Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỀ CHÍNH TRỊ - AN NINH VỚI ASEAN 10 NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.51 KB, 20 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

BÀI TẬP TIỂU LUẬN NHÓM
Bộ mơn: Chính sách đối ngoại Việt Nam II
Đề tài: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỀ

CHÍNH
TRỊ - AN NINH VỚI ASEAN 10 NĂM ĐẦU THẾ KỶ
21
(2000-2010)


Các thành viên: lớp CT36C


Bùi Quốc Khánh (nt)



Vũ Văn Tơ



Hồng Thị Diễm



Hoàng Thiên Trang




Phạm Thị Hồng Linh



Lakhon Vongxulit

Hà Nội, 2011

MỤC LỤC:
Trang
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
 BỐI CẢNH 10 NĂM ĐẤU THẾ KỶ XXI.............................................................3
 Bối cảnh thế giới.....................................................................................................3
 Bối cảnh khu vực....................................................................................................3
 Bối cảnh Việt Nam..................................................................................................4



ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM VỀ
CHÍNH TRỊ - AN NINH VỚI ASEAN.................................................................5



Q TRÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH VỀ CHÍNH TRỊ - AN NINH
CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI ASEAN


 Chủ trương và đóng góp của Việt Nam trong việc
xây dựng cộng đồng an ninh- chính trị ASEAN đến 2015.....................................6

 Ứng xử của Việt Nam về biển Đông trong giữ gìn an ninh
ở khu vực Đơng Nam Á..........................................................................................7
 Việt Nam và các cơ chế đối thoại trong ASEAN và giữa ASEAN với bên
ngoài


Việt Nam và các cơ chế đối thoại trong ASEAN.............................................9
 ARF và đóng góp của Việt Nam.................................................................9
 Việt Nam và đóng góp cho kênh 2.............................................................10



Đóng góp của Việt Nam trong đối thoại giữa ASEAN và bên ngoài............10

 Nhân tố Mỹ, Trung Quốc trong việc triển khai
chính sách chính trị- an ninh Việt Nam- ASEAN..................................................11
 Những điểm nổi bật trong về hợp tác chính trị- an ninh
với ASEAN trong năm Việt Nam làm chủ tịch ASEAN 2010..............................13



ĐÁNH GIÁ Q TRÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH VỀ CHÍNH TRỊ
AN NINH VIỆT NAM – ASEAN TRONG 10 NĂM VỪA QUA......................14

DANH MỤC THAM KHẢO............................................................................................16

LỜI MỞ ĐẦU


K


ể từ khi được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 đến nay, Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) đã có 10 nước thành viên và trở thành một thể chế chính trị có tiếng
nói ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương nói riêng và thế giới nói chung. Đối với Việt
Nam, việc gia nhập ASEAN là một trong những quyết sách hết sức quan trọng của Đảng
và Nhà nước trong việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa
phương hoá, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Phó Thủ tướng, bộ trưởng
Ngoại giao Phạm Gia Khiêm nhấn mạnh: “Trong 15 năm qua, Việt Nam là một bộ phận
không thể tách rời, và là thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong ngơi nhà
chung Đông Nam Á”(1).
Hiện nay, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á đang cố gắng xây dựng Cộng
đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột là chính trị, kinh tế và văn hoá- xã hội (2). Tuy nhiên bài
viết này chỉ tập trung vào phân tích nhân tố chính trị- an ninh trong quan hệ giữa Việt
Nam và ASEAN vì theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu về ASEAN ở khu vực và
trên thế giới, thành tựu lớn nhất mà tổ chức ASEAN đạt được là ở lĩnh vực chính trị và an
ninh. Xét thời điểm thành lập ASEAN và quá trình thành lập, vấn đề hợp tác về chính trị
- an ninh là rất quan trọng ở khu vực.
Vào thời điểm ngay sau khi gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam còn tỏ ra khá
bị động và chưa tham gia nhiều vào hoạt động của ASEAN do chưa có sự hiểu biết đầy
đủ về các nước trong khu vực. Tuy nhiên, từ sau Hội nghị cấp cao ASEAN VI tổ chức tại
Việt Nam năm 1998, chúng ta đã tham gia chủ động và tích cực vào các hoạt động của
khối và để lại nhiều dấu ấn đáng kể. Đến năm 2010, Việt Nam là chủ nhà của hội nghị
cấp cao ASEAN lần thứ XVI và XVII, lúc này Việt Nam đã trở thành thành viên quan
trọng và có tầm ảnh hưởng nhất định trong khu vực. Vì vậy, trong 10 năm hội nhập và
phát triển với khu vực trên lĩnh vực chính trị- an ninh, chúng ta cần một cái nhìn tổng
quan và rút ra những bài học kinh nghiệm cho những năm tiếp theo trong bối cảnh tình
hình thế giới và khu vực biến đổi phức tạp không ngừng.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích bối cảnh thế giới và khu vực 10
năm đầu thế kỷ 21 để thấy được cơ sở mà nước ta hoạch định chính sách với ASEAN
trong lĩnh vực chính trị- an ninh, cũng như việc triển khai những chính sách đó vào thực

tế. Ở phần cuối bài viết là những nhận định, đánh giá kết quả của q trình triển khai
chính sách đối ngoại của ta với ASEAN về chính trị- an ninh.



Từ lâu, trong công việc nội bộ của một quốc gia nói riêng cũng như quan hệ quốc
tế nói chung, vấn đề chính trị ln đi cùng an ninh. Có thể hiểu chính trị theo nghĩa giản
đơn là những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước và về quan hệ chính thức
giữa các quốc gia với nhau; còn an ninh là trạng thái yên ổn về mặt chính trị, về trật tự xã
hội. Vì vậy các quốc gia khi muốn phát triển một cách bền vững cần một thể chế chính trị
ổn định, ln cố gắng đảm bảo an ninh, khi đó các lực lượng lao động trong xã hội sẽ có
khả năng phát huy tối đa những năng lực để xây dựng đất nước. Trong bối cảnh tồn cầu
hóa, các yếu tố gây bất ổn ngày càng trở nên đa dạng, khó lường; việc hợp tác giữa các
quốc gia trên cơ sở cùng mục tiêu về chính trị- an ninh trong khu vực và trên toàn thế
giới trở thành một nhu cầu tất yếu. Việt Nam và ASEAN cũng nằm trong xu thế chung
đó.



Bối cảnh 10 năm đầu thế kỷ XXI

 Bối cảnh thế giới
Tồn cảnh chính trị thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI có nhiều biến đổi đa
dạng và phức tạp. Bên cạnh các vấn đề an ninh truyền thống vẫn còn tồn tại như cuộc
khủng hoảng trên bán đảo Triều tiên, vấn đề eo biển Đài Loan, chạy đua vũ trang; thì các
vấn đề an ninh phi truyền thống liên tiếp nổi lên thu hút sự chú ý của các nước như buôn
lậu, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, cướp biển, khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa tiền,
tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm công nghệ cao. Thế kỷ XXI bắt đầu cũng đánh dấu
quy mô của chủ nghĩa khủng bố đã lan rộng ra quy mơ tồn thế giới, biểu hiện là cuộc tấn
công vào Mỹ ngày 11/9/2001 và các cuộc đánh bom vào khu vực du lịch Bali Indonexia

vào tháng 10/2002. Ngồi ra, xu thế tồn cầu hóa vẫn tiếp tục phát triển mạnh, mọi hoạt
động quốc tế đều không thể biệt lập. Do đó, cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Mỹ năm
2008 đã lan nhanh và có tác động xấu đến cả đời sống kinh tế và chính trị tồn cầu. Như
vậy để đối phó với những khó khăn của thế kỷ mới một cách có hiệu quả cần có sự hợp
tác, liên hết tồn khu vực và quốc tế dưới nhiều hình thức, dựa trên cơ sở có ngun tắc
và luật pháp quốc tế. Về phía Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác giữa các nước, các
khu vực trên những lợi ích chung trong đời sống chính trị quốc tế.

 Bối cảnh khu vực
Mơi trường chính trị an ninh ở khu vực Đông Nam Á trong những năm đầu thế kỉ 21
đã có nhiều biến đổi theo hướng bất lợi cho hịa bình và ổn định khu vực so với mơi
trường chính tri an ninh ở Đông Nam Á những năm 90 của thế kỉ trước. Phong trào li


khai đã được kích trở lại từ sự kiện Đơng Timor rời khỏi Indonesia để trở thành một quốc
gia độc lập. Sự có mặt của Mỹ ở một số nước Đông Nam Á làm cho Mỹ và các đồng
minh của Mỹ trở thành một trong những kẻ thù của các lực lượng hồi giáo li khai.
Những diễn biến trên trong tình hình khu vực Đơng Nam Á đã được các lực lượng
khủng bố quốc tế xem là cơ hội thuận lợi để biến vùng này trở thành địa bàn hoạt động
quan trọng trong cuộc chiến chống Mỹ và các đồng minh. Các hoạt động khủng bố trong
khu vực ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ tàn bạo trong mấy năm gần đây bởi
có sự kết hợp giữa các lực lượng khủng bố quốc tế và khu vực mà điển hình là cuộc đánh
bom ở khu du lịch Bali, Indonesia.
Bên cạnh đó cịn nhiều thách thức an ninh phi truyền thống đang gia tăng và trở nên
trầm trọng như bn lậu vũ khí, ma túy, phụ nữ và trẻ em ngày càng trở nên dễ dàng
trong bối cảnh khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ.
Các vấn đề có "tác động lan toả" ảnh hưởng đến an ninh toàn khu vực do hệ quả của
sự lệ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế, chính trị và an ninh của các quốc gia
trong khu vực. Đó là các vấn đề liên quan đến nội trị của một số nước, vấn đề tăng cường
vũ trang trong khu vực và các vấn đề an ninh phi quân sự như năng lượng, lương thực,

môi trường... Lấy vấn đề tăng cường mua sắm vũ khí trong khu vực trong thời gian gần
đây làm ví dụ. Mặc dù có nhiều ngun nhân để lý giải hiện tượng này, nhưng ở khía
cạnh nào đó, việc này thể hiện sự lo ngại lẫn nhau và thiếu lòng tin của các nước trong
khu vực về môi trường an ninh trong tương lai.

 Bối cảnh Việt Nam
Trong 10 năm từ 2000 đến 2010, Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài
chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng,
đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu
nhập trung bình. Các lĩnh vực văn hố, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt,
nhất là xóa đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện
rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu
rộng và hiệu quả, góp phần tạo mơi trường hịa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho
phát triển đất nước.Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta
vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra
những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa và nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng
với tiềm năng, vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe


dọa chủ quyền quốc gia. Chính sự nhìn nhận khách quan, trung thực về bối cảnh thế giới,
khu vực và trong nước này đã giúp Việt Nam thấy được sự cần thiết của hợp tác và liên
kết với ASEAN trên các mặt, đặc biệt là chính trị- an ninh.



Định hướng chính sách của Việt Nam về chính trị - an ninh với
ASEAN


Mười năm đầu thế kỷ XXI đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong định hướng
chính sách đối ngoại của Đảng ta với ASEAN, đặc biệt về lĩnh vực chính trị - an ninh.
Đại hội IX và X ghi nhận những bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng về quan
hệ Việt Nam – ASEAN.
Trong lĩnh vực chính trị - an ninh, từ Đại hội IX, Đảng ta luôn xác định “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”. Đại hội Đảng chỉ ra Việt Nam
cần đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát
triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế
theo các ngun tắc: tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết
các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hịa bình; tơn trọng lẫn nhau, bình
đẳng và cùng có lợi. Đặc biệt coi trọng vai trị của ASEAN, xác định ASEAN là một đối
tác quan trọng trong hợp tác chính trị - an ninh, trong các văn kiện Đại hội Đảng, chúng
ta cũng nhấn mạnh đến chính sách đối ngoại đối với ASEAN. Văn kiện Đại hội IX nêu
rõ: “Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và
các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống”. Đến Đại hội X, Đảng vẫn
khẳng định: “ Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây
dựng Đông Nam Á thành một khu vực hồ bình, khơng có vũ khí hạt nhân, ổn định, hợp
tác cùng phát triển”. Trong xác định phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội 5 năm 2001 – 2005 tại Đại hội IX, Việt Nam cũng nêu rõ tầm quan trọng của hợp
tác an ninh – chính trị khu vực Đơng Nam Á: “Tích cực thực hiện các cam kết đối với các
cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia, đặc biệt chú ý tới các
cam kết trong khuôn khổ ASEAN (như AFTA, AICO, AIA), APEC, ASEM”.
Đứng trước những thay đổi của tình hình thế giới và khu vực 10 năm đầu thế kỉ XXI,
Việt Nam đã bắt đầu chủ động hơn trong quan hệ với ASEAN. Khác với Đại hội VIII



năm 2006, chỉ nêu chung chung về việc hợp tác và tham gia vào các tổ chức khu vực:
“Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch tự do (AFTA),
cần xúc tiến việc tham gia Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức
thương mại quốc tế (WTO)”, từ Đại hội IX, chúng ta đã bắt đầu coi trọng hơn đến chính
sách đối ngoại với ASEAN: “Thúc đẩy quan hệ hợp tác tồn diện và có hiệu quả với các
nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương”. Trong các phát biểu quan trọng, các
nguyên thủ quốc gia nước ta cũng nhấn mạnh đến chính sách đối ngoại an ninh – chính
trị của Việt Nam với ASEAN: “Việt Nam sẽ tiếp tục làm hết sức mình vì sự nghiệp xây
dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và đặc biệt là để hoàn thành trách nhiệm Chủ
tịch ASEAN (1)”.
Như vậy, chính sách đối ngoại của Việt Nam về chính trị - an ninh với ASEAN 10
năm đầu thế kỉ XXI đã có những định hướng thay đổi theo từng thời kỳ, tạo cơ sở và nền
tảng cho việc triển khai vào thực tế. Những định hướng đúng đắn đó đã góp phần quan
trọng vào việc nâng cao vị thế của Việt Nam trong ASEAN suốt 10 năm qua.



Quá trình triển khai chính sách về chính trị - an ninh giữa Việt
Nam - ASEAN

Trong quãng thời gian 10 năm, đã có rất nhiều hoạt động triển khai chính sách đối
ngoại của Việt Nam trong mảng chính trị- an ninh với ASEAN. Sau đây là những
vấn đề và sự kiện nổi bật trong mối hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN trong lĩnh vực
này.

 Chủ trương và đóng góp của Việt Nam trong việc xây dựng cộng
đồng an ninh- chính trị ASEAN đến 2015
Tháng 11/2003, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 9 họp tại Bali, Indonesia,
các nhà lãnh đạo ASEAN đã thơng qua tun bố hịa hợp ASEAN II, trong đó đề ra mục

tiêu là thành lập Cộng Đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng An ninh ASEAN
(ASC), cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), cộng đồng Văn hóa – xã hội ASEAN
(ASCC). Việt Nam ln xác định là một bộ phận không tách rời của gia đình ASEAN và
chủ trương tham gia hợp tác ASEAN với phương châm chủ động, tích cực, và có trách
nhiệm, góp phần xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ, vững mạnh và là hạt nhân
trong cấu trúc mới đang định hình ở khu vực. Phát biểu tại lễ kỷ niệm lễ kỷ niệm niệm 43
năm thành lập ASEAN, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định “Việt Nam đã và sẽ tiếp
tục cùng các nước ASEAN, các nước bạn bè, đối tác, phấn đấu vì một Cộng đồng ASEAN


đồn kết, liên kết chặt chẽ và thịnh vượng, vì một Đơng Nam Á và một Đơng Á hịa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển” (1)
Trong hợp tác về lĩnh vực an ninh – chính trị, Việt Nam xác định rõ duy trì hồ bình
và an ninh khu vực Đơng Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương là nguyện vọng thiết tha
và quyết tâm mạnh mẽ của các nước thành viên ASEAN cũng như các nước khác trong
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. ASEAN cần phát huy hơn nữa vai trò là nhân tố quan
trọng hàng đầu thúc đẩy đối thoại và hợp tác về các vấn đề chính trị-an ninh, vì hồ bình,
ổn định và thịnh vượng ở khu vực. Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ Ngoại giao Phạm
Gia Khiêm cho rằng: “ Cộng đồng an ninh ASEAN ko nhằm tạo ra khối phòng thủ chung,
mà mục tiêu là tạo dựng một mơi trường hịa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực
Đông Nam Á thơng qua việc nâng cao hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao
mới, với sự tham gia, đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngồi” (1). Quan điểm của
Việt Nam là ASC không phải là một khối phòng thủ chung như NATO hiện nay hay như
SEATO trước đây. Khái niệm này của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với khái niệm của
ASC.
Đối với ASC, Việt Nam đã tích cực tham gia vào việc hồn thiện Chương trình hành
động về ASC và đăng cai tổ chức hội nghị các quan chức cấp cao SOM về cộng đồng
này. Chương trình hành động ASC đã chấp nhận quan điểm an ninh toàn diện do Việt
Nam đề xuất với việc khẳng định sự ổn định chính trị - xã hội, tăng trưởng kinh tế cùng
với việc thu hẹp khoảng cách phát triển, xố đói giảm nghèo là nền tảng và cơ sở bảo

đảm sự phát triển bền vững của ASC. Việt Nam cũng đã cùng với các nước ASEAN khác
vận động, đưa vào nội dung Chương trình hành động việc ngăn chặn sự can thiệp quân sự
từ bên ngoài vào dưới bất kỳ hình thức nào, đặc biệt khơng cho phép dùng lãnh thổ của
một nước vào mục đích chống phá các nước thành viên khác.
Để tránh tình trạng khi xảy ra tranh chấp, các nước thành viên ASEAN đưa vấn đề
của họ lên tòa án Lahay nhờ phân xử, làm giảm vai trò của ASEAN với tư cách một tổ
chức hợp tác giữa các nước Đông Nam Á, Việt Nam đã cùng các nước thành viên khác
soạn thảo quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao nhằm nâng cao vai trị của nó trong
việc giải quyết các tranh chấp khu vực. Trong hội đồng tối cao, Việt Nam ln “nhấn
mạnh vai trị chủ đạo của ASEAN, tránh biến hội đồng tối cao thành một tòa án khu vực,
trong đó, một vài nước có thể đóng vai trị khống chế các quyết định của hội đồng”(2).
Việt Nam đã tham gia kí kết và phê chuẩn ngay từ đầu Hiệp Ước Đơng Nam Á khơng
có vũ khí hạt nhân(SEAN – WFZ) nhằm xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hồn
tồn khơng có vũ khí hạt nhân. Khi đảm nhiệm vai trò chủ tịch ASC và ARF, Việt Nam
đã chủ động nêu sáng kiến và tổ chức thành công cuộc họp tham khảo ý kiến giữa các
nước ASEAN với 5 nước có vũ khí hạt nhân về một số nội dung trong nghị định thư và
vận động các nước này sớm tham gia nghị định thư của SEANWFZ.


Như vậy, những đóng góp và nỗ lực của Việt Nam trong việc hướng tới xây dựng
Cộng đồng ASEAN, trong đó có ASC, trong suốt 10 năm qua thực sự đáng ghi nhận và
thực tế, nó đã được ghi nhận bởi các nước thành viên của Hiệp hội. Những việc làm và
hành động này của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với chính sách đối ngoại mà ta đã
vạch ra đối với ASEAN. Tuy nhiên, để tiếp tục “nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế
giới”, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa và phải có những đóng góp thực sự nổi trội hơn nữa
trong ASEAN, đặc biệt trong việc xây dựng Cộng đồng ASEAN.

 Ứng xử của Việt Nam về biển Đơng trong giữ gìn an ninh ở khu
vực Đông Nam Á
Biển Đông là một vùng biển rất quan trọng về tài nguyên và đường hàng hải. Nhưng

cũng là một vùng biển ẩn chứa những của những xung đột tiềm tàng giữa các quốc gia có
tuyên bố chủ quyền chồng lấn trên biển Đông, các tuyên bố chủ quyền gồm tuyên bố chủ
quyền của Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Phillipin, Việt Nam và Brunây, làm cho tình
hình trên biển Đơng càng thêm phức tạp. Thậm chí, trong lịch sử đã có những đụng độ
bằng quân sự.
Bất cứ một hành động đơn phương nghiêm trọng nào trên biển Đơng có thể gây căng
thẳng, mất ổn định an ninh chính trị trong khu vực vốn rất nhạy cảm này. Việt Nam cũng
là một trong các bên tranh chấp. Vậy chính sách củaViệt Nam như thế nào để vừa thể
hiện được quan điểm, lập trường của mình vừa đảm bảo xung đột không xảy ra, giữ được
sự ổn định về an ninh chính trị?
Việt Nam đã có những nỗ lực nhằm giải quyết các vấn đề về biển Đông, chủ trương
giải quyết các bất đồng thông qua thương lượng hịa bình dựa trên việc tơn trọng luật
pháp quốc tế, Tuyên bố Manila về Biển Đông năm 1992, Tuyên bố về cách ứng xử giữa
các bên ở Biển Đông được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc ngày 4/11/2002. Cho đến
nay Việt Nam vẫn tơn trọng những gì đã được kí kết giữa các quốc gia có tranh chấp về
biển Đơng và mong muốn các bên cịn lại thực hiện nghiêm túc để căng thẳng khơng leo
thang.
Việt Nam đã tích cực tham gia vào các Hội thảo về biển Đông, mới đây nhất là Hội
thảo “Biển Đông: Hướng tới một cơ chế quản lí hợp tác” do Trường Nghiên cứu quốc tế
S. Rajaratnam, Đại học Công nghệ Nanyang tổ chức tại Singapore năm 2007. Đồng thời
cũng tổ chức các Hội thảo liên quan đến biển Đông như hội thỏa khoa học quốc tế về
biển Đông: “ Biển Đông: hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực”. Hội thảo nhằm tăng
cường hợp tác khu vực và xây dựng lòng tin giữa các quốc gia. Mục tiêu của hội thảo là
hình thành mạng lưới các nhà nghiên cứu về Biển Đơng từ nhiều góc độ tiếp cận khác
nhau như khoa học pháp lý, chính trị, quan hệ quốc tế. Hội thảo cũng nhằm tạo diễn đàn


để các nhà nghiên cứu chia sẻ, thảo luận những quan điểm của mình, đồng thời tăng
cường tình hữu nghị giữa các học giả nghiên cứu về Biển Đông. Ở mức độ cao hơn, hội
thảo kiến nghị những giải pháp, từ góc độ học thuật, đối với những tranh chấp hiện nay ở

khu vực Biển Đơng. Kế đó là hội thảo biển Đông lần II ngày 11/11/2010, tại thành phố
Hồ Chí Minh, với sự góp mặt của nhiều học giả quốc tế đến tham dự. Các cuộc hội thảo
cũng là cơ hội để Việt Nam bày tỏ ý chí, nguyện vọng lập trường của mình.
Trung Quốc là một nước lớn trong khu vực. Do vậy, mỗi bước đi của Trung Quốc
đều có ảnh hưởng đến tình hình an ninh trong khu vực. Trung Quốc đã có nhiều hành
động đơn phương, gây căng thẳng thêm cho tình hình vốn đã rất phức tạp. Năm 2008,
một tập đồn dầu khí Trung Quốc đã công bố dự án khai thác ở biển Đông trị giá lên đến
30 tỷ USD. Rồi đơn phương đưa ra các lệnh cấm đánh bắt cá ở biển Đông, đưa ra tấm
bản đồ chín đoạn. Phía Việt Nam đều có những phản ứng cứng rắn: “Việt Nam có đầy đủ
bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
hợp pháp của mình đối với hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa cũng như các vùng
biển và thềm lục địa của Việt Nam. Mọi hoạt động tiến hành trên vùng biển và thềm lục
địa của Việt Nam mà khơng có sự đồng ý, chấp thuận của Việt Nam đều vi phạm chủ
quyền, vi phạm lợi ích quốc gia của Việt Nam và hồn tồn vơ giá trị”(1).
Điều này cho thấy, ngồi việc Việt Nam có thái độ mềm mỏng để tránh cho căng
thẳng có thể leo thang, nhưng cũng có lập trường cứng rắn đối với phần chủ quyền thiêng
liêng của tổ quốc. Việt Nam tiếp tục cùng hợp tác với các nước ASEAN để giải quyết các
vấn đề về biển Đơng theo hướng thương lượng, đàm phán hịa bình. Việt Nam và
ASEAN đang xúc tiến việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử về biển Đơng (COC) có tính
ràng buộc hơn thay thế cho DOC trước đó.

 Việt Nam và các cơ chế đối thoại trong ASEAN và giữa ASEAN
với bên ngồi
Trong suốt q trình hợp với ASEAN kể từ khi gia nhập đến nay, Việt Nam đã tham
gia đầy đủ vào các quan hệ đối thoại của ASEAN đặc biệt là đã tham gia đầy đủ vào các
cơ chế hợp tác chính trị - an ninh và các hoạt động hợp tác của ASEAN như các cơ chế
về chính trị (SOM, AMM, Cấp cao chính thức và khơng chính thức). Việt Nam cũng
tham gia hầu hết các cơ chế đối thoại trong ASEAN và giữa ASEAN với bên ngoài như
Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), Hội nghị Bộ Trưởng ASEAN (PMC), Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN và các nước Đông Bắc Á là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung

Quốc (ASEAN+3). Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc trao đổi ý kiến, đánh giá tình
hình thế giới và khu vực, tăng cường phối hợp lập trường về các vấn đề khu vực và quốc
tế và khi cần thiết thì thoả thuận về đối sách chung.




Việt Nam và các cơ chế đối thoại trong ASEAN
 ARF và đóng góp của Việt Nam

ARF là một trong những diễn đàn khu vực đầu tiên Việt Nam tham gia thành lập,
trực tiếp kiến tạo mơi trường hịa bình, ổn định phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Sau 17 năm tham gia ARF, Việt Nam đã chủ động đề xuất nhiều sáng kiến,
tham gia soạn thảo nhiều văn bản, chủ trì thành cơng nhiều hoạt động của ARF. Các hoạt
động này của Việt Nam được các nước trân trọng và đánh giá cao.
Những đóng góp cụ thể của Việt Nam cho ARF trước hết thể hiện qua những lần
chủ trì hoặc đồng chủ trì thành công các hội nghị của Diễn đàn như ISM-DR 98-99, Chủ
tịch ARF 2000-2001. Ngồi những hoạt động này, thơng qua các nước ASEAN khác,
Việt Nam cũng đã đi đầu trong q trình cải tiến bộ máy, kiện tồn tổ chức, nâng cao
hiệu quả hợp tác của ARF, những sáng kiến này đang tiếp tục được thực hiện và áp dụng
rộng rãi.
Là Chủ tịch ASEAN từ tháng 1/2010, Việt Nam đã chuẩn bị từ sớm cho nhiệm vụ
Chủ tịch ARF. Ngay từ tháng 7/2009, ta đã đề xuất và được các nước chấp thuận một số
định hướng lớn cho Diễn đàn trong năm 2010. Nổi lên trong số đó là tiếp tục củng cố và
thúc đẩy ARF tiến lên trên cơ sở các nguyên tắc, các định hướng đã có là ASEAN phải
ln ở vị trí trung tâm và là hạt nhân của cả tiến trình và đồng thời các biện pháp xây
dựng lòng tin vẫn phải là trọng tâm cho các hoạt động của ARF.
Cụ thể hơn, Việt Nam đã đề xướng, điều hành và chủ trì soạn thảo thành công Kế
hoạch Hành động Hà Nội thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn ARF. Đây là một kế hoạch rộng
lớn, bao quát các lĩnh vực hợp tác của ARF, đề ra những bước đi cụ thể cho cả Diễn đàn.

Diễn đàn ARF 17 (Hà Nội, 23/7/2010) đã thông qua văn kiện này, và Ngoại trưởng các
nước đều đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam, chất lượng của văn kiện và cam kết sẽ thúc
đầy thực hiện nghiêm túc các hoạt động đề ra trong kế hoạch. Với những đóng góp này,
chắc chắn, nhiệm kỳ Chủ tịch ARF 2010 của Việt Nam sẽ thành công, đi vào lịch sử của
Diễn đàn như một dấu mốc đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ, hướng tới quan hệ đối tác
tồn khu vực vì hịa bình, ổn định, thịnh vượng và phát triển (1).

 Việt Nam và đóng góp cho kênh 2
Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia ngày càng tích cực và chủ động hơn vào kênh 2kênh có vai trị quan trọng trong hoạt động của ASEAN, được xem như là một kênh phi
chính phủ, kênh khơng chính thức, có tác dụng tham khảo ý kiến và tư vấn cho Kênh 1,
kênh chính phủ, kênh chính thức . Chức năng của Kênh 2 là đối thoại, tham khảo ý kiến,
tư vấn, nghiên cứu, xây dựng lịng tin, thơng tin liên lạc... nhằm nâng cao ý thức hợp tác,
tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, xây dựng lợi ích cộng đồng, do vậy mà có thể kiềm chế, dẫn


tới loại trừ giải pháp dùng vũ lực giải quyết xung đột và giảm thiểu các nguy cơ gây xung
đột.
Việt Nam dã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo của Kênh 2, góp phần thúc đẩy một
cơ chế mà thơng qua đó các học giả, các quan chức với tư cách cá nhân có thể thảo
luậncác vấn đề an ninh chính trị của khu vực; thiết lập các mối liên hệ với những thiết
chế và tổ chức thuộc khu vực và các khu vực khác trên thế giới nhằm trao đổi thông tin,
quan điểm và kinh nghiệm về phương cách xử lí các vấn đề cũng như hợp tác an ninh
chính trị khu vực; và đưa ra những khuyến nghị mang tính định hướng cho các chính phủ
và các cơ quan liên chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề an ninh chính trị của khu
vực.



Đóng góp của Việt Nam trong đối thoại giữa ASEAN và bên
ngồi


Do có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế và khu vực châu Á-Thái Bình Dương ,
nên từ nhiều năm qua ASEAN đã được Nhật Bản, và trong khoảng hơn thập niên gần
đây, nhất là từ giữa những năm 1990 đến nay, cũng đã được cả Trung Quốc cũng đặc biệt
quan tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác cùng phát triển trên nhiều lĩnh vực. Trong
bối cảnh đó, kể từ tháng 12/1997, hưởng ứng sự đề xuất của ASEAN nhằm thực hiện
chiến lược "cân bằng giữa các nước lớn" bằng cách mở rộng phạm vi liên kết, hợp tác ra
tồn bộ khu vực Đơng Á, ba nước Đơng Bắc Á là Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc
đều đồng ý tiến hành cùng với ASEAN tiến hành các cuộc hội nghị nguyên thủ quốc gia
thường niên vào dịp cuối năm với cả hai hình thức : ASEAN+3 ( Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc) và ASEAN+1 (Nhật Bản), ASEAN+1 (Hàn Quốc), ASEAN+1 (Trung
Quốc). Cũng từ các cuộc gặp gỡ này, ASEAN đã lần lượt ký với các nước đó "Tun
ngơn hợp tác hướng tới thế kỷ 21". Việt Nam còn đóng vai trị quan trọng trong việc hình
thành các khn khổ hợp tác giữa ASEAN và các nước đối thoại nói trên,góp phần sáng
lập hoặc tham gia sáng lập các tổ chức và diễn đàn hợp tác như "Diễn đàn khu vực
ASEAN", "Diễn đàn Đông Á-Mỹ Latinh". Trong vài năm gần đây, đặc biệt từ sau sự kiện
11/9 đến nay, do việc Mỹ tăng cường hợp tác an ninh với ASEAN để chống lại hiểm hoạ
khủng bố nên vai trò quốc tế của ASEAN càng được coi trọng.
Việt Nam đã và đang ngày càng chủ động hơn trong hợp tác nội khối, hướng hoạt
động của ASEAN vào những nội dung hợp tác thiết thực, vừa bảo đảm lợi ích của Việt
Nam, vừa thể hiện quan tâm chung của Hiệp hội.


 Nhân tố Mỹ, Trung Quốc trong việc triển khai chính sách chính
trị- an ninh Việt Nam- ASEAN
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ vẫn nắm vai trò đầu tàu thế giới trong cả kinh
tế và chính trị, tuy nhiên một trật tự thế giới mới đang nỏi lên với xu thế đa cực được
đánh dấu bởi sự vươn lên mạnh mẽ của Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ. Trong bối cảnh như
vậy, khi xem xét bất kỳ một vấn đề qua hệ quốc tế, chúng ta không thể bỏ qua vai trị của
các nước lớn. Với vị trí địa lý nằm ở phía Nam Trung Quốc và trong khu vực châu ÁThái Bình Dương, ASEAN từ lâu đã trở thành mối quan tâm chiến lược của Mỹ và Trung

Quốc. Sự can dự trực tiếp hay giáp tiếp của hai nhân tố này dều có những ảnh hưởng nhất
định tới việc triển khai chính sách về chính trị- an ninh giữa Việt Nam và ASEAN.
Có thể nói sự hiện diện của Mỹ và Trung Quốc là rất rõ ràng. Từ sau chiến tranh thế
giới thứ II,  lợi ích của Mỹ luôn gắn chặt khu vực  Đông Nam Á. Hiện nay đầu tư trực
tiếp (FDI) của Mỹ ở Đông Nam Á gấp 3 lần FDI của Mỹ vào Trung Quốc, gấp 10 lần
FDI của Mỹ vào Ấn Độ. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tun bố: “Mỹ có vị trí có một
khơng hai để giữ vai trò lãnh đạo ở châu Á - Thái Bình Dương, trên cơ sở lịch sử, khả
năng và sự tín nhiệm của chúng ta”. Về các lợi ích an ninh và chiến lược, ASEAN có hai
trong số năm đồng minh của Mỹ ở châu Á là Philippines và Thái Lan (1). Về phía Trung
Quốc, dựa vào những khoản đầu tư khổng lồ vào Campuchia, Trung Quốc đang muốn
thiết lập mối quan hệ gần gũi với các nước ASEAN (2). Minh chứng cho mục đích này là
tháng 10 năm 2010, Trung Quốc cam kết ủng hộ cơng trình xây dựng tuyến đường sắt trị
giá 600 triệu đô la giữa Phnom Penh và Việt Nam. Tuyến đường này sẽ giúp cho Trung
Quốc tiến được một bước quan trọng trong việc hịa nhập tồn bộ Đơng Nam Á, kể cả
Singapore ở xa tận phía Nam, vào mạng lưới xe lửa của họ. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã
hồn tất một thỏa thuận thương mại với tồn thể 10 quốc gia Đơng Nam Á, trong khi một
hiệp định tương tự của Mỹ chỉ mới trong giai đoạn sơ khai. Như vậy, “Khả năng Trung
Quốc chiếm quyền kiểm sốt là điều khơng thể tránh khỏi, Campuchia ngả vào Trung
Quốc với vòng tay mở rộng. Đó là cách thức trước đây Mỹ dùng để giành quyền kiểm
sốt các láng giềng. Địa lý chính trị là như vậy” (3).
Trung Quốc hiện là một đối tác rất quan trọng của ASEAN về mặt kinh tế. Trung
Quốc cũng tạo điều kiện để ASEAN như một khối thống nhất về các vấn đề an ninh,
chính trị thành một nhóm tại vùng Biển Đông. Tuy nhiên, Việt Nam cũng như các quốc
gia ở khu vực Đông Nam Á thì cảm thấy lo ngại  về ý định của Trung Quốc, điều mà họ
gọi “lợi ích cốt lõi ở Biển Đông” và chính điều này đã thúc đẩy các quốc gia thành viên
phải xích lại gần nhau về mặt an ninh và chính trị và kết quả là những cuộc họp cấp bộ
trưởng quốc phòng của ASEAN thống nhất và chặt chẽ hơn (4). Trong khi đó, kể từ khi kết
thúc chiến tranh Việt Nam đến nay, sự chú trọng của Mỹ đối với khu vực ASEAN
thường bị đứt đoạn và ln bị dẫn dắt bởi sự khủng hoảng. Những chính sách của Mỹ tại
đây không kết nối được với nhau và không phát triển được thành một chiến lược phù hợp.

Việc thiếu một chiến lược được tư vấn tốt đối với châu Á lâu nay đã ảnh hưởng tới cân


bằng trong khu vực ASEAN. Ngoài ra, việc thiếu những chính sách nhất qn đối với
khu vực Đơng Nam Á đã tạo điều kiện cho Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng tại đây, đe
dọa quyền lợi của Mỹ và dần dần sẽ làm yếu đi khả năng đảm bảo an ninh của chính
nước Mỹ. Do đó, Mỹ đang điều chỉnh chính sách của mình theo hướng chú trọng hơn đến
Đơng Nam Á trong chiến lược của mình ở châu Á. Bằng chứng là ngày 08/02/2011, Hoa
Kỳ đã công bố Chiến lược Quân sự mới của mình, lần đầu tiên từ năm 2004 đến nay.
Chiến lược Quân sự Mỹ năm 2011 phản ánh một thay đổi đáng kể so với chủ trương đề
ra trước đây, có nghĩa là tập trung nhiều hơn và khu vực châu Á, với tiềm lực quân sự của
Trung Quốc được coi là một trong các thách thức đối với Hoa Kỳ (5).
Đứng giữa sự tăng cường ảnh hưởng của hai cường quốc, Trung Quốc và Mỹ, Việt
Nam ln cố giữ một vị trí tương đối chủ động, có thể cân bằng ảnh hưởng của 2 nước.
Trong chính sách đối ngoại của mình với từng nước trong khu vực nói riêng và khối
ASEAN nói chung, Việt Nam ln "tơn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, tồn vẹn
lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia thành viên" (1). Bên cạnh đó, chúng ta
ln dựa trên tình hình thực tế để xác định chính sách. Đồng thời Việt Nam cũng xác
định Trung Quốc và Mỹ là hai nước lớn và sẽ luôn là hai nước lớn. ASEAN chỉ là một tổ
chức của các nước nhỏ và vừa, biết rất rõ thực lực của mình, sẽ khó có thể điều khiển
được Mỹ và Trung Quốc để tìm kiếm sự cân bằng trong quan hệ với hai nước này. Về
phía ASEAN, hiệp hội muốn "sử dụng vị thế địa chính trị đặc biệt của mình để xúc tác và
thúc đẩy các bên hợp tác với nhau, tạo ra khn khổ cho sự hợp tác đó, tránh những hiểu
lầm và những xung đột không cần thiết giữa các bên, thơng qua đó duy trì mơi trường
hợp tác giữa ASEAN với các nước lớn, và giữa các nước lớn với nhau” (2) và việc này
hoàn toàn là khả thi với ASEAN, bởi "nó phù hợp với lợi ích của các nước lớn, và ở khu
vực chưa có tổ chức hay diễn đàn nào có thể làm điều đó tốt hơn ASEAN. Đó là bản chất
ứng xử của ASEAN trong thời gian qua”.

 Những điểm nổi bật trong về hợp tác chính trị- an ninh với

ASEAN trong năm Việt Nam làm chủ tịch ASEAN 2010
Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào các thành tựu của ASEAN ,thể hiện
tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm, được bạn bè tin cậy và ghi đậm dấu ấn
của năm chủ tịch ASEAN .
Ngay từ đầu, chúng ta đã xác định rõ chủ đề và ưu tiên xuyên suốt của năm chủ tịch
ASEAN 2010 là “Hướng tới cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn đến hành động”. Điều này
được sự ủng hộ và đồng thuận rất cao trong ASEAN, cũng như từ phía các đối tác khác
trong khu vực. Trên cơ sở đó, Viêt nam đã tích cực tham vấn, định hướng các hội nghị
quan trọng của ASEAN, cũng như đề xuất nhiều sáng kiến liên quan. Theo đó, các hội
nghị trong năm ASEAN đều tập trung bàn và đưa ra các quyết sách để đẩy nhanh việc


thực hiện lộ trình xây dựng cộng đồng ASEAN trên cả ba trụ cột: chính trị-an ninh, kinh
tế và văn hóa. Về trụ cột chính trị- an ninh, chúng ta đã cùng ASEAN đẩy mạnh việc thực
hiện 14 lĩnh vực ưu tiên, phát huy cao độ hiệu quả của cơ chế, cơng cụ hợp tác phát triển
vì hịa bình và an ninh ở khu vực. Chiến lược mà Việt Nam áp dụng là đầu óc tổ chức có
quan tâm đúng mức. Do đó, Việt nam đã đạt được những thành tựu nổi bật như là những
tiến triển về hội nhập an ninh chính trị, tổ chức thành cơng hai kỳ họp hội nghị Bộ trưởng
Quốc phòng ASEAN lần một và hội nghị quốc phòng ASEAN+8. Trong đợt hội nghị cấp
cao này, lần đầu tiên có tới tám nước đối tác. Thơng thường chỉ có các hội nghị cấp cao
thường niên giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, lần này có
thêm Nga, Úc, Newzealand và Liên hợp quốc. Lần đầu tiên Nga và Hoa Kì ngồi cùng
một bàn, bàn về lĩnh vực quân sự. Điều này thể hiện uy tín và vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Và cũng là một đóng góp rất lớn trong năm của ASEAN là việc củng cố và tăng
cường xây dựng mơi trường hịa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực; thúc đẩy đối thoại,
tăng cường hiểu biết và xây dựng lòng tin ở tất cả các cấp, đặc biệt là ở cấp cao; tăng
cường xây dựng các chuẩn mực và quy tắc ứng xử ở khu vực; củng cố và phát huy hơn
nữa các công cụ, phương tiện, cơ chế hiện có như Hiệp ước Thân thiện và hợp tác Đông
Nam Á (TAC), Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân Đơng Nam Á (SEANWFZ),

Tun bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), cũng như cơ chế ASEAN+1,
ASEAN +3, Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Diễn đàn cấp cao Đông Á (EAS)...; đồng
thời, tạo dựng thêm những khuôn khổ hợp tác mới hỗ trợ cho các khuôn khổ hợp tác hiện
có như Hội nghị Bộ trưởng quốc phịng ASEAN mở rộng với các đối tác (ADMM+) và
Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan an ninh nội địa (MACOSA). ASEAN thực
sự đã phát huy vai trò chủ động và là nhân tố quan trọng, không thể thiếu đối với việc
duy trì hịa bình, ổn định và hợp tác.
Đúng như Tổng thống Indonesia, chủ tịch kế nhiệm của ASEAN,phát biểu tại phiên
bế mạc Hội nghị cấp cao ASEAN 17: “Năm chủ tịch ASEAN của Việt Nam tạo một đà
mới cho ASEAN cả về đoàn kết ,cũng như tiến tới xây dựng cộng đồng ASEAN và phát
huy vai trò của khu vực”. Như vậy, trong năm 2010, chúng ta thể hiện rõ dấu ấn và vị thế
của Việt Nam, được bạn bè khu vực và quốc tế đánh giá rất cao.



Đánh giá q trình triển khai chính sách về chính trị - an ninh
Việt Nam- ASEAN trong 10 năm vừa qua

Nhìn chung, việc triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam về an ninh – chính trị
đối với Asean 10 năm đầu thế kỷ XXI đã đi đúng hướng với định hướng chính sách mà
Đảng và Nhà Nước ta đã vạch ra trong các Đại hội IX và X. Việc triển khai chính sách
đối ngoại đó trên thực tế đã đạt được một số những thành quả nhất định


Hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân phát triển mạnh, góp phần giữ
vững mơi trường hồ bình, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong
khu vực và trên thế giới. Đã giải quyết được một số vấn đề về biên giới, lãnh thổ, vùng
chồng lấn trên biển với một số quốc gia; chủ động và tích cực tham gia các diễn đàn thế
giới; tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế và khu vực tại Việt Nam. Các quan hệ
quốc tế của đất nước đi vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa

nội lực và bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá
trình hội nhập quốc tế. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế song
phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu
nghị truyền thống với các nước láng giềng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng
các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh; tăng cường quan hệ với các đối tác
trong khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế
và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các nước láng giềng; thiết lập và nâng
cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng. Hoàn thành phân giới cắm mốc trên đất liền với
Trung Quốc; tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào; hoàn thành một bước phân giới
cắm mốc trên đất liền với Campuchia; bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển phía Tây Nam với các nước
liên quan. Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế; đảm
nhiệm tốt vai trị Uỷ viên khơng thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; đóng góp
quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành cơng vai trị Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội
đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA).
Bên cạnh đó, vẫn có những mặt cịn hạn chế trong công tác nghiên cứu, dự báo chiến
lược về đối ngoại. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại
giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hố đối ngoại chưa thật đồng
bộ.
Trong những năm tới, với những xác định phương hướng đối ngoại khơng có nhiều
thay đổi được nêu trong văn kiện đại hội Đảng XI, Đảng và nhà nước ta tiếp tục thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hố, đa dạng hố quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất
nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là
bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào
sự nghiệp hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đặc biệt tiếp
tục phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng

Đơng Nam Á thành khu vực hồ bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh. Với quan
điểm và phương pháp triển khai chính sách như hiện tại, chắc chắn Việt Nam sẽ tiếp tục


gặt hái thêm những thành công mới trên lĩnh vực hợp tác quốc tế khơng chỉ về chính trịan ninh, mà còn trên các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa- xã hội.


DANH MỤC THAM KHẢO:
-TS.Nguyễn Vũ Tùng (biên soạn) (2007), “Chính sách đối ngoại Việt Nam tập 2 (19752006)”, NXB Thế giới, Hà Nội.
- (8/2007) “Hợp tác chính trị - an ninh Asean: VN sẽ nỗ lực hết mình”, Đặc san báo
thế giới và Việt Nam, Hà Nội.
- Nguyễn Thu Mỹ / Lê Phương Hòa (2008) - Viện khoa học xã hội Việt Nam/ nghiên
cứu Đông Nam Á, “Việt Nam và cơng cuộc xây dựng cộng đồng Asean”, Tạp chí
nghiên cứu Đông Nam Á số 7(100).
- Luận Thùy Dương, “Sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác chính trị- an ninh
ASEAN”, Tạp chí nghiên cứu Đơng Nam Á số 7(100)/ 2008.
- Nguyễn Thu Mỹ / Lê Phương Hòa, “Việt Nam và công cuộc xây dựng cộng đồng
Asean” – Viện khoa học xã hội Việt Nam/ nghiên cứu Đông Nam Á.
- Tháng 12-2004, “Quan hệ ASEAN-Nhật Bản-Hàn Quốc những năm gần đây” - Tạp
chí NCQT số 4(59) .
-Đào Huy Ngọc (chủ biên), Nguyễn Phương Bình- Hồng Anh Tuấn (1997), “ASEAN và
sự hội nhập của Việt Nam”, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thu Mỹ, “ Môi trường an ninh Đơng Nam Á những năm đầu thế kỉ XXI”, Tạp
chí nghiên cứu Đông Nam Á số 6/87/2007- Viện KHXHVN, Viện nghiên cứu Đông Nam
Á.
- “Thế giới và Việt Nam” online; “Nỗ lực vì mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN
- Thứ Sáu, 23/07/2010”,
, truy cập ngày
01/3/2011.
- “Thế giới và Việt Nam” online; “Việt Nam đã đóng góp nhiều cho hợp tác ASEAN”

- Thứ Ba, 10/08/2010”,
truy cập ngày
01/3/2011.
- “Thế Giới và Việt Nam” online; “ASEAN: Vai trò và giá trị được khẳng định Thứ
Sáu, 13/08/201, />truy cập ngày 01/3/2011.
- Tuần Việt Nam, Sự can dự của Mỹ và nhân tố Trung Quốc,
/>truy cập ngày 27-2-2011.
- Nghiên cứu biển Đông, ASEAN trong mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc,


truy cập ngày 28-2-2011.
-Vai trò của Việt Nam trong quan hệ quốc tế,
truy cập
1-3-2011.
-Radio france international online, truy cập ngày: 1-3-2011.
- Việt Nam - ASEAN: Quá khứ - Hiện tại - Tương lai , Học viện ngoại giao website,
/>5, truy cập ngày 1-3-2011.
-Luận Thùy Dương- Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược Ngoại giao, Lê Thùy
Trang, Cộng đồng ASEAN 2015,
truy cập 1-32011.
-Chính sách đối ngoại của nước CHXHCN Việt Nam,

/>truy cập 2-3-2011.
-Trung Quốc cảnh báo Asean về Biển Đông, BBC Vietnam,
truy
cập ngày 2-3-2011.
-Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng các đại hội,
http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/?
topic=191&subtopic=8&leader_topic=989, truy cập 10-3-2011.




×