giới hạn cho
phép. Một điều cần lưu ý là quyền TCTT cũng chỉ có nghĩa là quyền tìm kiếm,
tiếp nhận thông tin mà không bao gồm quyền chia sẻ, phổ biến thông tin được cơ
quan nhà nước, các tổ chức và các nhân khác trong xã hội chia sẻ. Nó khác với
thuật ngữ “quyền tự do thông tin”…hàm chứa một nội hàm rộng với nghĩa là
công nhận và bảo hộ quyền của con người được tự do tìm kiếm, tiếp nhận, lưu
giữ, phổ biến, sử dụng thông tin dưới tất cả các hình thức khác nhau với bất kỳ
người nào khác.
Như vậy, dưới góc độ quyền con người, quyền TCTT là quyền rất căn bản
mà mọi người ở tất cả các quốc gia đều có quyền được hưởng. Đó là quyền được
biết thông tin của Nhà nước, nắm bắt được những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội,
giáo dục và những vấn đề khác trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích, đến

11

luan an



cuộc sống của họ nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc sống của mình cũng như
để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận.
Thứ hai, quyền TCTT là quyền cơ bản của cơng dân vì được pháp luật các
nước ghi nhận trong Hiến pháp, được các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa.
Chủ thể của quyền TCTT ln là các cá nhân đặt trong mối quan hệ với nhà
nước, và nhà nước là một bên bảo đảm thực hiện quyền này bằng pháp luật dựa
trên mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với một nhà nước cụ
thể. Ở Việt Nam, quyền TCTT được Hiến định trong nhóm quyền cơ bản của
con người, cơng dân tại Điều 25, Hiến pháp 2013 “Cơng dân có quyền tự do
ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định” [35]. Đây không phải là lần đầu tiên
Việt Nam hiến định về quyền TCTT, bởi quyền này trong Hiến pháp 1992 sửa
đổi, bổ sung 2001 đã được ghi nhận với tên gọi là quyền được thông tin tại Điều
69. Tuy nhiên, khái niệm và nội hàm của quyền TCTT đến năm 2016 mới được
giải thích một cách chính thức và đầy đủ trong Luật TCTT. Theo đó, Luật TCTT
năm 2016 chỉ ra rằng TCTT là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp
thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra vì đây là loại thông tin được đánh giá là
quan trọng nhất và đại diện cho loại thông tin mà các công dân bình thường đều
cần đến khi thực hiện các quyếtđịnh có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Với tư
cách là một quyền công dân, quyền TCTT là một trong những hình thức, phương
thức, phương tiện để nhân dân làm chủ đất nước, thật sự tham gia vào quản lý
nhà nước và quản lý xã hội. Chỉ khi tiếp cận thông tin về hoạt động của bộ máy
nhà nước một cách cơng khai, trung thực thì người dân mới có thể tham gia vào
quản lý xã hội và thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình, quản lý, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước, vừa nâng cao tính minh bạch, tính trách
nhiệm trong hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa
bệnh quan liêu, phòng ngừa tham nhũng.
Như vậy theo ý nghĩa chung nhất, có thể hiểu quyền TCTT là quyền của
mọi công dân được tiếp cận những thông tin được ban hành và lưu giữ tại các cơ
quan, tổ chức công quyền đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước. Công


12

luan an


dân có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức cung cấp
những thông tin, tiếp cận những thông tin mà họ nắm giữ một cách dễ dàng và
nhanh chóng mà khơng bị ngăn cản, hạn chế vì những lý do xuất phát từ ý chí
chủ quan của những những người này hoặc những lý do ngồi các quy định của
pháp luật.
Từ những phân tích trên, tác giả nhận định: QTCTT trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình là khả năng của người dân được tìm kiếm, tiếp nhận những
thơng tin về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm bảo đảm tiếp cận được các
thông tin của các cơ quan quản lý là nước thơng qua hệ thống phát thanh truyền hình từ trung ương đến địa phương.
1.1.1.2. Đặc điểm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình
Thứ nhất, quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình là một
quyền hiến định và được bảo đảm về mặt pháp lý như quyền tiếp cận thơng tin
nói chung.
Ở nhiều nước, quyền đối với thông tin đã được công nhận bởi Hiến pháp
một cách cụ thể, trong khi ở các nước khác các tồ án cấp cao đã giải thích
những sự bảo đảm nói chung về tự do ngơn luận bao gồm cả quyền đối với thông
tin. Tầm quan trọng của quyền đối với thông tin cũng được phản ánh trong xu
hướng toàn cầu hướng tới việc ban hành pháp luật quốc gia nhằm mang lại hiệu
lực cho nó. Bên cạnh việc hiện diện một cách độc lập trong các đạo luật đơn
hành, quyền thông tin hay quyền được thông tin - với tư cách là một trong những
quyền cơ bản của công dân - đã được ghi nhận trong rất nhiều bản Hiến pháp của
các quốc gia trên thế giới.
Nhiều hiến pháp hiện đại quy định quyền thông tin như một quyền được
Nhà nước bảo đảm thực hiện. Các bản Hiến pháp có các quy định về quyền

thơng tin đã tăng nhanh một cách đáng kể, đặc biệt là các quốc gia đang chuyển
đổi đều có quy định trong hiến pháp về quyền TCTT nói chung và trong lĩnh vực
phát thanh - truyền hình nói riêng, ở một số quốc gia mà Hiến pháp đã được ban
hành từ lâu đời, đã sửa đổi Hiến pháp của mình để bổ sung một số quy định về

13

luan an


quyền TCTT. Ở Việt Nam, ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua bản Hiến pháp mới
và Nghị quyết số 64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Điều 25 Hiến pháp năm 2013 đã
hiến định quyền TCTT. Quyền được thông tin của công dân quy định tại Điều 69
của Hiến pháp năm 1992 mới chỉ thể hiện một phần nội dung của quyền TCTT
theo các chuẩn mực quốc tế về quyền tự do thông tin. Vì vậy, Hiến pháp năm
2013 đã chuyển từ quy định “quyền được thơng tin” sang khẳng định cơng dân
có “quyền TCTT”. Quy định về quyền TCTT của công dân trong Hiến pháp năm
2013 có nội hàm, ý nghĩa rất mới và phù hợp với xu hướng chung của thế giới so
với Hiến pháp năm 1992: (1) Cơng dân có quyền tìm kiếm, sử dụng và truyền bá
thơng tin; (2) Cơng dân TCTT khơng chỉ thơng qua hình thức cơng khai thơng
tin của cơ quan nhà nước mà cịn có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp
thông tin; (3) Đây là quyền của cơng dân, nhà nước có trách nhiệm ghi nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm; (4) Quyền này của công dân chỉ bị hạn chế bởi luật
trong trường hợp vì lý do an ninh, quốc phịng, vì đạo đức và sức khỏe cộng
đồng (Điều 25 và Điều 14 Hiến pháp năm 2013). Việc thực hiện quyền TCTT do
pháp luật quy định. Chính vì vậy, ngày 06 tháng 4 năm 2016, Quốc hội nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật TCTT để thể chế hóa và và bảo
đảm về mặt pháp lý việc thực thi quyền TCTT của công dân theo tinh thần Hiến

pháp năm 2013 [35] [41].
Thứ hai, mối quan hệ hai chiều giữa chủ thể cung cấp thông tin và chủ thể
thực hiện quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
Đặc điểm này xuất phát từ việc Hiến pháp của hầu hết các nước quy định
nguyên tắc hiến định quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Để thực
hiện nguyên tắc này, hầu hết Hiến pháp các nước thừa nhận bản chất tự nhiên
của quyền con người, phân biệt quyền con người và quyền công dân; tôn trọng
quyền con người, quan tâm, bảo vệ và bảo đảm lợi ích của con người; hiến định
nguyên tắc trách nhiệm nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân; giới hạn quyền con người, quyền công

14

luan an


dân - một điều kiện để thực hiện đảm bảo tính hiện thực của các quyền con
người, bảo đảm sự cân bằng các loại lợi ích, minh bạch và lành mạnh hóa mối
quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, cộng đồng, xã hội. Nghĩa là, công dân được
pháp luật trao các quyền, được hưởng các quyền do Nhà nước bảo đảm thì cũng
phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng. Do đó, quyền TCTT ở lĩnh vực phát thanh
- truyền hình trong mối quan hệ giữa chủ thể cung cấp thông tin và chủ thể thực
hiện quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình mặc dù là quyền cá
nhân, quyền hiến định nhưng để đáp ứng, thực hiện được quyền này phải luôn
luôn là mối quan hệ hai chiều: bên bảo đảm - bên thực hiện, mà không thể là mối
quan hệ đơn lẻ, một chiều.
Thứ ba, tính khơng tuyệt đối của nghĩa vụ cung cấp thơng tin
Nghiên cứu quy định của các nước cho thấy, khái niệm thông tin, phạmvi
thông tin và nội dung thông tin mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng cũng
có những khác biệt nhất định. Theo đó, khái niệm thơng tin có phạm vi rất rộng

(gồm cả thơng tin được tiếp cận và thông tin không được tiếp cận; thông tin
trong lĩnh vực công và thông tin trong lĩnh vực tư...) và do nhiều chủ thể khác
nhau từ Trung ương đến địa phương nắm giữ, mà không phải chỉ docơ quan Nhà
nước nắm giữ. Thông thường, pháp luật các nước đều quy định công dân được
quyền tiếp cận tất cả các loại thông tin, trừ một số loại thông tin không được tiếp
cận (ví dụ như: Thơng tin thuộc bí mật nhà nước; thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ
gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng - an ninh
quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người
khác...) và một số loại thông tin được phép tiếp cận nhưng lại phải có điều kiện
kèm theo (ví dụ như: Thơng tin liên quan đến bí mật kinh doanh, bí mật đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân…). Do đó, việc đảm bảo nghĩa vụ cung cấp thông tin
cho công dân của pháp luật các nước trên thế giới và Việt Nam là một nghĩa vụ
không tuyệt đối, nghĩa là cơ quan nhà nước có quyền khơng cung cấp hết thơng
tin cho công dân:

15

luan an


Thứ tư, nghĩa vụ cung cấp thông tin không phải là nghĩa vụ của tất cả các
cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
Luật của nhiều nước, trong đó Luật TCTT của Việt Nam quy định nghĩa
vụ cung cấp thông tin không phải là nghĩa vụ của tất cả các cơ quan Nhà nước.
Theo đó, nhìn từ góc độ chủ thể bảo đảm quyền, cơ quan nhà nước có nghĩa vụ
cung cấp thơng tin phải là cơ quan đáp ứng được điều kiện để bảo đảm quyền,
nghĩa là cơ quan này phải là cơ quan đang nắm giữ hoặc tạo ra những thơng tin
đó, trong đó tập trung vào nhóm các cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng
hành pháp trong quá trình các cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Nội dung của quyền tiếp cận thơng tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình
Hiện nay có hai quan điểm khác nhau về nội dung của quyền TCTT trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình của công dân.
Quan điểm thứ nhất, nội hàm quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh truyền hình của cơng dân bao gồm ba quyền: quyền tiếp nhận thơng tin, quyền
tìm kiếm thông tin và quyền sử dụng, phổ biến thông tin trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình [16].
Quan điểm thứ hai, nội hàm quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh truyền hình chỉ bao gồm quyền tiếp nhận thơng tin và quyền tìm kiếm thơng tin.
Việc tiếp cận chỉ nằm ở phương diện hướng chủ thể đạt đến mục đích thu thập
thơng tin mà hồn tồn khơng đề cập đến vấn đề sử dụng thơng tin [8] cịn hoạt
động phổ biến thông tin nằm trong một khái niệm rộng hơn, đó là quyền tự do
thơng tin. Quan điểm này phù hợp với quy định Luật TCTT năm 2016. Theo đó,
cơng dân được tiếp cận thông tin bằng các cách thức sau: 1.Tự do tiếp cận thông
tin được cơ quan nhà nước công khai; 2.Yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp
thông tin. Cụ thể:
Thứ nhất, quyền tiếp nhận thông tin của cơng dân trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình là khả năng công dân nhận được những thông tin, tài liệu do
cơ quan nhà nước tạo ra, nắm giữ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý

16

luan an


nhà nước thơng qua các hình thức cơng khai phù hợp, sẵn có mà khơng cần phải
u cầu. Quyền tiếp nhận thông tin của công dân thể hiện công dân có quyền tiếp
nhận những thơng tin đúng, đủ, kịp thời và dễ tiếp cận. Quyền tiếp nhận thơng
tin địi hỏi các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm cơng bố thông tin cũng như
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận thơng tin.
Thứ hai, quyền tìm kiếm thơng tin của cơng dân chính là khả năng của

cơng dân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp thơng tin
mà mình cần hoặc quan tâm trong phạm vi pháp luật cho phép. Quyền tìm kiếm
thơng tin được xem là một trong những điều kiện để bảo đảm cho việc tiếp nhận
thông tin. Sở dĩ như vậy vì, ngồi những thơng tin được cơng khai theo thủ tục
pháp luật quy định, nhiều thông tin sẽ chỉ được cung cấp khi có u cầu của
cơng dân vì thơng tin đó có thể chỉ liên quan đến quyền và lợi ích của một hoặc
một số cơng dân cụ thể. Quyền tìm kiếm thơng tin của người dân địi hỏi một
nghĩa vụ tương ứng từ phía các cơ quan nhà nước nắm giữ các thơng tin. Đó là
nghĩa vụ cung cấp thơng tin. Vì thế, để bảo đảm quyền tìm kiếm thơng tin cần có
cơ chế quy định về trình tự, thủ tục tạo điều kiện cho cơng dân có thể thực hiện
được quyền này một cách hiệu quả.
1.2. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trị của bảo đảm quyền tiếp cận thơng
tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
Những thơng tin quan trọng, có giá trị, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người dân thường do các cơ quan nhà nước nắm giữ. Quyền TCTT
trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình của người dân và thơng tin do cơ quan
nhà nước nắm giữ có mối liên hệ mật thiết khơng thể tách rời: một bên là người
có nhu cầu, một bên là người có nguồn cung; một bên là người có quyền, một
bên là người có nghĩa vụ. Cơ quan nhà nước cũng chính là một trong những lý
do làm phát sinh các hành vi ngăn cản, hạn chế nhu cầu tìm kiếm, tiếp cận thơng
tin của người dân. Chính điều này đã làm phát sinh khái niệm bảo đảm thực hiện
quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình, với ý nghĩa buộc các cơ

17

luan an


quan nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được tìm kiếm, tiếp cận

những thơng tin, tài liệu mà cơ quan đó đang nắm giữ.Quyền TCTT trong lĩnh
vực phát thanh - truyền hình của cơng dân được hiến pháp của nhiều quốc gia
ghi nhận, có nghĩa là thừa nhận giá trị xã hội của các quyền này và tạo tiền đề
quan trọng để thực hiện chúng, song những quyền này nếu thiếu các biện pháp
bảo đảm thì mới chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng [11, tr37].
Lý do là bởi cho dù quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
có là bẩm sinh, vốn có (nguồn gốc tự nhiên) hay phải do các nhà nước quy định
(nguồn gốc pháp lý), thì việc thực hiện quyền vẫn cần có pháp luật. Chính vì
vậy, quyền TCTT gắn liền với các quan hệ pháp luật và trở thành một phạm trù
pháp lý. Yếu tố pháp lý mà trực tiếp là các quy định pháp luật điều chỉnh đảm
bảo quyền TCTT của người dân có vai trị quan trọng để người dân thực hiện
quyền và các cơ quan khác can thiệp, bảo vệ quyền đó của người dân. Vì vậy,
một nhà nước không chỉ chú ý đến việc ghi nhận quyền trong đạo luật cơ bản mà
cịn tích cực tạo ra hệ thống phương tiện, điều kiện để chuyển hóa, biến quyền
TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình của công dân đã được thừa nhận
thành hiện thực trong cuộc sống, tránh hình thức.
Để làm rõ khái niệm bảo đảm quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh truyền hình, đề tài nghiên cứu khái quát về bảo đảm pháp lý: Theo tác giả Phạm
Hồng Thái và Nguyễn Thị Thu Hương (2012), thì bảo đảm các quyền con người,
quyền cơng dân là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội,
pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của cơng dân thực hiện
được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận.
Bản chất quyền TCTT là một quyền của con người, công dân và nghiên
cứu từ góc độ của khoa học luật học và đồng thời trong bối cảnh thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp và trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở
nước ta, các bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính quyết
định, là cốt lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức
thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã

18


luan an


hội phải thực hiện để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Các bảo
đảm pháp lý rất đa dạng, phong phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền con
người, quyền công dân, đến việc tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức,
việc thiết lập cơ chế, bộ máy chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền
cơng dân nói chung.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung làm rõ khía cạnh
pháp lý của bảo đảm quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình.
Các bảo đảm pháp lý quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
của cơng dân là các cách thức, thủ tục do pháp luật quy định mà các chủ thể có
liên quan phải thực hiện nhằm bảo đảm thực hiện quyền này của công dân trong
thực tiễn. Ở tầm cao nhất là ghi nhận quyền TCTT vào trong Hiến pháp, luật và
các biện pháp pháp lý yêu cầu các cơ quan nhà nước tôn trọng, bảo vệ và đảm
bảo thực hiện đầy đủ quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình của
người dân.
Thực tế cho thấy, các bảo đảm pháp lý xác lập, bảo vệ quyền và lợi ích
của người dân thơng qua việc pháp điển hóa quyền TCTT trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình. Theo nghĩa này, các bảo đảm pháp lý có vai trị đặc biệt,
khơng thể thay thế trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy thực hiện quyền
TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình. Vai trị của nó đối với quyền
TCTT thể hiện ở những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, các bảo đảm pháp lý là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc
thực hiện bảo vệ quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình, thể hiện ở
các quy định về quyền TCTT trong pháp luật được đảm bảo bằng bộ máy, cách
thức tác động quyền lực của Nhà nước. Nhà nước sử dụng các biện pháp cưỡng
chế trên cơ sở giáodục, thuyết phục bảo đảm cho quyền TCTT trong lĩnh vực
phát thanh - truyền hình được thực hiện và bảo vệ, nhờ đó mọi hành vi vi phạm

đều có khả năng bị phát hiện và xử lý.
Thứ hai, các bảo đảm pháp lý là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa
giá trị xã hội của quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình. Như vậy,
chỉ khi mang tính pháp lý, quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình

19

luan an


×