Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Luận văn thac sĩ khoa học chính trị ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo trong quá trình xây dựng đạo đức mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.12 KB, 86 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo khơng phải từ trên trời rơi xuống, và cũng không phải là một
di sản thiên nhiên vốn có, mà là một sản phẩm do con người sáng tạo ra. Tuy
nhiên, tôn giáo không đồng hành với con người. Tôn giáo là phạm trù lịch sử.
Tôn giáo vốn là một hiện tượng xã hội phức tạp và hiện nay là một trong những
vấn đề nhạy cảm ở nhiều dân tộc, quốc gia. Việt nam là một quốc gia đa tơn
giáo. Có những tôn giáo du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu cơng
ngun... Có những tơn giáo mới hình thành ở Việt Nam vào những thập niên
đầu của thế kỷ XX như: Cao Đài, hòa Hảo v.v...
Lịch sử dân tộc đã minh chứng, có một số tơn giáo đã góp phần nâng
cao ý thức dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống của cả cộng đồng. Tuy
nhiên, lại cũng có những tơn giáo có thời kỳ đã bị các thế lực phản động trong
và ngồi nước lợi dụng vì mục đích ngồi tơn giáo. Hiện nay số lượng tín đồ
các tôn giáo chiếm gần khoảng 20% dân số, và tập trung ở các tơn giáo lớn, cịn
nếu tính cả những người có tâm thức tơn giáo thì con số sẽ lớn hơn gấp bội.
Quá trình đổi mới đất nước, khi chuyển sang kinh tế thị trường, bên
cạnh những thành tựu, cũng nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, làm xói
mịn một số giá trị đạo đức xã hội. Thực tiễn đó địi hỏi phải xây dựng
những giá trị đạo đức mới cho phù hợp với q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó trong nhận thức
cần xác định những ảnh hưởng của đạo đức tơn giáo tới q trình xây dựng
đạo đức mới, để từ đó có thái độ ứng xử đúng với các tôn giáo (một vấn đề
hết sức tế nhị, nhạy cảm và còn tồn tại lâu dài) là điều cấp thiết.
Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị ngày 16/10/1990 có ghi:
"Tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tơn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tơn giáo có nhiều điều
phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới".



2

Xuất phát từ tinh thần nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, từ đặc điểm
tình hình tơn giáo Việt Nam và từ yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới
trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tôi thấy cần thiết phải chọn vấn đề
nghiên cứu: "Ảnh hưởng của đạo đức tơn giáo trong q trình xây dựng
đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay", làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc
sĩ tơn giáo của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
"Đạo đức tôn giáo" là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, chẳng hạn:
+ Khuynh hướng nghiên cứu đạo đức phật giáo từ góc độ tơn giáo.
Đó là những cơng trình nghiên cứu của các phật tử, đều nhằm mục đích
phục vụ cho tơn giáo của mình. Ví dụ, cuốn "Đạo đức học Phật giáo"
(nhiều tác giả) của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995.
Cuốn "Giải thoát tri kiến" của Jkrishnamutri, An Tiêm, Sài Gòn xuất
bản 1973. Cuốn sách này đã nêu bật đạo đức Phật giáo là phương tiện quan
trọng để thực hiện con đường giải thoát theo quan điểm của Phật giáo.
+ Khuynh hướng nghiên cứu đạo đức Phật giáo nhìn từ góc độ triết
học. Đã có một số cơng trình đáng lưu ý. Đó là cuốn "Lịch sử triết học Ấn
Độ" của hịa thượng Thích Mãn Giác, Ban tu thư, đại học Vạn Hạnh 1997.
Cuốn "Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông" của
Nguyễn Hùng Hậu, nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 1996. Cuốn
"Triết học về Tánh không" của Tuệ Sĩ, An Tiêm, Sài Gịn xuất bản 1970.
Cuốn "Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo" của hịa thượng Thích Mật Thể,
Viện triết lý và triết học thế giới... Từ những cuốn sách này ta có thể chắt
lọc ra những ý tưởng nghiên cứu đạo đức Phật giáo dưới góc độ triết học.
+ Bên cạnh các khuynh hướng trên cịn có khuynh hướng nghiên
cứu đạo đức Phật giáo dưới góc độ văn hóa cũng đáng chú ý. Chẳng hạn



3

như cuốn "Những nét văn hóa của đạo Phật" của hịa thượng Thích Phụng
Sơn, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1995. Cuốn "Cơ sở văn hóa Việt
Nam" của giáo sư Trần Ngọc Thêm, Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh 1996... Ngồi ra gần đây cịn có một số luận án cũng nghiên cứu về
đạo đức Phật giáo như "Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó với đời
sống tinh thần của người Việt Nam".
Nếu như đạo đức Phật giáo được nghiên cứu tương đối nhiều dưới
các góc độ khác nhau thì ngược lại đạo đức của các tơn giáo khác chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu.
+ Gần đây có các luận án tiến sĩ triết học nghiên cứu về đạo đức của
Cơng giáo như "Góp phần tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong Kinh thánh" của
Trương Như Vương, "Sự thống nhất giữa Kính Chúa " và "yêu nước" trong
"lịch sử tư tưởng Việt Nam thời cận đại"; "Vận dụng quan điểm khoa học
về tôn giáo trong công tác đối với Thiên chúa giáo hiện nay ở Việt Nam"
của Nguyễn Văn Long... Bên cạnh các luận án tiến sĩ này cũng phải nói tới
các luận văn thạc sĩ nghiên cứu về đạo đức công giáo như: "Khía cạnh nhân văn
của giáo lý Thiên chúa và cơng tác xây dựng nếp sống mới ở vùng đồng bào
Thiên chúa giáo"; "Quá trình truyền giáo của đạo Thiên chúa và ảnh hưởng của nó
đối với đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam"...
Về đạo đức của đạo hòa Hảo có: "Đạo hịa Hảo và ảnh hưởng của
nó ở đồng bằng sơng Cửu Long" (5.01.02) của Nguyễn Hồng Sa. Về đạo
đức của đạo Cao Đài có "Ảnh hưởng của đạo Cao Đài với đời sống tinh
thần ở Tây Ninh..." của Đặng Thị Thu Nga.
Tuy nhiên, nghiên cứu "Ảnh hưởng của đạo đức tơn giáo trong q
trình xây dựng đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay" là một vấn đề mang tính
tổng hợp và là một vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu.



4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức tơn giáo trong q trình
xây dựng đạo đức mới Việt Nam hiện nay, bước đầu đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của sự ảnh hưởng đó.
3.2. Nhiệm vụ
+ Luận văn tập trung làm rõ một số đặc trưng của đạo đức tôn giáo.
+ Làm rõ những nét tương đồng và khác biệt giữa đạo đức tôn giáo
với đạo đức mới.
+ Trên cơ sở làm rõ những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo
đức tơn giáo trong quá trình xây dựng đạo đức mới. Luận văn góp phần đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của đạo đức tôn giáo trong xây dựng đạo đức mới hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Lịch sử các tôn giáo cho thấy, khi tôn giáo tồn tại trong bất cứ một
xã hội nào đó thì ít, nhiều nó đều có ảnh hưởng tới đạo đức, lối sống của xã
hội đó. Điều này cũng được kiểm chứng qua lịch sử các tôn giáo tồn tại ở
Việt Nam. Như vậy, cũng có nghĩa là tơn giáo đã từng ảnh hưởng tới các
dạng đạo đức trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Song ở đây luận văn tập
trung nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đối với đạo đức mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Đảng ta về tơn giáo, đạo đức để phân
tích những vấn đề đặt ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn chú ý sử dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời


5
chú trọng sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp lịch sử và
lơgic, phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh v.v...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
+ Trên cơ sở phân tích đạo đức của các tôn giáo, bước đầu luận văn
nêu lên một số đặc trưng của đạo đức tôn giáo và góp phần làm rõ một số
nét tương đồng và khác biệt giữa đạo đức tôn giáo và đạo đức mới.
+ Luận văn góp phần làm rõ ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo
đức tôn giáo đối với quá trình xây dựng đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay.
+ Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích
cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức tôn giáo trong xây dựng
đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
+ Về mặt lý luận:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ tinh thần nghị quyết 24 của Bộ
Chính trị ban hành ngày 16.10.1990: "Đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù
hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới".
+ Về mặt thực tiễn:
- Luận văn góp phần vào việc tìm ra những biện pháp thực hiện
nhiệm vụ của nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (1998) về chính sách văn hóa đối với tơn giáo: "Khuyến
khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo, đồng thời
tuyên truyền, giáo dục khắc phục mê tín dị đoan...".
- Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu cho việc tham khảo,
nghiên cứu và học tập bộ môn tôn giáo, đạo đức, triết học.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và
mục lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


6

Chương 1
MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO
VÀ ĐẠO ĐỨC MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

"Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ
thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực
xã hội. Nó ra đời, tồn tại, và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh
phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân và xã hội" [14, tr. 12].
Trong bất cứ một xã hội cụ thể nào cũng cần hình thành những
nguyên tắc sống để con người tự nguyện tuân theo, nhằm bình ổn trật tự xã
hội, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội và cá nhân. Trong đời sống,
có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung cho mọi thời đại (sống
thiện, trung thực, yêu quý lao động), nhưng vẫn có những nguyên tắc,
chuẩn mực chỉ phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Ngày nay, cả nước ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức của
chúng ta địi hỏi phải tạo ra được một mơi trường mà như C. Mác đã nhấn
mạnh: Tự do của mỗi người không phải là sự chấm dứt tự do của người
khác, mà ngược lại, nó là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người.
Môi trường đạo đức theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ
quan điểm đạo đức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là chống áp bức, bóc

lột, bất cơng tàn bạo. Con người đối với con người phải có văn hóa. Mỗi
người phải được phát triển tồn diện khả năng và nhân cách. Khơng phải vì
có cơ chế thị trường chúng ta mới đặt ra yêu cầu xây dựng nền đạo đức


7

mới. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã làm cuộc cách mạng phản
đế và phản phong. Đạo đức của giai cấp phong kiến cũng như đạo đức của
chủ nghĩa đế quốc và giai cấp tư sản đều là đối tượng cải tạo của cách
mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Lý tưởng đạo đức
nhất quán của Đảng và nhân dân ta là xây dựng một xã hội, trong đó các
quan hệ đạo đức giữa con người phải trong sáng, tương thân, tương ái, xã
hội cơng bằng và bình n, mọi người được bình đẳng ấm no, tự do, hạnh
phúc, tiến bộ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng khơng phải từ trên
trời rơi xuống, và cũng không nảy sinh từ một mảnh đất trống trải, khô cằn.
Đạo đức cách mạng chỉ có thể ra đời trên cơ sở của nền đạo đức truyền
thống, là sự nối tiếp và phát huy đạo đức truyền thống lên một tầm cao
mới. Theo tinh thần đó, việc xây dựng nền đạo đức mới phải đi từ lịch sử
tới hiện tại, từ truyền thống tới cách tân. Truyền thống tuy sinh thành trong
lịch sử nhưng lại là một thành phần quan trọng trong tích hợp, trong hạt
nhân văn hóa của xã hội hiện thực. Vì vậy, việc xây dựng đạo đức mới
khơng thể là sự đoạn tuyệt với lịch sử. Thái độ khoa học là cần kế thừa có
phê phán, chắt lọc lấy những tinh hoa hợp lý trong di sản truyền thống để
phục vụ cho cuộc sống hơm nay. Vì vậy việc xây dựng nền đạo đức mới
vừa phải kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, vừa phải
chắt lọc những tinh hoa có thể có ở các dạng đạo đức khác, mà trong đó có
đạo đức tơn giáo.
1.1. MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO


1.1.1. Hướng con người tới khát vọng hạnh phúc
Phạm trù "Hạnh phúc" là một trong những phạm trù cơ bản của đạo
đức học. Qua các thời đại lịch sử, con người ln ln khát khao, mơ ước
tìm kiếm hạnh phúc. Mọi cố gắng của con người đều đi đến thực hiện lý


8

tưởng tối cao của mình, đó là hạnh phúc cho cá nhân, cho gia đình, cho dân
tộc, cho xã hội. Hạnh phúc có tính lịch sử cụ thể, vì mỗi thời đại lịch sử,
mỗi một con người trong những hoàn cảnh khác nhau, có quan niệm về
hạnh phúc khác nhau. Vì vậy, trong lịch sử lồi người đã tồn tại nhiều quan
niệm hạnh phúc khác nhau. Có người cho rằng, hạnh phúc là sự thỏa mãn
và đáp ứng những nhu cầu cụ thể, đó là điều kiện sống, địa vị xã hội, điều
kiện tham gia công tác, học tập... của mỗi người. Người lao động quan
niệm về hạnh phúc khác với quan niệm của giai cấp thống trị bóc lột.
Người ở các lứa tuổi, các vùng khác nhau, có những quan niệm hạnh phúc
khác nhau.
Đạo đức học Mác - Lênin quan niệm rằng "Hạnh phúc là một phạm
trù cơ bản của đạo đức học, là mối quan tâm lớn, là mục đích của con
người. Nó bắt nguồn và tồn tại trong cuộc sống, hiện thực như những cảm
nhận, phân tích, đánh giá có tác dụng mạnh mẽ đến ý nghĩa, hành vi, quan
hệ giữa con người với con người và giữa con người với xã hội" [14, tr. 87].
Nếu xét về đạo đức các tơn giáo ta có thể khẳng định: hầu như tôn
giáo nào cũng đề cập, hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, dù rằng
cái hạnh phúc đó theo quan niệm của các tơn giáo có khác nhau và khác với
quan niệm mác xít.
Trước hết, ta hãy xem xét trong đạo đức Phật giáo. Với Phật giáo
trạng thái Niết Bàn là hạnh phúc siêu việt, một trạng thái an lạc tuyệt đối,

khi con người được giải thoát tức là khi con người đã đạt đến sự giác ngộ
cao. Tuy vậy, trong cuộc sống hàng ngày, Phật giáo vẫn quan niệm có
những trạng thái hạnh phúc khác nhau của con người. Và để đạt được hạnh
phúc đó con người phải sống có đạo đức và khuyến khích người khác cũng
sống có đạo đức. Nhưng sống có đạo đức theo quan niệm của nhà Phật là
phải thực hiện tốt các giới răn mà Phật giáo đã nêu ra. Với ý nghĩa đó,


9

trong lời dạy cho giới Tỳ-kheo xuất gia, đức Phật đặc biệt nhấn mạnh:
"Một đời sống đạo đức là một đời sống hạnh phúc" [10, tr. 16]. Đồng thời
Đức Phật dạy các đệ tử hãy tôn trọng giới luật, tức là sống có đạo đức để
đảm bảo một đời sống hạnh phúc cho chính mình và đem lại hạnh phúc cho
mọi người: "Thành tựu năm pháp, Tỳ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và
đem lại hạnh phúc cho người. Thế nào là năm? Vị Tỳ kheo tự mình đầy đủ
giới hạnh và khuyến khích người khác đầy đủ giới hạnh. Tự mình đầy đủ
Thiền định và khuyến khích người khác đầy đủ Thiền định. Tự mình đầy
đủ trí tuệ và khuyến khích người khác đầy đủ trí tuệ. Tự mình đầy đủ giải
thốt và khuyến khích người khác đầy đủ giải thốt. Tự mình đầy đủ giải
thốt tri kiến và khuyến khích người khác đầy đủ giải thốt tri kiến. Đầy đủ
năm pháp này, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và
đem lại hạnh phúc cho người" (Tăng chi II, tr. 20) [10, tr. 17]. Đạo đức
Phật giáo còn chia ra từng thứ bậc của hạnh phúc để khuyến khích các phật
tử từng bước tu dưỡng tới hạnh phúc. Theo nguyên tắc, phép tu từ Nhân
Thừa đến Bồ Tát Thừa thì mỗi phép tu có bao nhiêu điều, đắc bấy nhiêu là
hạnh phúc. Nhưng đó là hạnh phúc của những người tu hành. Đối với đời
thường, để diễn giải cụ thể cái hạnh phúc cơ bản của một con người, đức
Phật có thuyết pháp cho ơng Cấp - Cô - Độc (Anatha pin di ka), một đại thí
chủ quan trọng nhất khi Phật cịn tại thế. Trong đó, đức Phật chia ra bốn

loại hạnh phúc: Hạnh phúc có vật sở hữu là hạnh phúc do mình tạo nên vật
sở hữu, bằng sự cố gắng nỗ lực của chính sức mình; hạnh phúc có tài sản là
hạnh phúc mà mình đã tạo nên tài sản bằng sự nỗ lực cố gắng giống như
tạo ra vật sở hữu; hạnh phúc khơng mang nợ là mình khơng nợ ai bất cứ
món nợ lớn nhỏ nào cả về vật chất và tinh thần; hạnh phúc khơng bị khiển
trách là nói về vấn đề tự trọng của con người. Trong bốn loại hạnh phúc đó,
thì ba loại đầu thuộc về kinh tế, vật chất, còn loại thứ tư thuộc về hạnh


10

phúc của tâm hồn, phát sinh từ một đời sống trong sạch và lương thiện.
Theo đức Phật, ba loại hạnh phúc đầu không bằng một phần mười sáu của
hạnh phúc thứ tư, vì đây thuộc về giá trị con người. Như vậy hạnh phúc
trước hết là sự an tâm, sự yên tĩnh của tâm hồn là hạnh phúc lớn hơn tất
cả...
Trong đạo đức Công giáo, khi bàn về hạnh phúc, các nhà Thần học
Công giáo đã chia mức độ của hạnh phúc thành hai loại: Hạnh phúc tương
đối để chỉ các mức độ của cảm giác con người về sự thỏa mãn những nhu cầu
cụ thể trong cuộc sống ở trần gian và hạnh phúc tuyệt đối là hạnh phúc
hoàn hảo, toàn phúc để chỉ mức độ tuyệt đỉnh, hoàn mỹ của cảm giác con
người về sự thỏa mãn mọi nhu cầu của con người trong cuộc sống ở Thiên
đường.
Hạnh phúc tuyệt đối ở nơi Thiên đường, thường được Kinh thánh
diễn tả cho dễ hiểu bằng nhiều hình ảnh cụ thể như: Thái bình, đời sống
vĩnh cửu, niềm vui Chúa ban, thiên triều vinh hiển, thiên quốc, nơi cực
thánh... Và trong Tân cước, Thiên đường ấy còn được gọi bằng cái tên
"Nước Đức Chúa Trời". Cũng trong Tân ước, sách khải huyền của Thánh
Giắc đã mô tả về cuộc sống của những con người đã được chọn vào "Nước
Đức Chúa Trời ": "Họ sẽ khơng cịn đói khát nữa, cũng chẳng bị mặt trời và

hơi nóng nung đốt nữa. Vì Chiên Con ở giữa ngai sẽ chăn giữ và hướng
dẫn họ đến các suốt nước sự sống. Đức Chúa Trời sẽ lau sạch tất cả các
giọt lệ nơi mắt họ" [54, tr. 485 ]. Người trong "Nước Đức Chúa Trời" sẽ là
công dân thiên quốc, mặc áo dài tinh bạch, đầu đội vòng hoa, tay cầm cành
lá kè và ngồi với Chúa để xét xử dân các nước. Nói chung các sách trong
Kinh Thánh đều mô tả cuộc sống nơi Thiên đường là n hàn, vơ lo, hết
khổ, khơng cịn chết nữa, con người hoàn toàn giác ngộ về chân lý, nhất là
được hưởng trọn tình yêu thương của Thiên Chúa như Con thảo trong nhà Cha


11

mình. Ở đó lịng người được mãn nguyện bởi được thông phần vĩnh phúc với
Thiên Chúa trong hiểu biết và yêu thương: "Mọi sự của con đều là của Cha và
sự gì của Cha cũng là của Con" [37, tr. 176]. Vì thế các nhà Thần học đã coi
hạnh phúc mãn nguyện đời người là được nhìn thấy Thiên Chúa.
Đối với hạnh phúc trần thế (hạnh phúc tương đối), lúc đầu các tác
giả sách Cựu ước cho rằng đó là việc thỏa mãn những nhu cầu, khát vọng
trong cuộc sống, hạnh phúc là những điều tốt lành và là mục tiêu mà con
người hướng tới. Đối lại, bất hạnh là một điều xấu mà trong mọi điều kiện
con người cần phải xa lánh. Về sau trong sách Tân ước các tác giả hướng
con người tới những hạnh phúc trần thế khơng chỉ là sự thỏa mãn nhu cầu
mà cịn là sự chấp nhận hồn cảnh của mình để hướng tới hạnh phúc nơi
Thiên đường. Trong Bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã hướng con người
tới một chương trình hạnh phúc trần thế giành cho những người nghèo
nhưng có tấm lịng trong sạch, giàu tình thương và chấp nhận mọi gian khổ,
hy sinh để làm sáng danh Chúa: "Phúc cho người nghèo khổ trong tâm linh,
vì Nước Thiên Đảng thuộc về họ; phúc cho người than khóc, vì sẽ được an
ủi. Phúc cho người khiêm nhu, vì sẽ được thừa hưởng đất; phúc cho người
đói khát sự cơng chính, vì sẽ được no đủ, phúc cho người đầy lịng thương,

vì sẽ được thương xót; phúc cho người có lịng trong sạch, vì sẽ thấy Đức
Chúa Trời; phúc cho người hịa giải vì sẽ được gọi là con cái Đức Chúa
Trời; phúc cho người vì sự cơng chính mà chịu bắt bớ, vì Nước Thiên Đàng
thuộc về họ; phúc cho các con khi bị người ta mắng nhiếc, ngược đãi và vu
cáo đủ điều ác vì cớ Ta (Giê-su)" [54, tr. 7]. Như vậy từ đó có thể thấy rằng
trong cuộc sống trần thế con người có hai điều hạnh phúc chính, bao hàm
mọi điều hạnh phúc khác: đó là sự khó nghèo, vì từ nay những người hạnh
phúc trên trần gian khơng cịn là những tay cự phú, những người no say,
những kẻ được tâng bốc; đó là sự bị bách hại vì tình yêu Thiên Chúa, vì


12

những người bị bách hại đó sẽ được vào Nước Thiên Đàng trong ngày tận
thế.
- Với đạo Cao Đài, muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc,
không phải là đấu tranh xóa bỏ bóc lột mà phải luyện đệ nhị xác thân cho
đầy đủ sự tinh khiết, là phải thương loài vật, thương tất cả để chấm dứt cái
oan nghiệt (tức là chấm dứt sự hận thù, thù địch nhau mà tranh tranh, đấu
đấu không ngừng - Theo Phạm Công Tắc), cứu vớt quần sinh thốt khỏi
vịng địa lạc hồn tồn. Và đối với đạo Cao Đài thì chính đạo đức con
người là cái thang vô ngần bắc cho con người leo đến phẩm vị tối cao, tối
thượng là ngang bậc "cùng Thầy" hoặc "hơn Thầy" ("Thầy" chỉ Phạm
Công Tắc). Vì lẽ đó Cao Đài khun con người nên tu hành, làm đủ phận
người, cơng bằng chính trực để khi hồn lìa xác thì cứ theo đẳng cấp gần
trên mà luân hồi lên mãi. Tuy nhiên, nếu như vậy thì cũng biết chừng nào
mới hiệp hội cùng "Thầy". Vì thế, "Thầy" cho một quyền rộng rãi hơn cho
cả nhân loại càn khôn thế giới biết là: nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở
về cùng "Thầy" - giữ trọn con đường tu hành, sẽ sớm trở về "Bạch Ngọc
Kinh", nơi mà đạo Phật gọi là Niết Bàn.

1.1.2. Tính hướng thiện, tránh ác
Tính hướng thiện, tránh ác là một đặc trưng cơ bản của đạo đức các
tơn giáo. Có thể nói, thiện, ác là hai phạm trù có vai trị trọng yếu trong hệ
thống đạo đức của mọi tôn giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng.
Trong quan niệm về Thiện, ác, Phật giáo chú trọng đến phạm trù thiện hơn,
bởi với Phật giáo thiện không chỉ là một chuẩn mực đạo đức, mà còn là
một phương tiện thiết thực để giải thoát. Phật giáo quan niệm thiện là bản
chất thường trụ của pháp giới (Phật tính), nên một đồ tể chỉ cần quẳng con
dao, chịu khó tu đạo là có thể đạt thiện tâm, ngược lại là tội ác, phải chịu
cảnh trầm luân, khổ ải. Trong Phật giáo nội dung của thiện, ác được kết tập


13

trong Kinh tạng nguyên thủy, văn hệ Pa-li, và được duy trì một cách liên
tục, nhất quán cho đến nay hầu như khơng thay đổi gì mấy, kể cả trong thời
kỳ Phật giáo Bộ Phái và Phật giáo Đại Thừa.
Quan điểm về thiện được trình bày rất rõ ràng, đặc biệt là trong tác
phẩm "Kinh thập thiện". Thiện là "lành, có đạo đức tốt", trái lại là ác,
"Kinh thập thiện" có bốn phần chính:
Phần đầu nói về thế và xuất thế gian. Theo Phật, tất cả sự xấu xa
hoặc tốt đẹp ở cuộc đời và trên bậc Thánh đều là do hành động của thân miệng - ý tạo nên. Tâm ý tốt, lời nói và việc làm tốt, giúp ích cho đời ở cả
hiện tại và tương lai. Ngược lại tâm ý xấu dẫn đến lời nói và cả việc làm
không tốt đẹp, đem lại tai ương cho cuộc đời ở cả hiện tại và tương lai.
Theo Kinh Thập thiện "Tất cả hình sắc, chủng loại của chúng sinh có khác
nhau đều do tâm tạo thiện hoặc bất thiện nơi thân, ngữ, ý gây ra" [10, tr.
84].
Phần thứ hai nói về hình tướng của Thập thiện qua thân, miệng, ý:
Thân không được giết hại sinh vật, trộm cắp và tà hạnh. Miệng khơng nói
dối, khơng nói châm chọc, khơng nói thêm bớt và khơng nói độc ác.

Ý khơng tham, sân, si
Phần thứ ba nói rằng nếu con người thực hành "thập thiện" sẽ có
những hiệu quả tốt ở hiện tại và tương lai. Chẳng hạn, theo Kinh nhà Phật,
không giết hại sinh vật sẽ được pháp không bức não, thân ít bệnh, giúp cho
việc trường thọ... Khơng ai giết hại sinh vật sẽ khơng có sự ốn thù...;
khơng trộm cắp sẽ được pháp bảo tín, giàu có khơng bị lường gạt, nhà nhà
khơng cần đóng cửa. Ngồi đường của đánh rơi được đem trả lại; không tà
hạnh được người hiểu biết ngợi khen, vợ chồng không bị ai xâm phạm tiết
hạnh, cuộc sống được thuần phong, mỹ tục; không nói dối, châm chọc,


14

thêm bớt, thơ tục, miệng được thanh tịnh, nói khơng sai lầm được người tín
cẩn, gia đình, bạn bè, xóm làng hịa thuận, vui vẻ, tơn trọng lẫn nhau,
khơng tham, sân, si sẽ được tự tại, khơng gây ốn hờn, kiện tụng, trí não
thanh thản, sáng suốt, phán đốn được mọi vấn đề trong cuộc sống.
Phần thứ tư cho rằng nhờ thực hiện Kinh thập thiện, con người sẽ
khơng cịn ích kỷ mà vị tha, bằng cách thực hành lục độ, vạn hạnh như bố
thí, giữ giới, nhẫn nhục, siêng năng, hành thiền và trí tuệ. Rồi cũng từ đó
mở rộng tâm từ bi, hỷ xả...
Cũng theo nhà Phật, pháp thập thiên có tác dụng ngăn chặn các
hành vi độc ác, đối trị các hành vi khơng thiện, giải thốt tất cả những nỗi
khổ của việc sống, việc chết. Nếu ngồi việc thực hành thập thiện lại biết
đem giáo hóa cho mọi người, giúp cho mọi người hướng thiện, tức là đã
tựu đủ quả vị giác ngộ Bồ-đề. Cũng theo đạo đức phật giáo, trong thân,
miệng, ý thì tâm ý là chủ động. Tâm ý tốt làm cho lời nói và hành động tốt.
Tâm ý xấu thì lời nói hành động xấu. Bởi thế, khi kết tội người phạm giới,
phải xem xét có dụng ý hay khơng. Hành vi phạm giới có dụng ý là yếu tố
cấu thành tội. Trường hợp phạm giới, khơng dụng ý, dù cũng có tội, song

lại nhẹ hơn.
Bên cạnh Kinh thập thiện, đạo đức Phật giáo còn định ra "ngũ giới",
"bát giới" để hướng thiện theo những cấp độ khác nhau nhằm giáo dục tín
đồ. Trong đó "ngũ giới" là những giới luật cơ bản nhất. Đó là: Khơng sát
sinh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu.
Cùng với "Ngũ giới" giáo lý về "tam độc" (tham, sân, si) trong đạo
đức Phật giáo đã phân biệt rành rọt đâu là thiện, đâu là bất thiện mà con
người cần theo và cần tránh, tham là bất thiện, vô tham là thiện, sân là bất
thiện, vô sân là thiện. Si là bất thiện, vô si là thiện. Sát sinh là bất thiện,


15

không sát sinh là thiện. Tà dâm là bất thiện, từ bỏ tà dâm là thiện. Nói dối,
nói ác là bất thiện, từ bỏ nó là thiện, khơng uống rượu làm tổn hại sức khỏe
dẫn đến mất trí là bất thiện, từ bỏ là thiện...
Với đạo cơ đốc, kinh thánh đã xem Thiên Chúa là cái Thiện toàn
năng, tức là xem Thiên Chúa là hình mẫu lý tưởng của cái Thiện mà các tín
đồ phải nói theo: "Các con hãy toàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng
toàn hảo" [54, tr. 9]. Từ quan niệm về cái Thiện, Kinh thánh đi đến đề cập
về nhân đức, là những hành vi đạo đức tốt ở con người trong cuộc sống, là
biểu hiện cụ thể của cái thiện. Khi con người trở nên bất lực trong việc chế
ngự dục vọng và khơng làm chủ được mình thì tội lỗi, tật xấu xuất hiện và
nhân đức sẽ lu mờ. Sau khi con người phạm tội (tội tổ tông) - bất tuân luật
Chúa thì cái ác đã xuất hiện và tràn lan trên trái đất. Cái ác cịn có nguồn
gốc từ quỷ dữ là địch thủ của cái thiện, là kẻ thù của Thiên Chúa và của
mọi tín đồ Cơng giáo. Nói cách khác, cái ác xuất hiện ở trần thế là do sự
kết hợp giữa quỷ giữ và các tật xấu trong con người. Hậu quả của cái ác
con người phải gánh chịu, đó là sự trừng phạt bằng đau khổ, chết chóc,
bệnh tật... thậm chí giới tự nhiên cũng nổi giận, đất sinh ra gai góc để

chống lại con người... Kinh thánh cho rằng con người có bảy tật xấu cơ bản
(bảy mối tội đầu): Kiêu ngạo, dâm ô, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, lười
biếng. Đây là nguồn gốc phát sinh ra các tội và các tật xấu khác. Đối với
kinh thánh trong hành trình con người đi tìm Chúa là phải đi theo con
đường Chúa đã vạch ra, phải tuân theo những lời Chúa phán truyền, noi
gương Chúa mà trở nên người thiện. Vì vậy sự hướng thiện trong Kinh
thánh là nằm trong hành trình con người đến với hạnh phúc vĩnh cửu nơi
Thiên đường. Nhưng thái độ hướng thiện của Kinh thánh thời Cựu ước còn
mang tính tích cực hơn so với thời Tân ước. Bởi ngoài việc khuyên dạy con
người làm những điều lành như nhau thì thời Cựu ước "Kinh thánh cịn cho
phép con người thù ghét kẻ tội lỗi, và không được đồng lõa với cái ác. Dân


16

kinh thánh được phép sử dụng luật báo thù" [54, tr. 61]. Nhưng đến thời
Tân Ước thay cho quan niệm này, Kinh thánh khuyên con người trong mọi
trường hợp phải lấy thiện báo ác, lấy ơn báo oán. Chẳng hạn, trong điều
luật nói về thẩm quyền của Đức Chúa Con, có viết "Ai làm việc thiện sẽ
sống lại để được sống. Còn ai làm điều ác sẽ sống lại để nhận án phạt" [54,
tr. 186].
Kinh thánh trong Tân ước cũng khuyên các tín hữu phải biết xa
lánh những điều dữ, luôn luôn làm điều lành: "Đừng lấy ác báo ác cho ai
cả; hãy làm điều thiện trước mặt mọi người, đừng tự báo thù ai. Đừng để
điều ác thắng mình nhưng hãy lấy điều thiện thắng ác" [54, tr. 304].
Điều này được thể hiện rõ trong sách Tân ước, khi Thánh Mathi-ơ
mơ tả cuộc nói chuyện giữa đức Giê-su với một tín đồ: "Có một người đến
hỏi đức Giê-su: Thưa thầy tôi phải làm điều thiện nào để được sống vĩnh
phúc? Ngài đáp: Tại sao anh hỏi Ta về việc thiện? Chỉ có một đấng Tồn
thiện mà thơi. Nếu muốn được sự sống ấy hãy giữ các điều răn". Người đó

lại hỏi: "Những điều răn nào?" Đức Giê-su đáp: "Đừng giết người, đừng
ngoại tình, đừng trộm cắp, đừng làm chứng dối. Hãy hiếu kính cha mẹ và
thương yêu người lân cận như chính mình" [54, tr. 38].
- Giáo lý đạo Hòa Hảo là sự kết hợp, pha trộn bởi nhiều tư tưởng và
được trình bày dưới hình thức diễn nơm với mức độ bình dân, dễ hiểu,
nhưng trong giáo lý đó cũng có cả một quyển sấm giảng thứ 5 với tựa đề:
"Khuyến thiện". Chẳng hạn, đối với người phụ nữ, bên cạnh việc phê phán
các thói hư tật xấu: xa hoa, lẳng lơ... đạo Hịa Hảo u cầu:
"Phải gìn dục vọng lịng tà
Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân
Nghe lời cha mẹ cân phân


17
Tam tòng vẹn giữ lập thân buổi này" [50, tr. 69].
Ngay trong "lời dặn dò bổn đạo", giáo lý Hòa Hảo cũng chỉ rõ phải
biết hiểu đúng "Tứ đế", biết suy nghĩ đúng, biết giữ nghiệp chính, khơng
làm nghiệp xấu, biết rèn luyện, tu tập khơng mệt mỏi, có niềm tin vững bền
vào sự giải thoát:
"Đạo mầu bát chánh ráng ghi
Thứ nhất chánh kiến việc chi xem mình
Luận bàn chân lý cho minh
Chuyện chi xét đoán xảo - tinh mới là
Thứ nhì chánh mạng vậy mà..." [51, tr. 73]
Hoặc: "Thứ năm tinh tấn hội đàm
Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan
Thứ sáu chánh ngữ liêu toan
Nói năng điều chánh thì an lo gì
Thứ bảy chánh niệm vậy thì
Khi cầu, khi niệm chuyện gì thật tâm

Thứ tám chánh định chớ lầm..." [51, tr. 73].
1.1.3. Tính nhẫn nhục, cam chịu
Hầu hết giáo lý của các tơn giáo đều có những điều khuyên răn con
người, khuyên răn các tín đồ phải nhẫn nại, cam chịu. Nếu chỉ giới hạn sự
nhẫn nại trong những hồn cảnh cần thiết thì lại khác, nhưng sự nhẫn nại
trong đạo đức các tôn giáo là sự nhẫn nại trong mọi hồn cảnh, khơng có
giới hạn, đến mức nó trở thành nhẫn nhục, cam chịu.


18

Trong đạo đức Công giáo, sự nhẫn nhục cam chịu đạt đến đỉnh cao.
Điều này được thể hiện trong quan niệm của Kinh thánh thời Tân ước đối
với kẻ thù và đối với kẻ ác. Những trường hợp bị kẻ ác xúc phạm thân thể
và xâm phạm của cải, Kinh thánh vẫn khun tín đồ khơng được mảy may
có hành động chống cự: "Đừng chống cự kẻ ác. Nếu ai vả má bên phải hãy
đưa luôn má bên kia cho họ. Nếu ai muốn kiện con để lấy áo ngắn, hãy để họ
lấy luôn áo dài. Nếu ai bắt con đi một dặm, hãy đi với họ hai dặm" [54, tr. 9].
Thậm chí ngay cả khi trong cơn hoạn nạn, bị bức hại, Kinh thánh
Tân ước vẫn khuyên các tín đồ nên vui mừng hy vọng, không chỉ đừng
hành động chống cự mà cịn đừng cả nói lời chống cự (nguyền rủa). Vượt
lên trên sức chịu đựng ấy, Kinh thánh cịn khun tín đồ hãy chúc phúc cho
kẻ bức hại mình và kiên nhẫn cầu nguyện Chúa: "Hãy vui mừng trong hy
vọng, nhẫn nại trong cơn hoạn nạn, kiên tâm cầu nguyện. Hãy chúc cho kẻ
bức hại anh chị em, hãy chúc phúc đừng nguyền rủa". Hơn thế nữa, Kinh
thánh cịn khun các tín đồ, nếu kẻ bức hại mình có đói khát thì hãy cho
ăn, cho uống và cũng đừng nghĩ đến sự trả thù nó, bởi mọi sự đã có Chúa
anh minh phán xét: "Anh chị em thân yêu, đừng tự báo thù ai, nhưng hãy
nhường chỗ cho cơn thịnh nộ của Chúa, vì Thánh kinh đã chép: "Sự báo trả
thuộc về Ta; Ta sẽ báo ứng!" Chúa phán vậy ". Nhưng nếu kẻ thù anh chị

em đói, hãy cho ăn, có khát hãy cho uống... [54, tr. 304]. Bị kẻ thù bức hại
mà không được nghĩ sự chống cự, khơng được nói lời chống cự và khơng
được làm hành động chống cự, lại cịn phải ni ăn, nuôi uống và chúc
phúc cho kẻ thù. Như thế vẫn chưa đủ, Kinh thánh cịn dạy tín đồ phải biết
thương yêu kẻ thù nữa "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các con
" [54, tr. 9]. Cũng trong Kinh thánh của sách Tân ước có đoạn viết: "Hễ ai
tìm cách bảo tồn mạng sống thì sẽ mất, nhưng ai chịu mất mạng sống thì sẽ
bảo tồn được nó" [54, tr. 153]. Đây là những thái độ "tạo thuận lợi" cho kẻ
thù, cho cái ác mặc sức hồnh hành, một mặt thể hiện tính chịu đựng, chịu


19

nhục, kiên tâm chờ đợi đến khi kẻ thù đã "chán, chê", mặt khác còn thể
hiện sự hèn nhát và ích kỷ. Bởi vì trước kẻ thù, trước cái ác, trước cái chết
con người có quyền được tự vệ chính đáng. Như thế, quả là tinh thần nhẫn
nhục cam chịu trong đạo đức Công giáo đã đạt đến điểm đỉnh.
- Trong đạo đức Phật giáo, sự nhẫn nhục được xem không phải là
sự khiếp nhược, yếu hèn, cam chịu, mà được coi là hành động dũng cảm,
cao thượng. Bởi đức Phật luôn dạy các đệ tử phải nhẫn nhục trước những
trường hợp khó khăn nhất. Theo đức Phật, người nào nhẫn được trong
trường hợp ấy mới xứng đáng là bậc Đại sĩ dũng cảm, cao cả hơn người:
"Này, các thầy Tỳ-kheo, ai thực hành đức nhẫn mới được mệnh danh là bậc
đại

nhân



sức mạnh. Kẻ nào khơng thể tiếp nhận những lời nhục mạ một cách hoan

hỷ như uống nước cam lồ, kẻ ấy không được ca ngợi là bậc thượng nhân có
trí" [10, tr. 54].
Đạo đức Phật giáo khơng chỉ khuyên các đệ tử nhẫn nhục tiếp nhận
những lời nhục mạ một cách hoan hỷ, mà còn coi sự nhẫn nhục cam chịu là
một thứ vũ khí để đối phó với những kẻ xâm phạm đến đời sống của mình,
như trong Bồ - tát giới mô tả: "Nếu là phật tử thì khơng được đem sự giận dữ
đáp lại sự giận dữ, cũng không được nuôi hận thù đối với những kẻ đã tàn sát
cha mẹ, anh em, chú bác của mình. Tóm lại, làm tổn thương sự sống để trả
thù sự sống là điều trái ngược với đức hiếu sinh của đạo Bồ tát" [10, tr. 53].
Theo Phật giáo quan niệm, kẻ thù đích thực từng gây đau thương, thống
khổ, bất tận cho nhân loại chính là tam độc tham, sân, si, chứ không phải là
những con người bằng xương, bằng thịt có những hành vi độc ác. Do tham,
sân, si thúc đẩy mà có người đã biến thành kẻ trộm, kẻ cướp, kẻ giết người,
gây đau khổ cho bao người. Do tham, sân, si mà có những tập đồn người
ngơng cuồng thực hiện mộng xâm lăng, đi xâm chiếm đất đai nước khác...
Vì thế, Phật giáo cho rằng những người mà ta xem là kẻ thù kia chẳng qua


20
cũng chỉ là nạn nhân của những hoàn cảnh lịch sử, địa lý, chính trị và đặc
biệt là nạn nhân của tham, sân, si, không nên trả thù họ, hãy nhẫn nhục cam
chịu. Nhẫn nhục, cam chịu cũng là cách thể hiện sự mở rộng tấm lòng
khoan dung cho họ, để cảm hóa họ. Bởi nếu khơng, dùng ốn để trả ốn thì
ốn sẽ chất chồng, khó mà dứt được dòng vay trả, trả vay bất tận:
"Hận thù diệt hận thù,
Đời này khơng thể có
Từ bi diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu" [10, tr. 53].
- Đối với đạo hòa Hảo, biết nhẫn nhịn trên mọi phương diện tức là
đã biết trau sửa tâm tính để đạt tâm đức của người hiền - Một mẫu hình lý

tưởng trong sự tu nhân của hòa Hảo. Sự nhẫn nhịn ấy được giáo lý chỉ ra
thành một loạt thứ nhẫn. Trong đó:
Nhẫn thứ nhất là nhẫn nhịn trong ứng xử cuộc sống:
"Chữ thứ nhất nhẫn năng xử thế
Là người hiền khó kiếm trên đời" [51, tr. 62].
Nhẫn thứ hai là nhẫn giới trì tâm, nghĩa là răn lòng cẩn thận mọi
việc muốn thành cơng thì trước hết phải biết nhẫn nhục. Thiếu sự nhẫn thì
lịng ắt nóng nảy, hời hợt, vọng động, khơng thể tu thân được:
"Chữ nhẫn giới trì tâm trong trẻo
Khuyên dương trần giữ phận làm đầu" [51, tr. 62].
Nhẫn thứ ba, thứ tư là nhẫn nhịn trong quan hệ tình làng, nghĩa
xóm, trong quan hệ vợ chồng phu - phụ, để xây dựng cuộc sống bình n,
vợ chồng thuận hịa.
"Nhẫn hương lân cùng khắp đâu đâu
Trên cùng dưới đều hòa ý hỷ



×