Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tâm Lý Học Giáo Dục.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.19 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA SƯ PHẠM TOÁN

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC PHẦN: TÂM LÝ HỌC GIÁO DỤC
Tên đề tài:
Câu 1: Anh/chị hãy phân tích đặc điểm tâm lí của học sinh THPT, từ đó đề
xuất được một số biện pháp dạy học và giáo dục nhằm giúp học sinh phát
triển tâm lí của mình.
Câu 2: Anh/chị hãy xây dựng kế hoạch rèn luyện phát triển phẩm chất và
năng lực của người giáo viên dạy mơn Tốn trong tương lai.

Họ và tên

:

Nguyễn Văn Thiện

Mã sinh viên

:

……………………

Lớp sinh hoạt

:

22ST1

GV hướng dẫn



:

……………………

Đà Nẵng, ngày 02 tháng 01 năm 2023


A. MỞ ĐẦU
Như ta đã biết, nghề giáo là một trong những nghề cao quý và được nhiều
người kính trọng, tôn vinh. Không chỉ truyền dạy tri thức cho học sinh mà họ
cịn là những người ni dưỡng nhân cách cho học sinh. Nghề giáo còn là một
nghề mang lại cơng ích, mang lại những cống hiến thiết thực đối với sự phát
triển của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng xã hội. Và sau khi học xong học phần
Giáo dục học, chúng ta đã nắm được đặc điểm của lao động sư phạm của nhà
giáo, bao gồm: đây là nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, là nghề
tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, là nghề đòi hỏi tính khoa học, tính
nghệ thuật và tính sáng tạo cao và là nghề lao động trí óc chuyên nghiệp. Với
những đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo, ta thấy nghề này đặt ra nhiều
đòi hỏi đối với phẩm chất đạo đức và phong cách của nhà giáo.
Vì vậy để trở thành một “người lái đị” tốt và thành cơng với nghề thì địi
hỏi mỗi nhà giáo phải có đạo đức nghề nghiệp và tác phong nhất định. Đạo đức
nhà giáo là những phẩm chất đạo đức, lối sống của nhà giáo, nó có vai trị quan
trọng, quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động sư phạm và chất lượng giáo
dục. Cùng với đó, phong cách nhà giáo là một tiêu chí cũng không kém phần
quan trọng đối với mỗi nhà giáo. Phong cách nhà giáo là cách thức hành xử của
một nhà giáo, được thể hiện nhất quán trong công việc dạy học, giáo dục của họ,
từ đó tạo nên cái riêng của họ. Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDDT của Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã ban hành quy định về đạo đức nhà giáo trong đó có “Điều 4.
Đạo đức nghề nghiệp” và “Điều 5. Lối sống, tác phong”. Trên con đường học

tập và rèn luyện để trở thành nhà giáo trong tương lai thì mỗi chúng ta ai cũng
đều phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức, do vậy việc tự trang bị cho
bản thân những kiến thức về cả đạo đức và phong cách nhà giáo là một điều rất
cần thiết. Và là một sinh viên sư phạm, bản thân tôi nhận thấy việc nắm bắt các
kiến thức về đặc điểm của lao động sư phạm và các yêu cầu về đạo đức, phong
1


cách nhà giáo để từ đó đề xuất hướng phấn đấu của bản thân để trở thành nhà
giáo thực sự là một vấn đề mang tính cấp thiết.

Do đó, em xin chọn đề tài:
“Câu 1: Anh/chị hãy phân tích đặc điểm tâm lí của học sinh THPT,
từ đó đề xuất được một số biện pháp dạy học và giáo dục nhằm giúp học
sinh phát triển tâm lí của mình.

2


Câu 2: Anh/chị hãy xây dựng kế hoạch rèn luyện phát triển phẩm
chất và năng lực của người giáo viên dạy mơn Tốn trong tương lai.” để làm
chủ đề bài tiểu luận của mình.
B. NỘI DUNG
I. Đặc điểm tâm lí của học sinh trung học phổ thông và một số biện pháp dạy học,
giáo dục nhằm giúp học sinh phát triển tâm lí của mình
1. Khái niệm học sinh trung học phổ thông
Học sinh trung học phổ thông là lớp người có độ tuổi từ 15 đến 18. Hầu hết học
sinh trong lứa tuổi này thể hiện ước mơ hoài bão của mình. Họ có nhiều nỗ lực cá
nhân nhằm giải quyết các mâu thuẫn giữa năng lực bản thân với yêu cầu của xã hội.
2. Vị trí, ý nghĩa của lứa tuổi học sinh trung học phổ thông

Lứa tuổi học sinh trung học phổ thơng bao gồm những em có độ tuổi từ 14 - 18
tuổi. Đó là những học sinh đang theo học từ lớp 10 đến lớp 12 ở các trường trung học
phổ thông. Đây là lứa tuổi có vị trí đặc biệt quan trọng trong các thời kì phát triển của
trẻ em. Các nhà tâm lý học gọi lứa tuổi này là tuổi thanh niên mới lớn hay còn gọi là
tuổi thanh xuân.
Tuổi thanh niên mới lớn là thời kì đặc biệt quan trọng trong cuộc đời. Là thời kì
kết thúc một quá trình phát triển lâu dài của các lứa tuổi từ 0 - 18 tuổi. Là thời kì kết
thúc một quá trình trưởng thành và phát triển lâu dài của đứa trẻ về sinh lý và tâm lý.
Là thời kì năng lực trí tuệ, nhân sinh quan, thế giới quan, lí tưởng và tồn bộ nhân cách
của con người đang phát triển và biến đổi về chất. Ở độ tuổi này hầu hết thanh niên
học sinh đã phát triển hoàn thiện về mọi mặt cả về thể chất và tâm lý. Có thể nói: Nhân
cách của các em đã được định hình về cơ bản.

3


3. Đặc điểm tâm lí của học sinh trung học phổ thông
3.1 Những điều kiện phát triển tâm lý ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông
3.1.1 Sự phát triển thể chất
Sự phát triển thể chất của thanh niên mới lớn là sự hoàn thiện về mặt thể chất.
phát triển hoàn thiện về mọi mặt: chiều cao, trọng lượng thân thể, hệ xương, hệ cơ,
làm cân đối giữa các bộ phận trong cơ thể. Đặc biệt, hoàn thiện về mặt cấu tạo của bộ
não cùng với hệ thống hoạt động sinh lý thần kinh của nó, hồn thiện với chức năng
sinh lý khác.
Về chiều cao: Đến năm 18 tuổi chiều cao của các em gái hầu như khơng tăng,
cịn các em trai tăng chiều cao đến năm 25 tuổi nhưng rất chậm.
Về hệ xương: Đã được cốt hóa vì thế các động tác và dáng điệu trở nên cứng
rắn hơn, cùng với sự phát triển của hệ xương hệ cơ phát triển ở mức độ cao đặc biệt là
các em gái: cơ bắp ở chân tay và thân người tăng nhanh khiến cho cơ thể nở nang, cân
đối dáng người trở nên rất đẹp.

Về hệ tim mạch: Hoạt động của hệ tim mạch ở trạng thái bình thường, khơng
cịn mất cân đối như ở tuổi thiếu niên. Dung tích của tim tăng tới mức tối đa và hoạt
động co bóp mạnh dồn máu đi khắp cơ thể. Đặc biệt là dồn máu lên não. Để biểu thị
sức mạnh của tuổi thanh niên dân gian ta có câu “tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”.
Về hệ thần kinh: có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não
phức tạp và các chức năng của não phát triển. Cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có
những đặc điểm như trong cấu trúc tế bào não của người lớn. Số lượng dây thần kinh
liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của vỏ não lại. Điều đó tạo tiền đề cần
thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp của vỏ bán cầu đại não trong
quá trình học tập.
3.1.2 Điều kiện của sự phát triển
Trong gia đình, các em là một thành viên chính và tham gia nhiều cơng việc
quan trọng của gia đình.
4


Ở nhà trường, hoạt động học tập mang một ý nghĩa mới mẻ, đó là bước chuẩn
bị cho các em sắp bước vào cuộc sống tự lập. Có thể nói, hoạt động học tập là bước
chuẩn bị cuối cùng cho thanh niên bước vào cuộc thử thách giàu tính quyết định nhất.
Nó quyết định rất nhiều mặt cơ bản của trong cuộc đời của mỗi thanh niên trong đó nổi
bật nhất là quyết định trình độ văn hóa của mỗi thanh niên. Sinh hoạt Đồn thanh niên
đóng vai trị to lớn trong việc phát triển cá tính học sinh. Tập thể lớp và tổ chức Đồn
thanh niên có vai trị to lớn trong việc động viên, kích thích hoạt động học tập để nâng
cao kết quả học tập của học sinh. Hoạt động lao động và ngoại khóa có tác dụng hình
thành mạnh mẽ những nét tâm lý mới cho học sinh, rèn luyện kĩ năng, kĩ năng gắn liền
phát triển tính tổ chức, tính kỷ luật… Hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề ở các
trường phổ thông đã giúp cho thanh niên được giáo dục một loạt các phẩm chất quan
trọng: tính chính xác, tính cẩn thận, tính tháo vát, tính tổ chức….
Ở ngồi xã hội, đến năm 18 tuổi nam nữ thanh niên được pháp luật công nhận
là cơng dân được hưởng mọi quyền lợi chính trị như quyền bầu cử, quyền ứng cử…

3.2 Đặc điểm hoạt động của học sinh trung học phổ thông
3.2.1 Hoạt động học tập của học sinh trung học phổ thông
Động cơ, thái độ học tập: Rất nhiều động cơ xuất hiện đan xen nhau bao trùm là
động cơ mang ý nghĩa xã hội và động cơ cá nhân. Thái độ của thanh niên học sinh đối
với các mơn học trở nên có tính lựa chọn hơn, ở các em đã hình thành những hứng thú
học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Thái độ học tập của thanh niên học
sinh được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác lứa tuổi trước. Lúc này có ý
nghĩa nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức sau đó là ý nghĩa xã hội của mơn
học sau đó đến các động cơ cụ thể khác.
3.2.2 Hoạt động giao tiếp của học sinh trung học phổ thông
Với người lớn
Với bạn bè

5


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
3.3 Đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh trung học phổ thông
3.3.1 Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ của học sinh trung học phổ thơng
Đặc điểm nổi bật về sự phát triển trí tuệ của học sinh trung học phổ thơng là
tính chủ định, tính chủ động, tính tích cực, tính tự giác được thể hiện rõ rệt ở tất cả các
q trình nhận thức. Có thể nói năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và các khả năng
khác ở thanh niên được hoàn thiện nhanh chóng và có chất lượng cao.
Về cảm giác và tri giác: Các quá trình cảm giác và tri giác đạt tới mức độ hoàn
thiện và tinh tế. Tri giác có mục đích đạt tới mức độ cao, quan sát trở nên có mục đích,
có hệ thống và tồn diện hơn. Quá trình quan sát chịu sự điều khiển của hệ thống tín
hiệu thứ hai nhiều hơn và gắn liền với tư duy ngơn ngữ. Tuy nhiên vẫn cịn một số em
quan sát phiến diện, hời hợt, kết luận vội vàng, thiếu cơ sở thực tế.
Sự phát triển của trí nhớ: Ở lứa tuổi thanh niên học sinh ghi nhớ có chủ định đã

giữ vai trị chủ đạo trong hoạt động trí tuệ của các em. Đồng thời vai trị của ghi nhớ
logic trừu tượng, ghi nhớ có ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Đặc biệt các em hiểu được ý
nghĩa của việc ghi nhớ và biết ghi nhớ có điểm tựa, ghi nhớ logic kết hợp với tư duy
trừu tượng. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn một số em ghi nhớ đại khái, chung chung
và nhiều em cịn coi thường việc ơn tập tài liệu dẫn đến kết quả ghi nhớ chưa cao.
Sự phát triển của tư duy: Tư duy của lứa tuổi này có những thay đổi quan trọng.
Đặc trưng của tư duy trong giai đoạn này là tư duy trừu tượng phát triển mạnh và
chiếm ưu thế trong mọi hoạt động đặc biệt là hoạt động học tập… Tuy nhiên bên cạnh
đó vẫn cịn nhiều em kết luận vội vàng, thiếu căn cứ, thiếu tính lịch sự một số em chưa
phát huy được năng lực độc lập, suy nghĩ. Một đặc điểm tâm lý phổ biến ở lứa tuổi này
tính ưa triết lý có thể nói thanh niên đã “triết lý hóa tồn bộ lý luận trong đời sống của
mình”. Chính vì vậy giáo viên cần phải bồi dưỡng những phẩm chất tư duy tích cực,
độc lập, sáng tạo cho học sinh giúp họ tránh những sai lầm trong cuộc sống.
6


Sự phát triển của tưởng tượng: So với lứa tuổi thiếu niên thì tưởng tượng của
thanh niên học sinh ngày càng phù hợp và gần với thực tế. Tính sáng tạo trong tưởng
tượng đang phát triển rất mạnh. Tưởng tượng vừa phong phú về nội dung vừa mở rộng
phạm vi ở nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số thanh niên học sinh
tưởng tượng còn nhiều phiến diện một chiều, thiếu cơ sở thực tế.
Hoạt động ngơn ngữ: Có thể nói vốn từ của thanh niên phong phú hơn nhiều so
với lứa tuổi thiếu niên. Khả năng sử dụng các quy tắc ngữ pháp cũng điêu luyện hơn
thiếu niên. Đây là thời kì phát triển mạnh nhất, cao nhất và hồn thiện nhất về ngơn
ngữ so với các lứa tuổi trước.
Tóm lại, do sự phát triển hoàn thiện của các giác quan đặc biệt của vỏ não đã
tạo tiền đề vật chất cho thanh niên học sinh lĩnh hội được vốn tri thức khá dồi dào,
kinh nghiệm phong phú làm cho năng lực nhận thức của thanh niên phát triển ở mức
độ cao và tiến dần đến sự hồn thiện.
3.3.2 Đời sống tình cảm của học sinh trung học phổ thơng

Tình cảm của thanh niên học sinh vô cùng phong phú, đa dạng, phức tạp, sâu
sắc, mạnh mẽ và bền vững hơn ở thiếu niên rất nhiều được thể hiện ở những đặc điểm
sau:
• Các em có khát vọng thâm nhập cuộc sống, khát vọng khám phá cuộc sống.
Thanh niên rất giàu cảm xúc, giàu tâm trạng, tâm trạng mang tính ổn định. Ở thanh
niên mới lớn, những hình thức thể hiện rất đa dạng, tạo ra khả năng tự kiểm soát và tự
điều chỉnh cảm xúc và hành vi của học sinh được hình thành.
• Sự nhạy cảm với các ấn tượng mới của đời sống được biểu hiện ra ở chỗ các
em bắt đầu có những rung động sâu sắc đối với những quan hệ qua lại trong gia đình,
ở nhà trường, trong sinh hoạt xã hội.
• Thanh niên thích phân tích tình cảm của mình và tình cảm của người khác.
Đặc biệt là biểu lộ tình cảm của mình một cách kín đáo, biết che giấu những rung động
và lựa chọn những hình thức đối xử phù hợp, tế nhị.
7


• Tình cảm thanh niên đã chứa đựng và thể hiện đa dạng các cung bậc khác
nhau trong đời sống tình cảm, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự phong
phú trong đời sống tình cảm của thanh niên còn được thể hiện ở sự kế thừa và mở rộng
những tình cảm cao cấp ở tuổi thiếu niên: tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ…
• Tình bạn: thanh niên rất khao khát tình bạn, tình bạn chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống tình cảm của họ song họ vẫn thận trọng khi chọn bạn hầu hết thanh niên
đều cho rằng: “tình bạn cần như nước uống song cần tìm nước trong mà uống”. Thanh
niên thường yêu cầu cao với bạn. họ cho rằng dấu hiệu quan trọng nhất của tình bạn là
tính bền vững, vượt qua được mọi thử thách. Một trong những nguồn gốc quan trọng
của tình bạn ở lứa tuổi này là gắn bó với nhau trong cung một hoạt động chung hấp
dẫn.
• Tình yêu cuả thanh niên học sinh: Là một thứ tình cảm đặc biệt giữa nam và
nữ, giàu chất thơ, chất trữ tình, là sự phát triển hợp qui luật của đời sống tâm lý con
người. Đây là mối tình đầu tiên nên rất sâu sắc, là hồi ức đẹp đẽ nhất của con người

khi đã luống tuổi.
3.4.3 Sự phát triển tự ý thức
Thanh niên học sinh là lứa tuổi có q trình tự ý thức diễn ra sơi nổi, mạnh mẽ.
sâu sắc, toàn diện hơn ở thiếu niên rất nhiều. Ở tuổi thiếu niên các em bắt đầu tri giác
những đặc điểm cơ thể của mình một cách hồn toàn mới và đến tuổi thanh niên các
em vẫn tiếp tục chú ý đến hình dáng bên ngồi (hay soi gương, chú ý sửa tư thế, quần
áo, đầu tóc…). Hình ảnh về thân thể là một thành tố quan trọng của sự tự ý thức ở
thanh niên mới lớn.
Sự hình thành tự ý thức ở lứa tuổi này là một quá trình lâu dài, trải qua những
mức độ khác nhau, ở tuổi thanh niên quá trình phát triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ,
sơi nổi và có tính chất đặc thù riêng.
Thanh niên có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình
theo quan điểm về mục đích cuộc sống và hồi bão của mình. Chính điều này khiến
các quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất, nhân cách và năng lực riêng.
8


Đặc điểm quan trọng trong sự tự ý thức của thanh niên là: sự tự ý thức xuất phát
từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động - địa vị mới mẻ trong tập thể, những quan hệ
mới với thế giới xung quanh buộc thanh niên mới lớn phải ý thức được những đặc
điểm nhân cách của mình.
Các em hay ghi nhật kí. Nội dung của tự ý thức cũng diễn ra phức tạp. Nếu
thiếu niên có thể hiểu mình ở những phẩm chất nhân cách bộc lộ rõ thì thanh niên cịn
có thể hiểu rõ những phẩm chất phức tạp, biểu hiện nhiều mặt quan hệ của nhân cách.
Thanh niên không chỉ đánh giá những cử chỉ, hành vi riêng lẻ, từng thuộc tính
riêng biệt mà biết đánh giá nhân cách mình nói chung trong tồn bộ những thuộc tính
nhân cách.
Thanh niên khơng chỉ có nhu cầu đánh giá mà cịn có khả năng đánh giá sâu sắc
và tốt hơn nhiều thiếu niên về những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của những người
cùng sống, của chính mình.

Cùng với sự phát triển của tự ý thức thì tự giáo dục, tự tu dưỡng cũng khá phát
triển ở lứa tuổi này. Chuẩn bị cho mình về mọi mặt để bước vào cuộc sống tự lập. Với
nhiều hình thức phong phú như: chọn sách gối đầu giường, ghi nhật ký… Tự tu dưỡng
diễn ra thường xuyên đã trở thành một quá trình rèn luyện tồn diện về các mặt.
Lứa tuổi này thể hiện sắc thái giới tính rõ rệt: Các em nữ quan tâm tới cái tơi
nhiều hơn, nữ dậy thì nhanh hơn. Trong quá trình tự ý thức thì nam thường quan tâm
tới hành vi, kết quả hoạt động. Nữ dựa vào ý kiến người khác, tán dương người khác.
3.4.4 Sự phát triển xu hướng nhân cách
Sự hình thành và phát triển của thế giới quan: Thế giới quan của thanh niên học
sinh được hình thành nhanh chóng và ngày càng có chất lượng. Thế giới quan của
thanh niên học sinh là thế giới quan khoa học, nó thể hiện tính hệ thống, tính tồn vẹn,
tính nhất qn và khái quát ở mức độ cao. Bên cạnh những thanh niên tích cực vẫn cịn
một số thanh niên chịu ảnh hưởng tàn dư chế độ cũ, họ có những quan điểm lệch lạc
về cuộc sống, họ có lối sống khơng lành mạnh, sống thụ động, có em đánh giá quá cao
sự hưởng thụ, tư tưởng sống gấp… Một số nét nhân cách khác của thanh niên: Hứng
9


thú, ước mơ, lý tưởng, những phẩm chất ý chí, tính cách của học sinh trung học phổ
thơng phát triển ở mức độ cao và đạt tới sự hoàn thiện. Đây là những phẩm chất quan
trọng quyết định trình độ phát triển của mỗi thanh niên khi bước vào cuộc sống tự lập.
3.4 Hoạt động lao động và sự hình thành xu hướng nghề nghiệp
3.4.1 Hoạt động lao động

3.4.2 Hoạt động lựa chọn nghề nghiệp
Khi chọn nghề thanh niên bi chi phối bởi những yếu tố sau đây: Yếu tố bên
trong như hứng thú, nguyện vọng và khả năng học tập của họ; Yếu tố bên ngoài như
dư luận xã hội. lời khuyên của người than… ngoài ra khi chọn nghề thanh niên còn bị
chi phối bởi những đặc điểm về giới tính và sức khỏe... Khi đã định hướng xu hướng
nghề nghiệp thì thanh niên học sinh tập trung cả hứng thú và năng lực phù hợp với

nghề nghiệp tương lai của mình. Đây chính là một ngun nhân dẫn đến tình trạng
thanh niên học lệch.
4. Một số biện pháp dạy học, giáo dục nhằm giúp học sinh phát triển tâm lí của
mình
Thanh niên mới lớn là thời kì kết thúc căn bản cả một quá trình hình thành và
phát triển lâu dài của đứa trẻ cả về sinh lý cũng như tâm lý. Đây là thời kì mà năng lực
trí tuệ, thế giới quan và tồn bộ nhân cách của con người có biến đổi lớn về chất
lượng, thời kì phải chuẩn bị về mọi mặt để bước vào cuộc sống tự lập. Vì vậy gia đình,
nhà trường và xã hội cần nhận thức đầy đủ, vị trí của lứa tuổi này để từ đó có nội dung,
phương pháp bồi dưỡng giáo dục các em trở thành những người lao động có đức, có
tài đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Để dạy học, giáo dục nhằm giúp học sinh phát triển tâm lí của mình, trước hết
cần xây dựng được mối quan hệ tốt giữa thanh niên và người lớn. Muốn vậy:
Cần tin tưởng vào thanh niên, tạo điều kiện để họ được thỏa mãn tính tích cực,
độc lập trong hoạt động, tạo điều kiện để thanh niên nâng cao tinh thần trách nhiệm
10


Cần giúp đỡ các tổ chức thanh niên một cách khéo léo, tế nhị để hoạt động của họ
được phong phú và độc lập hơn. Người lớn không được quyết định thay hoặc làm thay
họ.
Cần tổ chức hoạt động để lơi cuốn thanh niên vào hoạt động chung, kích thích
được tinh thần trách nhiệm của tất cả các em và kicha thích được sự tự giáo dục và
giáo dục lẫn nhau.
II. Kế hoạch rèn luyện phát triển phẩm chất và năng lực của người giáo viên dạy
mơn Tốn trong tương lai
1. Khái niệm và đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên
*Khái niệm về người giáo viên:
Giáo viên là người giảng dạy cho học sinh, sinh viên, lên kế hoạch, tiến hành
các tiết dạy học, thực hành và phát triển các khóa học nằm trong chương trình giảng

dạy của nhà trường đề ra đồng thời cũng là người kiểm tra, ra đề, chấm điểm thi cho
học sinh để đánh giá chất lượng, năng lực của từng học sinh.
*Đặc điểm của lao động sư phạm của người giáo viên:
• Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người
Nghề nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp của mình. Dựa trên tiêu chuẩn
này, các nhà khoa học đã phân tích thành bốn loại nghề sau đây: Nghề có quan hệ với
kỹ thuật: thợ lắp máy, sửa chữa, gia công bằng máy; Nghề quan hệ với tín hiệu: đánh
máy, mật mã, thợ sắp chữ; Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên: nghề chăn nuôi,
thú ý, địa chất, khí tượng; Nghề quan hệ trực tiếp với con người, quản lý, bán hàng,
nghề y, nghề dạy học.
• Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình
Dạy học là nghề đào tạo con người, là nghề đòi hỏi phải lao động nghiêm túc vì
không được phép tạo ra thứ phẩm và phế phẩm như một số nghành nghề khác. Trong
quá trình hoạt động, người giáo viên dùng công cụ chủ yếu là nhân cách của chính
mình. Vì vậy nghề dạy học có yêu cầu rất cao về phẩm chất và năng lực của người
11


giáo viên. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao đáp ứng được nhu cầu ấy. Để trở thành nhà
giáo xứng đáng với vị trí của mình thì phải không ngừng tích cực tu dưỡng, rèn luyện
nhân cách mình bằng cách: sống một cuộc sống chân chính, có thức và kỹ năng tự
hoàn thiện mình, tâm hồn người thầy giáo phải được bời dưỡng thường xuyên.
• Nghề dạy học là nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang làm thay đổi
dần vị trí của nguời lao động trong sản xuất, tức là chuyển dần dùng năng lực cơ bắp
để sản xuất ra vật phẩm cho xã hội sang dùng trí tuệ để điều khiển máy móc. Người
lao động từ người gia công, nay ở vị trí là người chỉ huy gia công. Như vậy, họ lao
động chủ yếu bằng sức mạnh tinh thần và trí tuệ. Sức mạnh ấy bao gồm: truyền thống
yêu nước, ý chí kiên cường, tình thương đồng loại, đức tính cần cù, sáng tạo, trí thức
và năng lực để làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân, lòng yêu lao động, lao động có

tổ chức, có kỷ luật. Chức năng của giáo dục chính là bồi dưỡng và phát huy sức mạnh
đó ở trong con người. Người giáo viên chính là người tạo ra sức mạnh đó theo phương
thức tái sản xuất mở rộng.
• Dạy học là nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo
cao
Dạy học sinh biết giải một bài toán, đặt một câu đúng ngữ pháp không phải
khó, nhưng dạy sao cho nó biết con đường đi đến chân lý, nắm được phương pháp phát
triển trí tuệ… mới là công việc đích thực của người giáo viên. Theo tinh thần đó thì lao
động sư phạm là một lạo lao động căng thẳng, tinh tế, không dập khuôn, một loại lao
động không đóng khung trong một giờ giảng, trong khuôn khổ nhà trường. Công việc
này đòi hỏi người giáo viên phải dựa trên nền tảng khoa học xác định và có những kỹ
năng sử dụng chúng vào tình huống sư phạm cụ thể, thích ứng với từng cá nhân sinh
động. Theo quan niệm như trên thì công việc của người giáo viên đòi hỏi tính khoa
học cao, việc dạy học không chỉ là kỹ thuật mà còn là nghệ thuật và giàu tính sáng tạo.
• Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp

12


Phải có một thời kỳ khởi động, đó là thời kỳ để cho lao động đi vào nề nếp, tạo
ra hiệu quả. Ở thời kỳ này, hiệu quả lao động thấp hoặc không tạo ra hiệu quả. Tùy
theo từng loại hình lao động mà thời kỳ khởi động có thời gian dài hay ngắn. Chẳng
hạn người công nhân đứng máy sau vài phút, vài giây đã có thể cho ra sản phẩm. Rất
nhiều giáo viên đã phải trăn trở ngày đêm cũng không chắc cho ra sản phẩm gì. Có
“quán tính” của trí tuệ: Những nghề khác, khi hết giờ làm việc lao động có thể được
thoải mải. Nhưng người giáo viên khi ra khỏi lớp học có khi vẫn còn miên man suy
nghĩ về các vấn đề có liên quan tới công việc, tới trách nhiệm của mình, tới thái độ và
sự tiếp thu tri thức của học sinh. Dạy học là nghề lao động trí óc, có những đặc điểm
trên. Vì vậy, lao động của người giáo viên là lao động căng thẳng, không hẳn đóng
khung trong không gian ở lớp học, thời gian xác định, mà khối lượng, chất lượng và

tính sáng tạo của công việc.
Tóm lại: Qua những đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên, ta thấy
nghề dạy học đặt ra nhiều đòi hỏi đối với phẩm chất và năng lực của người giáo viên.
Nhưng mặt khác nó cũng đặt ra cho xã hội phải dành cho nhà giáo một vị trí tinh thần
và sự đãi ngộ vật chất xứng đáng.
2. Cơ sở lý luận về các phẩm chất và năng lực cần thiết của người giáo viên
2.1 Những phẩm chất cần thiết của người giáo viên
2.1.1 Thế giới quan khoa học
Thế giới quan là hệ thống quan điểm về tự nhiên, xã hội, về nguyên tắc, quy
tắc, cư xử. Nó là sự biểu hiện tập trung cao độ của nhận thức sâu sắc, tình cảm nồng
nàn và niềm tin mãnh liệt và có ảnh hưởng tới xu hướng chính trị của con người. Thế
giới quan của người giáo viên là thế giới quan khoa học, bao gồm toàn bộ những quan
điểm duy vật biện chứng về các quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó
được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố như trình độ học vấn, mức độ sâu
sắc trong nghiên cứu nội dung giảng dạy, những tác động của thực tiễn cuộc sống…
Thế giới quan là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó khơng những
quyết định niềm tin chính trị, mà cịn quyết định tồn bộ hành vi, cũng như ảnh hưởng
13


của người giáo viên đối với học sinh. Thế giới quan của người giáo viên chi phối nhiều
mặt hoạt động và thái độ của người giáo viên đối với các mặt hoạt động ấy.
2.1.2 Lý tưởng đào tạo thê hệ trẻ
Lý tưởng đạo tạo thế hệ trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người giáo
viên. Nó giúp người giáo viên nhận rõ được giá trị lao động của mình và có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự hình thành nhân cách học sinh. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người
giáo viên được biểu hiện ở các mặt: có niềm say mê nghề nghiệp, lịng u trẻ, lương
tâm nghề nghiệp, tận tụy với công việc, cần cù, chịu khó bồi dưỡng nâng cao trình độ,
có trách nhiệm trong công việc lối sống giản dị. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người
giáo viên được hình thành và phát triển qua q trình hoạt động tích cực trong công tác

giáo dục. Đặc biệt trong những năm học ở trường sư phạm phải nhằm xây dựng lý
tưởng nghề nghiệp cho sinh viên.
2.1.3 Lòng tin yêu học trò
Lòng tin yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao quý của con
người, là một phẩm chất đặc trưng nhân cách của người giáo viên. Lòng yêu trẻ của
người giáo viên được biểu hiện:
• Cảm thấy sung sướng khi được tiếp xúc với trẻ khi đi sâu vào thế giới độc đáo
của trẻ.
• Lịng u trẻ cịn được thể hiện ở thái độ quan tâm đầy thiện ý và ân cần đối
với trẻ, kể cả những em học kém và vơ kỷ luật.
• Người giáo viên có lịng u thương trẻ lúc nào cũng thể hiện tinh thần giúp
đỡ họ bằng ý kiến, bằng hành động thực tế của mình một cách chân thành và giản dị.
• Lịng u trẻ của giáo viên cũng biểu hiện ở chỗ, thầy giáo ln ln có u
cầu cao đối với các em và nghiêm khắc đối với chúng.
2.1.4 Lòng yêu nghề (yêu lao động sự phạm)
Lòng yêu trẻ và yêu nghề gắn bó chặt chẽ với nhau. Càng yêu người bao nhiêu
ta càng yêu nghề bấy nhiêu, có yêu người mới có cơ sở để u nghề. Khơng có lịng
14


thương người, u trẻ thì khó mà tạo ra cho mình những động lực trong hoạt động vì
lý tưởng nghề nghiệp. Người giáo viên có lịng u nghề là người luôn luôn nghĩ đến
việc cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
2.1.5 Một số phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí của người giáo viên
Khác với các hoạt động khác, hoạt động của người giáo viên nhằm làm thay đổi
con người (học sinh). Do vậy, mối quan hệ thầy trò nổi lên như một vấn đề quan trọng
nhất. Nội dung, tính chất và cách xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng dạy học. Nếu giáo viên xây dựng được mối quan hệ với học sinh sao cho qua đó
khơi dậy ở họ được tính tích cực hoạt động thì chắc chắn chất lượng dạy học sẽ được
nâng cao.

Hơn nữa là giáo viên giáo dục học sinh không chỉ bằng những hành động trực
tiếp của mình mà cịn bằng tấm gương của cá nhân mình, bằng thái độ và hành vi của
chính mình đối với hiện thực. Để làm được điều đó, người giáo viên phải có những
phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Cụ thể là:
• Tinh thần nghĩa vụ và trách nhiệm, tinh thần vì học sinh thân u.
• Thái độ cơng bằng, chính trực, nhân đạo.
• Lịng tơn trọng, tính tính ngay thẳng, giản dị và khiêm tốn.
• Tính mục đích, tính ngun tắc, tính kiên nhẫn và tự kiềm chế.
• Biết tự điều khiển mình, có kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho thích
hợp với các tình huống sư phạm.
Tóm lại, những phẩm chất đạo đức và ý chí nói trên là nhân tố tạo nên các mối
quan hệ cụ thể tốt đẹp giữa thầy và trị. Đồng thời nó có tác động sâu sắc đến nhân
cách học sinh.
2.2 Các nhóm năng lực cần thiết của người giáo viên
Dựa vào chức năng đặc trưng của người thầy giáo là dạy học và giáo dục có thể
chia các năng lực sư phạm thành ba nhóm: nhóm năng lực dạy học, nhóm năng lực
15


giáo dục và nhóm năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Sau đây, ta sẽ xét một số
năng lực điển hình trong các nhóm của năng lực sư phạm.
2.2.1 Nhóm năng lực dạy học
• Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục
Năng lực hiểu học sinh được hiểu là khả năng “thâm nhập” vào thế giới tinh
thần của các em, hiểu biết tường tận về nhân cách của học sinh, có năng lực quan sát
tinh tế để hiểu đươc những biểu hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và
giáo dục.
Một giáo viên có năng lực hiểu học sinh là: Khi chuẩn bị bài giảng đã biết tính
đến trình độ, năng lực trí tuệ của học sinh lớp mình dạy, biết đặt mình vào địa vị
người học; Xác định được khối lượng, mức độ khó khăn và cách thức trình bày sao

cho thuận lợi nhất đối với học sinh. Vì thế, biểu hiện trước hết của năng lực hiểu học
sinh là ở chỗ, giáo viên biết xác định được khối lượng kiến thức đã có và mức độ,
phạm vi lĩnh hội của nó để từ đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần
trình bày trong cơng tác dạy học và giáo dục.
Người giáo viên có năng lực hiểu học sinh còn được biểu hiện ở khả năng quan
được mức độ hiểu bài, hoặc có thể phát hiện được cả mức độ hiểu sai lệch của học
sinh. Đồng thời, người giáo viên có năng lực hiểu học sinh cịn thể hiện ở chỗ dự đốn
được thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực
hiện các nhiệm vụ nhận thức. Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao
động đầy trách nhiệm, thương yêu sâu sắc học sinh, nắm vững mơn mình dạy, am hiểu
đầy đủ về tâm lý học trẻ em, tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lý
cần thiết như: sự “tinh ý” sư phạm, óc tưởng tượng sáng tạo, khả năng phân tích, tổng
hợp…
• Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên
Tri thức và tầm hiểu biết là năng lực cơ bản, năng lực trụ cột của người giáo
viên. Vì tri thức, quan điểm, kỹ năng, thái độ được thầy giáo sử dụng như một phương
tiện đặc biệt để phát triển nhân cách học sinh. Giáo viên phải nắm vững nội dung, bản
16


chất và con đường sáng tạo ra tri thức, để có thể tổ chức cho học sinh tái tạo lại những
tri thức đó để phát triển tâm lý, nhân cách của mình. Cơng việc của người giáo viên
khơng chỉ dạy tri thức khoa học, mà còn phải bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có một nhãn
quan rộng rãi, có những hứng thú và thiên hướng thích hợp. Do đó, địi hỏi ở giáo viên
một tầm hiểu biết rộng, tâm hồn phải được bồi bổ nhiều những tinh hoa của dân tộc,
của cuộc sống và của khoa học. Mặt khác, tri thức và tầm hiểu biết cịn có tác dụng
mạnh mẽ tạo nên uy tín của người giáo viên.
Người giáo viên có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể hiện ở chỗ: Nắm vững và
hiểu biết rộng mơn mình phụ trách. Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những
phát minh khoa học, thuộc mơn mình phụ trách, có hứng thú và biết tiến hành nghiên

cứu khoa học. Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để hoàn thiện tri thức. Để có những
năng lực này địi hỏi ở người giáo viên phải có hai yếu tố cơ bản: thứ nhất là nhu cầu
về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết, thú hai là những kỹ năng để làm thỏa mãn nhu
cầu đó (phương pháp tự học).
• Năng lực chế biến tài liệu học tập
Năng lực chế biến tài liệu học tập là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo
viên đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc
điểm cá nhân học sinh, trình độ kinh nghiệm của các em và đảm bảo logic sư phạm.
Muốn làm được điều đó, trước hết địi hỏi người giáo viên phải biết đánh giá đúng đắn
tài liệu, tức là xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với
trình độ nhận thức của học sinh, nhằm vừa đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức
của chương trình, vừa làm cho tài liệu đó lại vừa sức tiếp thu đối với học sinh. Trên cơ
sở đánh giá đúng đắn tài liệu, người giáo viên cịn phải biết chế biến gia cơng tài liệu
nhằm làm cho nó vừa đảm bảo logic của sự phát triển khoa học, vừa phù hợp với logic
sư phạm, vừa thích hợp với trình độ nhận thức của trẻ.
Muốn làm được điều đó người giáo viên phải có những khả năng sau đây: Khả
năng phân tích, tổng hợp hệ thống kiến thức. Người giáo viên phải có óc sáng tạo. Khả
năng này được thể hiện ở chỗ:
17


Thứ nhất: Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp kiến
thức chính xác, liên hệ kiến thức cũ và mới, kiến thức bộ môn này với bộ môn khác,
liên hệ vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ hai: Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng
đầy sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực.
Thứ ba: Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo.
• Nắm vững kỹ thuật dạy học
Nghề nào cũng có kỹ thuật hành nghề, nghề dạy học cũng có kỹ thuật riêng của
nó. Theo quan điểm hiện đại, đặc điểm của kỹ thuật dạy học mới là: Thầy tổ chức và

điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh nhằm giúp các em lĩnh hội tri thức. Vậy,
nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững kỹ thuật tổ chức và điều khiển hoạt động
nhận thức của học sinh.
Điều đó được biểu hiện ở chỗ: Nắm vững cách tổ chức và điều khiển hoạt động
nhận thức của học sinh, tạo cho các em ở vị trí là người chủ động trong việc tìm kiếm
phát triển, tái tạo lại những tri thức mà loài người đã phát hiện ra. Truyền đạt tài liệu
rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức đối với học sinh. Gây hứng thú và kích
thích học sinh suy nghĩ một cách tích cực, độc lập và sáng tạo trong quá trình học tập.
Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập. Để có được năng lực nói tên, giáo viên
phải có một quá trình học tập nghiêm túc và rèn luyện nghề thường xun.
• Năng lực ngơn ngữ
Trong dạy học, giáo viên dùng ngôn ngữ để hướng vào giải quyết một nhiệm vụ
nào đó như: truyền thụ kiến thức mới, kiểm tra kiến thức cũ, thuyết phục học sinh tin
vào một chân lý, một lẽ phải nào đó hoặc để biểu thị thái độ đồng tình hay phản đối.
Vậy năng lực ngơn ngữ chính là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình
cảm của mình bằng lời nói, chữ viết, điệu bộ và nét mặt. Năng lực ngôn ngữ là một
trong những năng lực quan trọng của người giáo viên. Ngơn ngữ là cơng cụ sống cịn
đảm bảo cho người giáo viên thực hiện chức năng dạy học và giáo dục. Do đặc điểm
18


của nghề nghiệp, ngôn ngữ của người giáo viên phải đạt tới độ chính xác cao, sâu sắc
về nội dung và trong sáng, giản dị về hình thức.
2.2.2 Nhóm năng lực giáo dục
• Năng lực vạch dự án phát triển của nhân cách học sinh
Năng lực vạch dự án phát triển của nhân cách học sinh là năng lực biết dựa vào
mục đích giáo dục, yêu cầu đào tạo để hình dung ra trước những phẩm chất nhân cách
cần phải giáo dục ở học sinh và hướng hành động của mình trên cơ sở hiểu rõ những
cái đã được hình thành và nắm vững cơ chế của quá trình hình thành nhân cách.
• Năng lực giao tiếp sư phạm

Là năng lực nhận thức nhanh chóng các biểu hiện bên ngồi và những diễn biến
tâm lí bên trong của học sinh và bản thân, đồng thời biết sử dụng hợp lí các phương
tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức, điều khiển và điều chỉnh quá trình
giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục.
Năng lực này được biểu hiện ở các kỹ năng chính như sau:
+/ Kỹ năng định hướng giao tiếp: Kỹ năng này được biểu hiện ở khả năng dựa
vào sự biểu lộ bên ngoài nào đó như: sắc thái biểu cảm, ngữ điệu, thanh điệu của ngôn
ngữ, cử chỉ, động tác, thời điểm và không gian giao tiếp mà phán đốn chính xác về
nhân cách cũng như mối quan hệ giữa chủ thể (giáo viên) và đối tượng (học sinh) giao
tiếp.
+/ Kỹ năng định vị: Kỹ năng này là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp,
biết đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng và biết tạo ra điều kiện để đối tượng
chủ động, thoải mái giao tiếp với mình. Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp thể hiện
ở chỗ biết thu hút đối tượng, tìm ra đối tượng giao tiếp, duy trì nó, xác định hứng thú,
nguyện vọng của đối tượng. Kỹ năng này còn bao gồm các kỹ năng làm chủ trạng thái
cảm xúc của bản thân, biết sử dụng toàn bộ các phương tiện giao tiếp.
+/ Kỹ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân: Kỹ năng này được biểu
hiện ở chỗ biết kiềm chế trạng thái cảm xúc mạnh, khắc phục những tâm trạng có hại,
19



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×