Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.42 KB, 91 trang )

L
Ê
T
HỊ
T
H
A
N
H

N
G
À
N
H
L
U

T
HI

N
P
H
Á
P
V
À
L
U



K
H
Ó
A

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THANH HẰNG

TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT
HÀNH CHÍNH

Đắk Lắk, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THANH HẰNG

TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02


PGS.TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan các nội dung được trình bày trong Luận văn này là cơng trình
nghiên cứu của tôi, được nghiên cứu và viết tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông.
Nội dung, số liệu trong Luận văn là chính xác, trung thực, phản ánh tính khách quan
trong q trình nghiên cứu. Tơi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Học viện.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Người cam đoan

Lê Thị Thanh Hằng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................ 1

2.


Tình hình nghiên cứu đề tài.................................................................................. 3

3.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................ 5

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................ 6

5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.................................................... 6

6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn............................................................. 6

7.

Kết cấu của đề tài................................................................................................. 7

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN.............................................................................................. 8
1.1 Khái niệm và đặc điểm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân.................................8
1.2 Nguyên tắc, vai trò tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân.....................................12
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân............19

Tiểu kết chương 1....................................................................................................... 23
Chương 2 CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM

SÁT NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH ĐẮK NÔNG..................................................... 24


2.1 Cơ sở pháp lý về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Nông ...24
2.2 Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân.............................................. 33
2.3 Thực trạng tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Nông..............43
Tiểu kết chương 2....................................................................................................... 67
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ
CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH ĐẮK NÔNG........69
3.1 Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp

tỉnh Đắk Nông........................................................................................................... 69
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh

Đắk Nông trong thời gian tới.................................................................................... 71
Tiểu kết chương 3....................................................................................................... 77
KẾT LUẬN................................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 81


DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM VIẾT TẮT
Các từ, cụm từ viết tắt

Các từ, cụm từ nguyên nghĩa

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCN


Cộng hịa xã hội chủ nghĩa

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

KTV

Kiểm tra viên

KTVA

Khởi tố vụ án

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33C quy định về việc
thành lập Tịa án qn sự, trong đó cơ quan Công tố được tổ chức trong hệ thống Tịa
án. Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 256-TTg, quy định
về tổ chức và nhiệm vụ của Viện cơng tố, theo đó Viện cơng tố được tổ chức thành một
hệ thống cơ quan độc lập. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ
chức VKSND năm 1960, hệ thống cơ quan Viện KSND được thành lập trong bộ máy
nhà nước, một mơ hình bộ máy nhà nước được coi là “kiểu mới” theo tư tưởng của
V.I.Lênin nhằm bảo đảm pháp chế thống nhất. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp
1959, những quy định của Luật tổ chức VKNSD năm 1960 là căn cứ pháp lý quan trọng,
tạo điều kiện để từng bước hình thành hệ thống cơ quan VKSND trong thực tiễn. Những
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND Việt Nam đã thể hiện quan điểm đổi mới về
tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, xuất phát từ tính chất của Nhà nước dân chủ nhân
dân trong giai đoạn cách mạng mới. VKSND là cơ quan nhà nước tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung thống nhất, nguyên tắc này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho việc bảo
đảm pháp chế thống nhất trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội và công dân.
VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của
nước CHXHCN Việt Nam. Theo quy định tại Điều 2 Luật Tổ chức VKSND, VKSND
có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Là cơ quan trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy cơ quan Nhà nước theo hiến
định, VKSND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, theo
đó, VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo

1


của Viện trưởng VKSND cấp trên; Viện trưởng các Viện Kiểm sát cấp dưới chịu sự

lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Như vậy, VKSND có vị trí độc
lập với các cơ quan cấp uỷ Đảng và Nhà nước, là cơ quan ngành dọc, chịu sự chỉ đạo,
tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao, người đứng đầu hệ thống. Chính
nhờ sự lãnh đạo tập trung mà VKSND các cấp có thể phát huy được sức mạnh của cả
hệ thống trong đấu tranh với vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo pháp chế thống nhất, có
khả năng đối trọng với chủ nghĩa cục bộ địa phương. Đây là nguyên tắc đặc thù của
ngành KSND, có ý nghĩa hết sức quan trọng để VKSND các cấp thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình, khơng bị lệ thuộc hay chịu bất cứ sự can thiệp nào từ phía
các cơ quan cấp uỷ Đảng và Nhà nước ở địa phương. Theo nguyên tắc này, bất kỳ Viện
trưởng VKSND ở cấp nào, bất kỳ KSV nào trong hoạt động của mình đều độc lập
khơng phụ thuộc bất kỳ cơ quan nhà nước nào; khi hoạt động các VKSND chỉ phụ
thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao.
Cho đến nay, qua các bản Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức VKSND năm 1981,
Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật tổ chức VKSND năm
1992, năm 2002, Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014, thì hiện nay
trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà nước ta, Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn
hệ thống cơ quan được quy định trong Hiến pháp. Chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân được thể hiện như là một trong những hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước. Vì
vậy, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cần phải được quan tâm nghiên cứu đầy đủ,
nhằm đáp ứng u cầu và địi hỏi của cơng cuộc cải cách tư pháp của Đảng và Nhà
nước ta, nhất là trong q trình nghiên cứu để hồn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước.
Trong hệ thống tổ chức và hoạt động của VKSND hiện nay đã chia thành 4 cấp kiểm
sát gắn với cấp hành chính (theo quy định tại Điều 40 Luật tổ chức VKSND). Việc tổ
chức hệ thống VKSND theo 4 cấp được xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của hoạt động tư
pháp, xuất phát từ tính chất và tầm quan trọng của cơng việc, từ quan hệ phối hợp


ngang cấp giữa các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và quan hệ với các cấp uỷ đảng,
chính quyền. Theo Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKSND gồm có VKSND tối

cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện; trong đó, những
hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các bộ phận hợp thành bộ máy
được tiến hành theo một cơ chế thống nhất trong bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm
vụ chung của VKSND.
Trong những năm gần đây, tổ chức của VKSND nói chung cũng như của VKSND
hai cấp tỉnh Đắk Nơng nói riêng đã có nhiều bước đổi mới cả về số lượng và chất
lượng, trong đó đội ngũ cơng chức, KSV là nhân tố quyết định trong việc thực hiện một
nền hành chính hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi
Việt Nam đang trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chính
vì vậy, việc nâng cao hiệu quả tổ chức của VKSND là vấn đề cần thiết để việc quản lý
và xây dựng đội ngũ cán bộ cơng chức có hiệu quả, đáp ứng được các u cầu, nhiệm
vụ mới, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa nói chung và đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước nói riêng ở
Việt Nam hiện nay.
Do đó, trước những yêu cầu bức thiết của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa thì VKSND hai cấp tỉnh Đắk Nông cần phải cơ cấu tổ chức cũng như
xây dựng một đội ngũ công chức, KSV vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, trình độ,
kỹ năng công tác tốt, nhạy bén, năng động để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời
kỳ mới. Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn đề tài “Tổ chức của VKSND từ thực tiễn
tỉnh Đắk Nông” làm đề tài nghiên cứu của mình để góp phần vào việc thực hiện công
tác tổ chức của VKSND ngày một tốt hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tổ chức của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cũng là vấn đề ln được Đảng và Nhà
nước quan tâm. Đã có nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến tổ


chức và hoạt động của các Cơ quan, tổ chức nói chung trong bộ máy nhà nước cũng
như của VKSND nói riêng.
Trong các Bộ Luật, Luật, đề tài Luận văn ở nước ta về tổ chức của VKSND có

liên quan đến đề tài, có thể kể đến như: Hiến pháp năm 2013; Luật tổ chức VKSND
năm 2014; Giáo trình Lý luận chung về VKSND, NXB Tư pháp năm 2019 do Trường
Đại học Kiểm sát Hà Nội biên soạn; bài viết “Một số vấn đề về công tác tổ chức cán
bộ của VKSND các tỉnh miền Nam Bộ” của tác giả Vũ Xuân Thu đăng trên Tạp chí
kiểm sát số 08/2003; bài viết “Tổ chức và hoạt động của VKSND ở Việt nam trong giai
đoạn hiện nay” của tác giả Khuất Văn Nga đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 06/2004; bài
viết “Tìm hiểu về sự hình thành của VKSND trong bộ máy Nhà Nước ta” của tác giả
Nguyễn Đức Lương đăng trên Tạp chí kiểm sát số 02/2004; bài viết “Xây dựng đội ngũ
cán bộ, kiểm sát viên, điều tra viên Viện kiểm sát quân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” của tác giả Nguyễn Văn Nghiên đăng trên Tạp chí kiểm sát số 14/2013; bài viết
“Bàn về mơ hình Viện kiểm sát và chế định kiểm sát viên trong Luật Tổ chức VKSND
(sửa đổi)” của tác giả Lại Hợp Việt đăng trên Tạp chí kiểm sát số 10/2014; bài viết
“Mối quan hệ giữa nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành với nguyên
tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của VKSND” của tác giả Lê Ngọc Duy đăng
trên Tạp chí kiểm sát số 11/2015; bài viết “Bàn về vai trò, trách nhiệm của đơn vị và
cán bộ quản lý nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát các cấp” của tác giả Lại Hợp Việt đăng
trên Tạp chí kiểm sát số 14/2016; bài viết “Một số vấn đề rút ra qua hai năm thực hiện
luật tổ chức VKSND trong công tác tổ chức cán bộ của ngành kiểm sát nhân dân” của
tác giả Tăng Ngọc Tuấn đăng trên Tạp chí kiểm sát số 01/2018; bài viết “Hoàn thiện
pháp luật về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND” của tác giả Ngô Hùng Thái
đăng trên Tạp chí khoa học kiểm sát số 06(34)/2019; bài viết “Một số giải pháp trong
công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của VKSND thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Đỗ Mạnh Bổng đăng trên Tạp chí kiểm sát số 02/2020 và Đề tài luận văn: “Quản lý đội


ngũ cán bộ, công chức của VKSND tỉnh Đắk Nông hiện nay” của tác giả Lê Thanh
Hưng năm 2016.
Tuy vậy, các đề tài nêu trên, chưa có đề tài nào chuyên nghiên cứu về tổ chức của
VKSND, nhất là chưa có đề tài, luận văn hay luận án đi sâu vào nghiên cứu một cách
có hệ thống, cụ thể về tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nơng, vì vậy, những cơng trình

trên là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị về cả mặt lý luận và thực tiễn cho em để thực
hiện đề tài nghiên cứu của mình. Do đó, đây là một đề tài cần được nghiên cứu nhằm
giải quyết những bất cập hiện nay trong tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nơng, từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của tổ chức VKSND từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đánh giá đúng thực trạng và
tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức của VKSND nói chung và tổ chức
của VKSND tỉnh Đắk Nơng nói riêng, qua đó góp phần quan trọng trong việc hồn
thành tốt nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của VKSND tỉnh Đắk Nông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức VKSND, theo đó, nghiên cứu khái

niệm, vai trị quan trọng, định hướng có tính chiến lược của Nhà nước về tổ chức của
VKSND.
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật về tổ chức của VKSND.
- Khảo sát và đánh giá thực tiễn về tổ chức của VKSND tỉnh Đăk Nông, chỉ ra

được những ưu điểm, hạn chế; tìm ra nguyên nhân của các hạn chế trong tổ chức của
VKSND tỉnh Đắk Nông.


- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực thi có hiệu quả những quy

định về tổ chức của VKSND, góp phần nâng cao hiệu quả trong việc tổ chức của
VKSND tỉnh Đắk Nông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp luật
về tổ chức của VKSND; thực trạng áp dụng pháp luật về tổ chức của VKSND và thực
tiễn tổ chức của VKSND tỉnh Đắk Nông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận và quy định pháp

luật hiện hành về tổ chức của VKSND
- Về không gian: Luận văn chỉ khảo sát và đánh giá thực trạng về tổ chức của

VKSND tỉnh Đắk Nông.
- Về thời gian: việc khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức của VKSND tỉnh Đắk

Nông trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đề tài sử dụng
phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, phương pháp kết
hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp so sánh… để giải quyết các vấn đề đặt ra trong
đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài góp phần bổ sung vào lý luận về tổ chức của VKSND.


6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp thêm những thơng tin có giá trị giúp các nhà hoạch định chính sách,

hoạch định lập pháp, các công chức, KSV làm công tác nghiên cứu và thực thi pháp
luật cũng như hoạt động thực tiễn có cái nhìn tồn diện, sâu sắc hơn trong tổ chức của
VKSND.
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về tổ chức của VKSND
Chương 2. Quy định về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn tại tỉnh Đắk
Nông hiện nay
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN
1.1 Khái niệm và đặc điểm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1 Khái niệm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

Trong khoa học hành chính và đời sống xã hội, theo các cách tiếp cận khác nhau,
có những quan niệm và cách giải thích khác nhau về thuật ngữ tổ chức của VKSND.
Để làm rõ khái niệm này, Luận văn nghiên cứu một số khái niệm:
* Khái niệm tổ chức

Theo Đại từ điển tiếng Việt, tổ chức với nghĩa là động từ, là sắp xếp, bố trí thành
các bộ phận để cũng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng hoặc là sắp
xếp, bố trí để làm cho có trật tự, nền nếp hay tiến hành một công việc theo cách thức,
trình tự nào; và với nghĩa là danh từ, tổ chức là tập hợp người được tổ chức theo cơ cấu
nhất định để hoạt động vì lợi ích chung. [39, tr.1662]

Theo Từ điển Tiếng Việt, “tổ chức là làm cho thành một chỉnh thể, có một cấu
tạo, một cấu trúc và có những chức năng, nhiệm vụ chung nhất định, với phương thức
hoạt động riêng” [39, tr.1662]. Như vậy, Luận văn sẽ tiếp cận vấn đề tổ chức với nghĩa
là: việc bố trí, sắp xếp lại thành một chỉnh thể với một cấu trúc nhất định để hoạt động
vì những quyền lợi chung, nhằm một mục đích chung và với những phương thức hoạt
động riêng phù hợp với từng bộ phận, từng nhóm trong tổ chức đó.
* Khái niệm Viện kiểm sát nhân dân

Theo Từ điển Tiếng Việt, “Viện kiểm sát là cơ quan chuyên kiểm tra và giám sát
việc chấp hành pháp luật”. [19, tr. 1151]
Từ điển Luật học không đưa ra khái niệm về VKSND mà chỉ khái niệm:
“VKSND tối cao là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư


pháp trên phạm vi cả nước góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất”. [30, tr. 855]
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 khái niệm: “VKSND là cơ quan thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. [21]
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu: Viện kiểm sát nhân dân là một trong những bộ
phận hợp thành hệ thống cơ quan của bộ máy nhà nước của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, có chức năng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Cũng như các hệ thống cơ quan khác, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói
chung. Song, do có vị trí, chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc riêng, nhằm
bảo đảm cho các Viện kiểm sát hoạt động có hiệu quả cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ
Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về tổ chức của VKSND như
sau: Tổ chức của VKSND là việc bố trí, sắp xếp lại thành một chỉnh thể thống nhất với
cơ cấu, số lượng hợp lý, gồm đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất, năng lực để
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp một cách
hiệu quả.
1.1.2 Đặc điểm tổ chức của VKSND

Thứ nhất, tổ chức của VKSND được thành lập từ VKSND tối cao đến VKSND
cấp huyện, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có
mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi công vụ.


Trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước pháp quyền của nước ta, hệ thống cơ quan tư
pháp nói chung và VKSND nói riêng được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Nước Cộng hịa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốtgiữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. [20]
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, VKSND là một cơ quan trong hệ thống
cơ quan của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Do đó, cũng như các hệ thống cơ
quan khác, VKSND được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức năng, nhiệm vụ
mang tính đặc thù nên hệ thống các VKSND được tổ chức và hoạt động theo những
nguyên tắc đặc thù. Điều đó khơng có nghĩa là tách hệ thống VKSND ra khỏi bộ máy
nhà nước ta, mà nhằm bảo đảm cho nó hoạt động có hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Những nguyên tắc về tổ chức

và hoạt động của VKSND được quy định tại Điều 109 Hiến pháp năm 2013 và Điều 7
Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Đó là nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong
ngành, nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của VKSND và nguyên tắc kết
hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với quyền thảo luận và quyết định theo đa số
những vấn đề quan trọng của Ủy ban kiểm sát.
Vì vậy, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung cũng như
VKSND nói riêng đều có sự thống nhất từ trên xuống dưới và có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nhằm thực thi công vụ một cách hiệu quả.


Thứ hai, tổ chức của VKSND là cơ sở cho cơng tác tổ chức cán bộ nhằm nâng
cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của VKSND để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của mình.
Cơng cuộc cải cách tư pháp hiện nay đã đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với cán
bộ, công chức ngành KSND. VKSND là cơ quan với chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đảm bao không để xảy ra oan sai hay bỏ lọt tội phạm,
bảo vệ pháp luật và quyền con người, quyền công dân, góp phần trong đấu tranh,
phịng chống tội phạm, do đó, địi hỏi mỗi một cơ quan, đơn vị, ngồi vai trị của người
đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị thì cần phải có một đội ngũ cơng chức, Kiểm sát viên
“Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thơng về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ
cương và trách nhiệm”. Vì vậy, trên cơ sở tổ chức của VKSND, công tác tổ chức cán
bộ cần đảm bảo mỗi cán bộ Kiểm sát có đủ năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm, bản
lĩnh nghề nghiệp, qua đó để nâng cao vị trí, vai trị và trách nhiệm của VKSND trong
việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, tổ chức của VKSND được thiết lập là để thực hiện những chức năng,
nhiệm vụ được giao trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp
Để một hệ thống VKSND có thể thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong

ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào các cơ quan chính quyền địa phương.
Do đó, việc tổ chức của VKSND các cấp cũng phải bảo đảm quán triệt các nguyên tắc
trên để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ tư, tổ chức của VKSND là cơ sở để đánh giá chất lượng thực thi nhiệm vụ
của cán bộ, công chức trong các công tác và hoạt động của Ngành


Tổ chức của VKSND một cách khoa học, khách quan, công khai, minh bạch trên cơ
sở triển khai và thực hiện có hiệu quả Luật Tổ chức VKSND năm 2014, các văn bản
hướng dẫn thi hành, các khâu công tác tổ chức cán bộ với nhiều quy định mới đã làm
tăng lên trách nhiệm, thẩm quyền của cán bộ, công chức trong ngành Kiểm sát, qua đó
đánh giá được ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cũng như chất lượng thực thi
nhiệm vụ trong công tác và hoạt động của Ngành.
1.2 Nguyên tắc, vai trò tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1 Nguyên tắc tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1.1. Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành

Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành bắt nguồn từ nguyên tắc
tập trung dân chủ nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật. Nguyên tắc này mang
tính đặc thù của ngành kiểm sát, là một nguyên tắc hiến định và được quy định từ Hiến
pháp năm 1959 đến nay. Nguyên tắc này cũng bảo đảm cho ngành kiểm sát được tổ
chức theo một chỉnh thể thống nhất và hoạt động được tập trung thống nhất theo chiều
dọc từ người lãnh đạo cao nhất cho đến các cấp, các cán bộ của ngành kiểm sát. Nội
dung nguyên tắc được thể hiện như sau:
- Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành đề cao vai trò của người

đứng đầu ngành kiểm sát. Theo đó, Viện trưởng VKSND tối cao được trao thẩm quyền
rất rộng để bảo đảm tính thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành với tư cách là
người đứng đầu ngành, chịu trách nhiệm về toàn bộ hệ thống VKSND. Bên cạnh đó,
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới phải chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của

Viện kiểm sát cấp mình và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND cấp trên. Cụ
thể, tại Khoản 1 Điều 109 Hiến pháp năm 2014 quy định: Viện kiểm sát nhân dân do
Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp
dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


Tại Khoản 5, 6 Điều 63 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện trưởng VKSND tối cao: “Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên
sơ cấp, Điều tra viên các ngạch, Kiểm tra viên các ngạch; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức các chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền”.Các chức vụ lãnh đạo, quản lý
thuộc thẩm quyền như Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao,
cấp tỉnh, cấp huyện; Viện trưởng VKS quân sự quân khu và khu vực, Phó viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự trung ương, quân khu và khu vực đều do Viện trưởng VKSND
tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Như vậy, tất cả các VKSND từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống nhất.
Mọi hoạt động của VKSND, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng.
Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của VKS
do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSND cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất
của Viện trưởng VKSND tối cao. Viện trưởng VKSND tối cao chịu trách nhiệm trước
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (Khoản 12 Điều 63 Luật Tổ
chức VKSND năm 2014).
- Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành còn được thể hiện bằng

việc lãnh đạo, chỉ đạo của Viện kiểm sát cấp trên và Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên
đối với Viện kiểm sát cấp dưới và Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới. Cụ thể, theo
Khoản 1 Điều 7 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Viện kiểm sát cấp trên có
trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát cấp
dưới. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái

pháp luật của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới”.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo đảm
cho các cấp Viện kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện nâng cao hiệu
quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.


Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của
Viện trưởng, là người có quyền và trách nhiệm quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền
của Viện kiểm sát và chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi của mình khơng có nghĩa là
loại trừ nguyên tắc tập trung dân chủ ra khỏi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Phải thấy rằng, bên cạnh Viện trưởng cịn có Ủy ban kiểm sát. Theo Khoản 2 Điều 7
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Tại VKSND tối cao, VKSND cấp cao,
VKSND cấp tỉnh, VKSQS Trung ương, VKSQS quân khu và tương đương thành lập Ủy
ban kiểm sát để thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý
kiến về các vụ án, vụ việc trước khi Viện trưởng quyết định”
Như vậy, quy định này vừa bảo đảm mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ của tập
thể, vừa hạn chế những thiếu sót của Viện trưởng và đề cao trách nhiệm của Viện
trưởng. Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành được xác lập trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ của VKSND, đồng thời, cũng là một trong những căn cứ để phân
biệt về tổ chức và hoạt động của VKSND với các cơ quan khác trong bộ máy nhà
nước.
1.2.1.2. Nguyên tắc độc lập

Nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của VKSND bắt nguồn từ
nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
Hiến pháp năm 2013, nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất.
Nội dung nguyên tắc này thể hiện như sau:
- Các VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, chỉ


tuân theo Hiến pháp và pháp luật, không chịu sự chi phối bởi các cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân, mà chỉ chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao, sự
chỉ đạo của Viện trưởng VKSND cùng cấp. Điều đó có nghĩa là các cơ quan, tổ chức,
cá nhân khơng có quyền can thiệp vào hoạt động của VKSND. Mặt khác, về mặt tổ


chức, Viện trưởng VKSND tối cao quyết định bộ máy và biên chế của VKSND các
cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên
các Viện kiểm sát các cấp. Do đó, VKSND có bộ máy tổ chức độc lập, không chịu sự
chi phối từ bất cứ cơ quan nhà nước nào.
- Nguyên tắc độc lập được bảo đảm bằng việc nghiêm cấm hành vi can thiệp

vào hoạt động nghiệp vụ của VKSND, điều này quy định trong Luật Tổ chức VKSND
năm 2014: “Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân cản trở, can thiệp vào hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân; lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động khác của Viện kiểm sát nhân dân” (Khoản 3 Điều 9).
- Nguyên tắc độc lập còn được bảo đảm bằng hoạt động nghiệp vụ một cách độc

lập của Kiểm sát viên, nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoặc can thiệp trái pháp luật
vào hoạt động của Kiểm sát viên. Theo đó tại Khoản 2 Điều 109 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên
tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”. Như
vậy, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền cơng tố, tranh tụng tại phiên
tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp. Mặt khác, nguyên tắc này phải phù hợp với nguyên
tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, bảo đảm sự lãnh đạo của Viện
trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng
trong tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm bảo đảm cho VKSND có đầy đủ điều

kiện và căn cứ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
1.2.1.3. Nguyên tắc kết hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với quyền thảo

luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng của Ủy ban kiểm sát


Nguyên tắc này được quy định từ Luật tổ chức VKSND năm 1960, tuy nhiên,
lúc này, Ủy ban kiểm sát chỉ có vai trị tư vấn cho Viện trưởng chứ khơng có quyền
quyết định. Đến Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND năm 1992, vai trò của
Ủy ban kiểm sát được đề cao, theo đó, Ủy ban kiểm sát có quyền thảo luận và quyết
định theo đa số những vấn đề quan trọng.
Hiến pháp năm 2013 đã không đề cập đến Ủy ban kiểm sát, nhằm thu hẹp thẩm
quyền của Ủy ban kiểm sát, theo xu hướng chỉ là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng và
quyết định một số vấn đề quan trọng. Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định về
Ủy ban kiểm sát trên cơ sở tổ chức hệ thống bốn cấp Viện kiểm sát, cụ thể như sau: Tại
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện
kiểm sát quân sự quân khu và tương đương thành lập Ủy ban kiểm sát để thảo luận và
quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến về các vụ án, vụ việc trước
khi Viện trưởng quyết định (Khoản 2 Điều 7).
Như vậy, Ủy ban kiểm sát được thành lập tại năm đơn vị Viện kiểm sát đó là:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện
kiểm sát quân sự quân khu và tương đương.
Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao được quy định trong Luật Tổ chức VKSND
năm 2014, như sau: “Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền.
Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán
thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện
trưởng” (Khoản 3 Điều 43).
“Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban kiểm sát

thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân


và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết
định” (Khoản 4 Điều 43).
So với Luật Tổ chức VKSND năm 2002, Ủy ban kiểm sát theo Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 đã thu hẹp thẩm quyền, đồng thời đề cao vai trò của Viện trưởng
như:
- Tại Khoản 3 Điều 43 không quy định trong trường hợp “nếu Viện trưởng

khơng nhất trí với ý kiến của đa số thành viên ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết
định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch
nước” (Điều 32 Luật Tổ chức VKSND năm 2002). Quy định này cho thấy, vai trò,
trách nhiệm của Viện trưởng VKSND tối cao là người có quyền cao nhất trong việc
quyết định những vấn đề quan trọng cùng với Ủy ban kiểm sát.
- Tại Khoản 4 Điều 43, Ủy ban kiểm sát chỉ thảo luận, cho ý kiến để Viện

trưởng xem xét, quyết định, tức là thẩm quyền quyết định cuối cùng là của Viện
trưởng, mà Ủy ban kiểm sát chỉ tham gia với vai trò cơ quan tư vấn, tham mưu, phụ
giúp cho Viện trưởng đưa ra quyết định.
Đối với các Ủy ban kiểm sát của VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKS quân
sự trung ương và VKS quân sự quân khu và tương đương được quy định tại các điều
45, 47, 53, 55 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, giống như quy định của Ủy ban kiểm
sát VKSND tối cao về vai trò tư vấn cho viện trưởng là theo đề nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án
hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định; Về nghị quyết của Ủy ban
kiểm sát cũng phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành, trường hợp
biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Tuy nhiên,
nếu Viện trưởng khơng nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì

thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm


sát nhân dân tối cao.
Như vậy, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 ghi nhận nguyên tắc này một cách
cụ thể và chi tiết. Trong tổ chức và hoạt động của VKSND, vai trò của Ủy ban kiểm sát
là cần thiết, với trí tuệ tập thể, thành viên của Ủy ban kiểm sát đều là những Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và quản lý, chỉ đạo,
điều hành, vì vậy, có thể tham gia thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án
hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
phức tạp. Đồng thời, phát huy sức mạnh tập thể của Ủy ban kiểm sát trong công tác
tham mưu, tư vấn để thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng cùng
với quyết định của Viện trưởng sẽ mang lại hiệu quả cao trong hoạt động lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành VKSND tối cao và Viện kiểm sát các cấp.
1.2.2 Vai trò tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân

Thứ nhất, trong các cơ quan hành chính nói chung cũng VKSND nói riêng, mỗi
cơ quan, đơn vị đều có mục tiêu, nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao phó.
Và để thực hiện và hồn thành xuất sắc những nhiệm vụ đó, trước hết cần phải tổ chức
bộ máy Nhà nước một cách hiệu quả, trong đó người đứng đầu cơ quan trực tiếp tổ
chức quản lý trong việc bố trí, sắp xếp nhân lực sao cho phù hợp với từng nhiệm vụ cụ
thể nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng để thực hiện các mục tiêu đề ra hay nhiệm
vụ được giao. Như vậy, có thể thấy vai trị quan trọng trong việc tổ chức của bất kì một
cơ quan Nhà nước hay tổ chức nào, sẽ quyết định toàn bộ quá trình hoạt động cũng như
hiệu quả đạt được của cơ quan, tổ chức đó.
Thứ hai, tổ chức của VKSND nhằm quản lý xã hội theo pháp luật, bao gồm hệ
thống các văn bản pháp luật là cơ sở để quản lý Nhà nước. Theo đó, trên cơ sở hệ
thống pháp luật chung và thống nhất, người đứng đầu đơn vị mà ở đây là Viện trưởng
VKSND dựa vào đó để có thể tổ chức bộ máy một cách hồn thiện và hiệu quả nhất.



Thứ ba, tổ chức của VKSND có chức năng xác định rõ trách nhiệm và cách thức
thể hiện vai trò của mỗi cán bộ Kiểm sát trong việc thực hiện cơng vụ. Khi việc tổ chức
đã hồn chỉnh, sẽ làm cho mỗi cán bộ, công chức hiểu rõ những yêu cầu của đơn vị đối
với họ thông qua các quy tắc, quy trình làm việc. Ngồi ra, tổ chức của VKSND cịn
góp phần xử lý thơng tin để ra quyết định và giải quyết các vấn đề của mình.
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
1.3.1 Yếu tố chính trị - pháp lý

Trong xây dựng pháp luật và hoàn thiện tổ chức của các cơ quan nhà nước trong
đó có tổ chức của VKSND, yếu tố chính trị thể hiện ở sự ổn định bền vững của thể chế
chính trị và mơi trường chính trị, pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
quản lý xã hội của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; tạo niềm tin của các cán bộ,
công chức, đảng viên và người dân đối với Đảng, Nhà nước. Từ đó quán triệt và
nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước [28]. Bên cạnh đó, bảo đảm mọi quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng
đối với chiến lược xây dựng pháp luật cho từng lĩnh vực phải được đề ra kịp thời, phù
hợp yêu cầu khách quan, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn quản lý của Nhà nước; bởi đây là
cơ sở để Nhà nước thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Mặt khác, Đảng ta luôn
nhận thức sâu sắc sự cần thiết xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn
diện, là cơ sở xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh địi hỏi tồn Đảng,
tồn dân chung tay tham gia góp ý kiến, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước
trong công tác xây dựng pháp luật.
Tuân theo sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là yếu tố quan trọng đảm bảo
những chủ trương, đường lối duy trì và xây dựng đất nước giàu mạnh. Viện kiểm sát
nhân dân là một cơ quan nhà nước chịu sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, khi
thực hiện nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân phải đảm bảo chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực hiện đúng theo sự chỉ đạo. Đây là



×