Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Skkn đổi mới phương pháp dạy học các biện pháp tu từ của phân môn tiếng việt lớp 6, 7 trường tiểu học thcs fansipan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.9 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung
dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm đã
được đặt ra một cách bức thiết. Bởi yêu cầu của việc dạy học hiện đại là tăng
cường hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Việc đổi mới dạy học
để có được hoạt động học tập chủ động tích cực, sáng tạo ấy, người thầy lấy học
sinh làm trung tâm trong môn Ngữ văn sẽ đem lại hứng thú cho cả thầy lẫn trò.
Học trò được bộc lộ bản thân, được đánh giá ở nhiều phía, như vậy thầy sẽ hiểu
được thực chất về trị để từ đó có phương pháp thích hợp nhằm đem lại hiệu quả
cao trong dạy học. Mặt khác, chính sự đổi mới phương pháp đó sẽ tạo cho học
sinh có nề nếp làm việc khoa học, rèn luyện được sự mạnh dạn, tự tin, bồi dưỡng
năng lực giao tiếp.
Vậy để giáo dục có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng
dạy người thầy cần biết lựa chọn phương pháp dạy tối ưu nhất, phù hợp với
phương pháp đổi mới, phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học. Song để đi
đến thành cơng giáo dục địi hỏi người giáo viên phải biết và không ngừng nổ
lực phấn đấu, sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào
cơng việc của mình.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu quan trọng nhằm từng bước
nâng cao chất lượng giáo dục, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh.
Tuy nhiên, đổi mới phải phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh. Để đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, học
sinh và giáo viên khơng thể chỉ bằng những gì có sẵn trong sách giáo khoa hoặc
qua những tài liệu hướng dẫn giảng dạy. Việc tìm tịi, nghiên cứu, sử dụng các
tư liệu trong dạy học nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng là điều vô cùng cần
thiết.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy mơn Ngữ văn nói chung và phần
Tiếng Việt nói riêng qua hơn mười năm thực hiện đổi mới và thay sách giáo


khoa, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp các em học sinh THCS đặc biệt là các
em khối lớp 6 dễ hiểu, dễ nắm bắt kiến thức về các biện pháp tu từ, bên cạnh
việc học kiến thức học sinh THCS còn cần sử dụng các biện pháp tu từ vào việc
giải quyết các đề thi thường xuyên và sau này phục vụ cho việc thi chuyển cấp
lên THPT. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều đồng nghiê ̣p
khác cũng đang quan tâm. Nên tôi mạnh dạn đưa đưa ra sáng kiến: Đổi mới
Phương pháp dạy học các biện pháp tu từ phân môn Tiếng Việt lớp 6,7
Trường Tiểu Học – THCS Fansipan. Hy vọng rằng với những kinh nghiệm
nhỏ bé rút ra từ thực tiễn của bản thân tôi trong hơn mười năm giảng dạy sẽ góp
phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả dạy mơn Ngữ văn nói chung và giảng dạy
kiến thức về các biện pháp tu từ nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
1.2.1. Đối với học sinh:
1

skkn


- Giúp học sinh THCS nắm được khái niệm về các biện pháp tu từ từ vựng
bằng cách hệ thống được vốn kiến thức về các biện pháp tu từ trong chương
trình THCS, đặc biệt là học sinh lớp 6, 7.
- Trên cơ sở nắm vững khái niệm các em sẽ biết phân biệt rõ ràng điểm
giống và khác nhau giữa các biện pháp tu từ và có phương pháp phân tích các
biện pháp tu từ một cách cụ thể.
1.2.2. Đối với giáo viên:
- Đây sẽ là cuốn tài liệu quan trọng để giúp học sinh dễ nắm bắt hơn kiến
thức về các biện pháp tu từ.
- Giáo viên có thể vận dụng khi soạn bài về các biện pháp tu từ khi lên lớp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối lớp 6, 7 Trường Tiểu học - THCS Fansipan

1.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đưa ra cách tối ưu nhất giúp học sinh
THCS đặc biệt là học sinh khối lớp 6, 7 nắm được kiến thức về các phép tu từ từ
vựng.
- Đề tài thực nghiệm trên hai lớp khối lớp 6,7 năm học 2020 -2021, 20212022 Trường Tiểu học - THCS Fansipan, Phường Đơng Vệ, Thành Phố Thanh
Hố.
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ lí luận, áp dụng vào thực tiễn, từ thực tiễn rút ra bài học kinh
nghiệm, dựa vào mục tiêu giảng dạy đổi mới và thực tiễn dạy bộ môn Ngữ văn ở
Trường Tiểu học - THCS Fansipan, Phường Đơng Vệ, Thành Phố Thanh Hố,
tơi đã vạch ra kế hoạch thực hiện đề tài này. Khi thực hiện tôi dùng các Phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Nghiên cứu lí luận văn học
- Phương pháp điều tra sư phạm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

2

skkn


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình dạy học môn Ngữ văn đặc biệt là dạy phân môn Tiếng
Việt phần các biện pháp tu từ, tôi nhận thấy học sinh, đặc biệt là học sinh khối 6
hiểu khái niệm cịn chung chung chưa đi sâu tìm hiểu giá trị biểu đạt và vận
dụng chưa linh hoạt các phép tu từ này vào tìm hiểu, khám phá và tạo lập văn
bản, trong giao tiếp… Một số học sinh còn lẫn lộn giữa các phép tu từ với nhau
dẫn đến hiểu sai, vận dụng sai.
Để học sinh nhận biết, tìm hiểu đúng giá trị nghệ thuật và vận dụng có

hiệu quả các phép tu từ này đòi hỏi người giáo viên phải hướng học sinh đến
việc tìm hiểu một cách cụ thể, tỉ mỉ gần gũi với tư duy, nhận thức của các em về
cách nhận biết, cách tìm hiểu giá trị nghệ thuật cách vận dụng các phép tu từ vào
nói, viết. Nghĩa là gắn với những hiểu biết từ thực tế cuộc sống và những hiểu
biết cơ bản mà các em đã phân tích tìm hiểu ở phần văn bản. Như vậy, q trình
dạy học phân mơn tiếng Việt sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh, học sinh sẽ
nhận biết chắc hơn, hiểu sâu hơn về giá trị nghệ thuật của mỗi phép tu từ, tránh
nhầm lẫn giữa phép tu từ này với phép tu từ kia. Đồng thời cũng một lần nữa
củng cố thêm kiến thức về văn học, về cuộc sống và luyện cho học sinh cách
viết lời văn trau chuốt, có hình ảnh, hàm súc, có tính biểu cảm cao.
Trong chương trình Ngữ văn THCS phần thực hành Tiếng Việt có các bài
học về biện pháp tu từ, nội dung sáng kiến này tôi chỉ đề cập đến những bài sau:
Lớp 6: Bài 5, 6, 7: So sánh, Ẩn dụ, Nhân hóa, Hốn dụ, So sánh, Điệp ngữ
Lớp 7: Bài 13: Điệp ngữ; Bài 14: Chơi chữ
Để phân tích biện pháp tu từ qua các đoạn văn, đoạn thơ. Trong sáng kiến này
tôi chỉ lựa chọn những biện pháp tu từ có khả năng áp dụng rộng rãi để phân
tích, từ đó giúp người đọc hiểu được thấu đáo vấn đề. Biết vận dụng các biện
pháp tu từ đó để phân tích được đoạn thơ, bài thơ.
Trong quá trình giảng dạy vận dụng sáng kiến này, tôi thấy học sinh dễ
tiếp thu kiến thức hơn, có kỹ năng hơn khi nhận diện các biện pháp tu từ.
2.2. Thực trạng:
2.2.1. Thuận lợi – khó khăn:
- Thuận lợi: Đối tượng học sinh Trường Tiểu học - THCS Fansipan đa số
các em đều ngoan, có ý thức học tập tốt. Tài liệu tham khảo, dụng cụ học tương
đối đầy đủ. Đặc biệt hiện nay có mạng In- tơ-nét rất thuận lợi cho việc tìm và
tham khảo tài liệu phục vụ cho việc dạy và học.
- Khó khăn: Một số học sinh chưa nắm vững kiến thức lí thuyết khi học
bộ mơn tiếng Việt nên việc tiếp nhận kiến thức văn học của các em còn hạn chế.
Một số em chưa tự giác, chưa dành nhiều thời gian cho việc học ở nhà, vì thế
ảnh hưởng đến việc nắm bắt kiến thức.

2.2.2. Thành công và hạn chế:
- Thành công: Khi áp dụng đề tài này các em dễ nắm bắt kiến thức, tạo
cho các em hứng thú học tập, tiếp thu kiến thức về các biện pháp tu từ.
- Hạn chế: một số học sinh còn mơ hồ, chưa nhận diện chính xác các biện
pháp tu từ.
2.2.3. Mặt mạnh – mặt yếu:
3

skkn


- Mặt mạnh: đề tài đã đưa ra phương pháp để dạy, để các em nhận diện
tiếp thu các biện pháp tu từ trong phân môn tiếng Việt cấp THCS. Ngồi ra cịn
có thể áp dụng tích hợp với phân môn Tập làm văn và khi học các tác phẩm Văn
học .
- Mặt yếu: Việc tiếp thu kiến thức ở mỗi học sinh khác nhau nên kết quả
học tập có em đạt kết quả chưa cao.
2.3. Giải pháp, biện pháp:
2.3.1. Mục tiêu của giải pháp:
- Hệ thống hóa lại kiến thức về các biện pháp tu từ, chỉ ra cách phân biệt
điểm giống và khác nhau giữa các biện pháp tu từ. Đồng thời đưa ra phương
pháp giúp học sinh phân tích được các biện pháp tu từ trong một câu, một đoạn
văn, đoạn thơ.
- Những kiến thức được trình bày trong sáng kiến này có nội dung cơ bản
về biện pháp tu từ về các bài từ lớp 6 đến lớp 7 đã nêu ở phần cơ sở lí luận và cả
việc hướng dẫn các bước cụ thể để phân tích biện pháp tu từ. Căn cứ vào hướng
dẫn của SGV và SGK, sáng kiến này cịn có thể giúp giáo viên Ngữ văn đỡ mất
thì giờ trong việc tìm tài liệu soạn bài.
2.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Phương pháp dạy cụ thể:

2.3.2.1. So sánh:
a. So sánh: là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương
đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ví dụ: Trẻ em như búp trên cành
Bao gồm: Vế A (Trẻ em) , từ so sánh (như), vế B (búp trên cành)
Giáo viên hỏi: Tại sao tác giả lại so sánh “Trẻ em” với “Búp trên cành”?
Trẻ em và búp trên cành cũng là các sự vật đang ở giai đoạn đầu tiên của quá
trình phát triển. Từ những đặc điểm về màu sắc, về trạng thái non tơ của “Búp
trên cành” đã giúp người đọc liên tưởng tới đặc điểm tươi trẻ, tràn trề sức sống
của trẻ em.
Như vậy so sánh nghĩa là đem cái chưa biết, chưa rõ đối chiếu với cái đã
biết để qua cái đã biết mà nhận thức, hình dung được cái chưa biết. Khi dạy bài
này, bước đầu tiên giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện phép so sánh thông
qua cấu trúc của nó. Cấu trúc của phép so sánh bao giờ cũng có hai vế:
-Vế A là vế nêu tên sự vật, sự việc được so sánh.
- Vế B nêu tên sự vật , sự việc dùng để so sánh với sự vật, sự việc nói ở vế
a, giữa hai vế thường có:
- Từ ngữ chỉ phương diện so sánh
- Từ ngữ so sánh hoặc có thể vắng từ ngữ chỉ phương diện so sánh, hoặc
vắng từ ngữ so sánh , hoặc cả hai.
Sau khi tìm hiểu giáo viên cho học sinh rút ra mơ hình của phép so sánh
rất đa dạng để học sinh, đặc biệt là học sinh yếu, trung bình để nhận biết. Mỗi
dạng giáo viên lấy nhanh hoặc cho học sinh lấy nhanh một ví dụ để minh họa.
Ví dụ: Dạng đầy đủ của một phép so sánh: Rừng đước dựng lên cao ngất như
hai dãy trường thành vơ tận. Rõ ràng trong ví dụ này có đầy đủ cấu tạo của phép
4

skkn



so sánh, giáo viên cho học sinh phát hiện các vế của một phép so sánh, phương
diện so sánh, từ so sánh và điền vào mơ hình sau:
Vế A
Phương diện
Từ ngữ
Vế B
(sự vật được so sánh)
so sánh
so sánh
(dùng để so sánh)
Rừng đước
dựng lên cao
như
hai dãy trường thành vơ
ngất
tận
(A)
(x)
(y)
(B)
Từ mơ hình trên cho ta thấy một phép so sánh đầy đủ. Nếu gọi vế A là A,
vế B là B, phương diện so sánh là x, từ ngữ so sánh là y, thì có thể diễn tả cách
hiểu một biện pháp so sánh như sau:
Ax = By
(nếu là so sánh ngang bằng)
Ax = Bx; Ax > Bx; Ax < Bx (nếu là so sánh không ngang bằng)
Từ ngữ so sánh (yếu tố y) trong cấu tạo của so sánh là những từ xác định
kiểu so sánh: là, như, bằng, giống như, bao nhiêu … bấy nhiêu, v.v. (so sánh
ngang bằng) hay, chẳng bằng, không bằng, hơn, kém, v.v (so sánh không ngang
bằng). Như vậy, dựa vào mục đích và các từ so sánh người ta chia phép so sánh

thành hai kiểu:
- So sánh ngang bằng: Phép so sánh ngang bằng thường được thể hiện bởi
các từ so sánh sau đây: là, như, y như, tựa như, giống như hoặc cặp đại từ bao
nhiêu, bấy nhiêu. Ví dụ (ví dụ này tham khảo tài liệu Dạy học Tiếng Việt THCS
của tác giả Hồng Xn Tâm- Bùi Tất Tươm): Gió đơng là chồng lúa chiêm.
Phải biết vụ lúa chiêm gieo cấy vào đầu mùa lạnh, gặt vào đầu mùa nóng mới
hiểu gió đơng (phương đơng chứ khơng phải mùa đơng) vào mùa nóng quan hệ
khắng khít (x) với giai đoạn trưởng thành, sinh sơi và chín rộ của lúa chiêm. Từ
đó mới hiểu được hình ảnh so sánh là (y) chồng lúa chiêm (B) khi nói về gió
đơng (A).
Mục đích của so sánh nhiều khi khơng phải là tìm sự giống nhau hay khác
nhau mà nhằm diễn tả một cách hình ảnh một bộ phận hay đặc điểm nào đó của
sự vật giúp người nghe, người đọc có cảm giác hiểu biết sự vật một cách cụ thể
sinh động. Vì thế phép so sánh thường mang tính chất cường điệu
Ví dụ: Cao như núi, dài như sông
(Tố Hữu)
- So sánh không ngang bằng (so sánh hơn kém): Trong so sánh không
ngang bằng từ so sánh được sử dụng là các từ : hơn, hơn là, kém, kém gì, chẳng
bằng…
Ví dụ: Những ngơi sao thức ngồi kia
A: những ngơi sao thức
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
B: mẹ thức;
y: chẳng bằng: x : ?
Những ngơi sao thức ngồi kia chẳng vất vả bằng, chẳng có tình u như mẹ đã
thức vì chúng con.
Ngồi ra giáo viên còn chỉ cho các em muốn chuyển so sánh không ngang
bằng sang so sánh ngang bằng người ta thêm một trong các từ phủ định: Không,
chưa, chẳng... vào trong câu và ngược lại.
Ví dụ: Trị chơi dân gian quyến rũ tơi hơn những cơng thức tốn học.

Trị chơi dân gian quyến rũ tôi không hơn những công thức toán học.
5

skkn


Lưu ý: HS Khi phương diện so sánh (x) bị lược trong ngơn bản thì việc xác định
khơng phải lúc nào cũng dễ, nhất là khi từ so sánh là bị lược.
Ví dụ: Gió đơng là chồng lúa chiêm.
Phải biết vụ lúa chiêm gieo cấy vào đầu mùa lạnh, gặt vào đầu mùa nóng
mới hiểu gió đơng (phương đơng chứ khơng phải mùa đơng) vào mùa nóng quan
hệ khắng khít (x) với giai đoạn trưởng thành, sinh sơi và chín rộ của lúa chiêm.
Từ đó mới hiểu được hình ảnh so sánh là (y) chồng lúa chiêm (B) khi nói về gió
đơng (A). Như vậy căn cứ vào vấn đề phân tích và dựa vào mơ hình trên cũng có
thể chia ra các hình thức so sánh sau đây:
- Yếu tố y là từ như (tựa như, chừng như …)
Ví dụ:
Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
(Ca dao)
- Yếu tố y là từ hô ứng bao nhiêu … bấy nhiêu.
Ví dụ:
Qua đình ngã nón trơng đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
(Ca dao)
- Yếu tố y là từ là.
Ví dụ: Chúng chị là hòn đá tảng trên trời
Chúng em chuột nhắc cứ đòi lung lay
(Ca dao)
Nếu thay là bằng như thì nội dung cơ bản không thay đổi, chỉ thay đổi

về sắc thái ý nghĩa từ sắc thái khẳng định chuyển sang giả định.
- Trong thơ ca nhờ cấu trúc cân đối và do sự cô đọng của ngôn ngữ thơ nên
nhiều khi yếu tố y cũng vắng mặt.
Ví dụ: Người ngồi đó lớn mênh mông
Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non.
(Tố Hữu)
Trước tiên cần xác định được đối tượng của so sánh:
- So sánh đồng loại:
+ So sánh người với người:
Ví dụ: Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi tới trường cô giáo như mẹ hiền
(Lời bài hát)
+ So sánh vật với vật:
Ví dụ: trơng hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành
vô tận. (Sông nước Cà Mau)
- So sánh khác loại:
+ So sánh vật với người:
Ví dụ: Ngơi nhà như trẻ nhỏ
Lớn lên với trời xanh
(Đồng Xuân Lan)
+ So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng và ngược lại:
Ví dụ: Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
6

skkn


( Ca dao)
Trong bài học so sánh, SGK Ngữ văn 6 tập hai không phân biệt hai loại

so sánh: so sánh lôgic và so sánh tu từ. Định nghĩa và nội dung miêu tả trong bài
là so sánh tu từ, tức biện pháp tu từ so sánh.
Trong cấu tạo biện pháp so sánh, điều quan trọng nhất là phải hiện diện cả
hai vế: vế được so sánh và vế dùng để so sánh.
Phương diện so sánh là một mặt nào đó của đối tượng muốn miêu tả bằng
so sánh. Đó là nhận xét về hình thể, về một phẩm chất, về một hoạt động hay
một trạng thái của đối tượng. Những điều ấy hồn tồn có thể diễn đạt bằng một
vị từ (tính từ, động từ), một ngữ vị từ hay bằng một cụm C-V.
Ví dụ: (tham khảo tài liệu Dạy học Tiếng Việt THCS của tác giả Hoàng Xuân
Tâm- Bùi Tất Tươm):
Đứa bé như cái nấm.
= Đứa bé lùn.
Trăng như cái đĩa.
= Trăng tròn.
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
= Non xanh nước biếc đẹp.
Tay tre như những sợi tóc.
= Tay tre nhiều và rối.
Sơng ngịi, kênh rạch như mạng nhện.
= Sơng ngịi, kênh rạch bủa giăng
chi chít.
Dế Choắt như một gã nghiện.
= Dế Choắt người gầy gò và dà lêu nghêu.
Giá trị của những ví dụ về so sánh trên là ở cách chọn các đối tượng dùng
để so sánh: cái nấm, cái đĩa, tranh họa đồ, những sợi tóc, mạng nhện, một gã
nghiện. Các đối tượng ấy đã gợi tả rất hiệu quả tính chất, hình thể của đối tượng
được so sánh: lùn, tròn, đẹp, nhiều và rối, bủa giăng chi chít, người gầy gị và
dài lêu nghêu.
b. Tác dụng của so sánh
- So sánh tạo ra những hình ảnh cụ thể sinh động. Phần lớn các phép so

sánh đều lấy cái cụ thể so sánh với cái không cụ thể hoặc kém cụ thể hơn, giúp
mọi người hình dung được sự vật, sự việc cần nói tới và cần miêu tả.
Ví dụ:
Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Ca dao)
- So sánh còn giúp cho câu văn hàm súc gợi trí tưởng tượng của ta bay
bổng. Vì thế trong thơ thể hiện nhiều phép so sánh bất ngờ.
Ví dụ: Tàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh
Cách so sánh ở đây thật bất ngờ, thật gợi cảm. Yếu tố (3) bị lược bỏ. Người đọc
người nghe tha hồ mà tưởng tượng ra các mặt so sánh khác nhau làm cho hình
tượng so sánh được nhân lên nhiều lần.
c. Bài tập bổ sung: Sau khi cho học sinh nắm vững các kiến thức ta có thể cho
các em làm thêm các bài tập bổ sung để giúp các em nhận diện kiểm tra được
kiến thức của các em một cách chính xác hơn vì các bài tập trong SGK có thể
các em dựa vào sách giải mà không nắm kiến thức.
Bài 1. Phép so sánh sau đây có gì đặc biệt:
Mẹ già như chuối và hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
(Ca dao)
7

skkn


* Gợi ý: Chú ý những chỗ đặc biệt sau đây:
- Từ ngữ chỉ phương diện so sánh bị lược bỏ
Vế (B) là chuẩn so sánh khơng phải có một mà có ba: chuối và hương – xơi nếp
mật - đường mía lau là nhằm mục đích ca ngợi người mẹ về nhiều mặt, mặt nào
cũng có nhiều ưu điểm đáng q.

Bài 2. Tìm và phân tích phép so sánh (theo mơ hình của so sánh) trong các câu
thơ sau:
a. Ngoài thềm rơi chiếc la đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
(Trần Đăng Khoa)
b. Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con chèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay.
(Đỗ Trung Quân)
Gợi ý: Chú ý đến các so sánh
a. Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
b. Quê hương là chùm khế ngọt
Quê hương là đường đi học
2.3.2.2. Nhân hóa:
a. Nhân hóa: là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật, … bằng những từ ngữ vốn
được dùng để gọi hoặc tả con người.
Ví dụ: Cây dừa
Sải tay
Bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
(Trần Đăng Khoa)
b. Tác dụng của phép nhân hoá
Phép nhân hoá làm cho câu văn, bài văn thêm cụ thể, sinh động, gợi cảm;
làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật, … trở nên gần gũi với con người, biểu
thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người.
Ví dụ:
Bác giun đào đất suốt ngày
Hơm qua chết dưới bóng cây sau nhà.

(Trần Đăng Khoa)
c. Các kiểu nhân hóa: Có các kiểu nhân hóa sau:
- Dùng từ ngữ vốn gọi người (chú, chị, cơ,…) để gọi sự vật:
Ví dụ: Chú gà trống nhà em thật đáng yêu.
Hoặc: Dế Choắt ra cửa, hé mắt nhìn chị Cốc. Rồi hỏi tơi :
- Chị Cốc béo xù đứng trước cửa nhà ta đấy hả ?
(Tô Hồi)
- Dùng những từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động
tính chất của vật:
Ví dụ: + Dùng các động từ thuộc về hoạt động của con người để miêu tả sự tồn
tại và vận động của trời – núi – trăng – hoa:
8

skkn


Vì mây cho núi lên trời
Vì chưng gió thổi hoa cười với trăng
+ Dùng các tính từ miêu tả, các động từ hành vi của người, khoác lên cho
các đối tượng không phải người:
Lúa đã chen vai đứng cả dậy – Trần Đăng
Hoặc: Súng vẫn thức. Vui mới giành một nửa,
Nên bâng khuâng sương biếc nhớ người đi
(Tố Hữu)
- Trò chuyện, xưng hơ với vật như đối với người:
Ví dụ: + Coi các đối tượng không phải là người mà như là người và tâm tình
nói chuyện với chúng.
… Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,

Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
(Ca dao)
+ Trò chuyện với sự vật, hơ-gọi sự vật như trị chuyện với con người, hơ
gọi con người:
Núi cao chi lắm núi ơi?
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương.
(Ca dao)
Tuy nhiên khi phân tích một biện pháp nhân hóa, học sinh thường lúng
túng khi xác định vế nhân hóa và vế được nhân hóa. Vế nhân hóa là vế tạo nên
hiện tượng nhân hóa, đó là các từ ngữ vốn được dùng để nói về (gọi, tả, kể, nhận
định) con người. Vế nhân hoá thường làm vị ngữ hay phụ ngữ miêu tả (định ngữ
trang trí) cho vế được nhân hóa.
Ví dụ: Mn nghìn cây mía múa gươm
Kiến hành quân đầy đường
(Trần Đăng Khoa)
Vế nhân hóa là các từ ngữ: múa gươm, hành quân.
Vế được nhân hóa là: mn nghìn cây mía và kiến.
Nhờ cách dùng múa gươm và hành quân (là các từ ngữ miêu tả hoạt động của
người) mà mn nghìn cây mía và kiến được nhân hóa.
Do có chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm-cảm xúc cho nên nhân hóa
được sử dụng rộng rãi.
Trong sinh hoạt hàng ngày ta thường nghe nói: điếu cày kêu (sịng sọc), con
đường lượn vịng, cái bụng muốn đi (mà) cái chân không muốn bước…
Trong lời nói nghệ thuật ta thường gặp nhân hóa: gió khóc, gió rền rĩ, trăng
chiếu mơ màng, sơng thì thầm mấy khúc hùng ca xưa cũ, khăn thương nhớ ai,
đèn thương nhớ ai…
Ngồi ra nhân hố chỉ có thể được hiện thực hóa trong một ngữ cảnh nhất định:
Ví dụ: Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù, tre xung phong vào xe
tăng, đại bác, tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre
hy sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!

(Thép Mới)
9

skkn


d. Bài tập bổ sung: Tương tự như ở biện pháp so sánh ta cho các em làm những
bài tập bổ sung để kiểm tra kiến thức.
Bài 1. Tìm phép nhân hoá và nêu tác dụng của chúng trong những câu thơ sau:
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước
(Ngọn đèn đứng gác- Chính Hữu)
Gợi ý: Chú ý cách dùng các từ vốn chỉ hoạt động của người như: Đứng gác, nối
theo nhau, hành quân, đi lên phía trước.
Bài 2: Xác định phép nhân hóa và cho biết nó thuộc kiểu nhân hóa nào?
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất ?
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
(Ca dao)
Em hỏi cây kơ nia
Gió mày thổi về đâu
Về phương mặt trời mọc...
(Bóng cây kơ nia)
Gợi ý: Trò chuyện tâm sự với vật như đối với người
2.3.2.3. Ẩn dụ:
a. Ẩn dụ: là gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác có
nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

Khi dạy bài này, giáo viên cần phân tích làm rõ mối quan hệ gữa ẩn dụ và
so sánh đã học ở tiết trước để học sinh dễ hình dung. Ẩn dụ thực chất là một
kiểu so sánh ngầm trong đó yếu tố so sánh giảm đi chỉ còn yếu tố làm chuẩn so
sánh được nêu lên. Muốn có phép ẩn dụ thì giữa hai sự vật hiện tượng được so
sánh ngầm phải có nét tương đồng quen thuộc nếu khơng sẽ trở nên khó hiểu.
Ẩn dụ là một loại so sánh ngầm, trong đó ẩn đi sự vật, sự việc được so
sánh (Vế A), phương diện so sánh, từ so sánh chỉ còn sự vật, sự việc được dùng
so sánh (Vế B) Vậy muốn tìm được phép ẩn dụ và hiểu được cái hay, hàm súc
của ẩn dụ thì phải xuất phát từ từ ngữ ẩn dụ (Vế B) để tìm đến vế A (Sự vật, sự
việc được so sánh) . Thơng thường học sinh chỉ tìm được phép ẩn dụ mà ít tìm
được giá trị nghệ thuật của nó, nếu tìm được cũng chỉ sơ sài, chung chung, nhiều
khi cịn sai lệch về nội dung. Để khắc phục được điều đó, giáo viên cần hướng
dẫn học sinh hiểu được các phép ẩn dụ.
Ví dụ:
Thuyền về có nhớ bến chăng ?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Bến được lấy làm ẩn dụ để lâm thời biểu thị người có tấm lịng thuỷ
chung chờ đợi, bởi những hình ảnh cây đa, bến nước thường gắn với những gì
khơng thay đổi là đặc điểm quen thuộc ở những có người có tấm lòng thuỷ
chung.
10

skkn


Ẩn dụ chính là một phép chuyển nghĩa lâm thời khác với phép chuyển
nghĩa thường xuyên trong từ vựng. Trong phép ẩn dụ, từ chỉ được chuyển nghĩa
lâm thời mà thơi.
Ví dụ:
Giá đành trong nguyệt trên mây

Hoa sao hoa khéo đọa đày thân hoa.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Hoa (B) mang ý nghĩa ẩn dụ, chỉ người phụ nữ có nhan sắc (A).
b. Tác dụng của ẩn dụ
Ẩn dụ làm cho câu văn thêm giàu hình ảnh và mang tính hàm súc. Sức
mạnh của ẩn dụ chính là mặt biểu cảm. Cùng một đối tượng nhưng ta có nhiều
cách thức diễn đạt khác nhau. (thuyền – biển, mận - đào, thuyền – bến, biển –
bờ) cho nên một ẩn dụ có thể dùng cho nhiều đối tượng khác nhau. Ẩn dụ luôn
biểu hiện những hàm ý mà phải suy ra mới hiểu. Chính vì thế mà ẩn dụ làm cho
câu văn giàu hình ảnh và hàm súc, lơi cuốn người đọc người nghe.
Ví dụ: Trong câu : Người Cha mái tóc bạc.
Nếu thay Bác Hồ mái tóc bạc thì tính biểu cảm sẽ mất đi.
c. Các kiểu ẩn dụ: Vì ẩn dụ có ý nghĩa hàm súc nên có thể phân 4 kiểu, dạng ẩn
dụ thường gặp:
- Ẩn dụ hình thức được hình thành trên cơ sở nét tương đồng về hình thức
giữa các đối tượng. Con đường hình thành ẩn dụ hình thức có thể xuất phát từ
nét tương đồng giữa hình thức của sự vật, hiện tượng và con người
Ví dụ: Đầu tường lửa lựu lập lịe đâm bơng
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Ở đây, tất nhiên khơng có ngọn lửa nào. Chữ lửa (B) trong văn cảnh dùng
để biểu thị màu đỏ của hoa lựu (A). Có thể chưa trơng thấy hoa lựu bao giờ,
chưa biết hoa lựu màu đỏ, nhưng đọc câu thơ trên vẫn có thể suy ra như vậy, vì
có thành ngữ quen thuộc “đỏ như lửa”. Câu thơ gợi được một cảnh thật rực rỡ:
đầu tường, màu đỏ của hoa lựu tạo nên những bông hoa lửa lập lịe! Chính cách
dùng ẩn dụ lửa lựu của Nguyễn Du làm cho ta cảm nhận những bông hoa lửa từ
màu đỏ của hoa lựu.
- Ẩn dụ cách thức được hình thành trên cơ sở nét tương đồng về cách thức
hành động giữa các đối tượng. Ẩn dụ cách thức đã đem lại cho người đọc bao
cảm xúc sâu xa.
Ví dụ: Về thăm nhà Bác làng sen,

Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng.
(Nguyễn Đức Mậu)
Nhìn “hàng râm bụt” với những bông hoa đỏ rực tác giả tưởng như những
ngọn đèn “thắp lên lửa hồng”. Hành động thắp ở đây ý chỉ hoa nở.
- Ẩn dụ phẩm chất (dựa vào sự tương đồng về phẩm chất giữa các sự vật
hiện tượng). Hay nói cách khác: có thể được dùng theo lối chuyển nghĩa lấy tên
gọi chung thay tên riêng hoặc lấy tên riêng thay tên chung.
Ví dụ:
Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
11

skkn


(Đêm nay Bác khơng ngủ - Minh Huệ)
Lấy hình tượng Người Cha để gọi tên Bác Hồ.
- Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (dựa vào sự tương đồng về cảm giác). Hay
nói cách khác là những ẩn dụ trong đó B là một cảm giác vốn thuộc một loại
giác quan dùng để chỉ những cảm giác A vốn thuộc các loại giác quan khác hoặc
cảm xúc nội tâm. Nói gọn là lấy cảm giác A để chỉ cảm giác B.
Ví dụ: Đoạn văn “…Chao ôi, trông con sông, vui sướng thấy nắng giịn tan. Sau
kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng…”
Giáo viên có thể hỏi HS: Trong cuộc sống, từ “giòn tan” thường dùng chỉ đặc
điểm cụ thể của những vật nào?
Giòn tan: Dùng chỉ đặc điểm của những vật cứng cụ thể khi bị gãy, vỡ như
bánh, gỗ, kính… Chứ khơng dùng để chỉ hiện tượng tự nhiên như “Nắng”.
Giáo viên lại hỏi tiếp: Theo em, Cụm từ: “ nắng giịn tan” có gì đặc biệt so với

cách nói thơng thường?
- Đây là một ẩn dụ chuyển đổi cám giác của nhà văn Nguyễn Tuân (Từ vị
giác, thính giác sang thị giác).
Hoặc Ví dụ: bài tập 3 trang 70 Ngữ văn 6 tập hai cho chúng ta những ví dụ rất
tốt về ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Câu a) và câu b): Chảy là hoạt động của dòng chất lỏng (tiêu biểu là nước). Đối
với hiện tượng chảy, ta cảm nhận bằng các giác quan: thị giác, xúc giác, thính
giác (nếu dịng chảy gây tiếng động đủ nghe thấy). Trong các câu “Mùi hồi chín
chảy qua mặt”, “Ánh nắng chảy đầy vai”, mùi hồi và ánh nắng, qua ẩn dụ, được
cảm nhận như những dòng chất lỏng chảy mơn man trên da thịt. Mùi hồi được
cảm giác chảy rất rõ với động tác ngẩng mặt lên để dịng hương chảy qua và
nhất là khi có một làn gió nhẹ thổi qua cánh rừng hồi.
* Lưu ý: Khi dạy phép ẩn dụ, giáo viên cũng nhấn mạnh thêm: Ẩn dụ được
dùng nhiều trong lời ăn tiếng nói hàng ngày làm cho lời nói hội thoại mang đậm
đà màu sắc biểu cảm, cảm xúc. Ví dụ: Khi mẹ nựng con thường hay nói : cún
con, cục vàng…Hoặc sử dụng nhiều ẩn dụ chuyển đổi cảm giác như: Ví dụ:
Giọng chua, nói đau, màu nóng… Cho học sinh tìm thành ngữ ẩn dụ để khi cần
các em biết vận dụng vào trong giao tiếp hàng ngày, trong lập văn bản để tăng
thêm giá trị hàm súc cho lời nói. Ví dụ: Ni ong tay áo, gậy ơng đập lưng ơng,
chuột sa chỉnh gạo, con nhà lính tính nhà quan.
d. Bài tập bổ sung:
Bài 1: Phân tích nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ sau:
"Thân em vừa trắng lại vừa trịn"
(Bánh trơi nước - Hồ Xn Hương)
* Gợi ý: - Nghĩa đen: Bánh trôi nước về màu sắc và hình dáng
- Nghĩa bóng : Hình ảnh về vẻ đẹp người phụ nữ có làn da trắng và
thân hình đầy đặn .
Khi phân tích ta làm như sau : Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ
thật tài tình vì qua hình ảnh cái bánh nhà thơ đã gợi cho người đọc hình dung
được một hình ảnh khác thật sâu săc kín đáo đó là hình ảnh ... (nghĩa bóng). Từ

đó gợi cảm xúc cho người đọc về người phụ nữ xưa ...
Bài 2: Chỉ ra biện pháp tu từ và phân tích giá trị biểu cảm trong hai câu thơ sau:
12

skkn


Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
(Viễn Phương - Viếng lăng Bác)
* Gợi ý: - Phép tu từ ẩn dụ: Mượn hình ảnh mặt trời để chỉ Bác Hồ
- Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ thật tài tình vì qua hình
ảnh “mặt trời” là một vầng thái dương “nghĩa đen”, tác giả tạo ra một hình ảnh
so sánh ngầm sâu sắc, tế nhị làm cho người đoc suy nghĩ và hình dung ra được
hình ảnh của Bác Hồ (nghĩa bóng) một con người rực rỡ và ấm áp như mặt trời
dẫn dắt dân tộc ta trên con đường giành tự do và độc lập xây dựng tổ quốc cơng
bằng dân chủ văn minh từ đó tạo cho người đọc một tình cảm yêu mến khâm
phục vị lãnh tụ kính u của dân tộc chúng ta.
2.3.2.4. Hốn dụ:
a. Hốn dụ: là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật,
hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình,
gợi cảm cho sự diễn đạt. Ví dụ: Đầu bạc tiễn đầu xanh (Người già tiễn người trẻ:
dựa vào dấu hiệu bên ngồi).
Trong SGK chỉ ra bốn kiểu hốn dụ, tuy nhiên trong thực tế ta phải hiểu
rằng có hai kiểu hoán dụ lớn là hoán dụ từ vựng và hốn dụ tu từ (trong đó hốn
dụ tu từ được phân ra thành nhiều loại nhỏ), các kiểu hoán dụ trong SGK là hốn
dụ tu từ. Trong q trình dạy giáo viên có thể chú ý thêm cho học sinh về điều
này hoặc có thể nắm kĩ hơn để khỏi nhầm lẫn.
Hoán dụ từ vựng: là trường hợp đơn giản nhất của hốn dụ, trong đó tên gọi của
một khách thể thường là tên riêng, được chuyển sang chỉ một khách thể khác.

Hoán dụ tu từ thường được cấu tạo dựa vào những mối liên hệ lôgic khách quan.
b. Các kiểu hốn dụ: Có bốn kiểu hốn dụ thường gặp:
- Lấy một bộ phận để gọi tồn thể:
Ví dụ: Liên hệ giữa công cụ lao động và bản thân sức lao động hoặc kết quả của
lao động: Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
(Hồng Trung Thơng)
Bàn tay (cơng cụ kì diệu của lao động) làm liên tưởng đến sức sáng tạo phi
thường của sức lao động.
Hoặc: Đầu xanh đã tội tình gì?
Má hồng đến q nữa thì chưa thơi.
(Nguyễn Du)
Đầu xanh (bộ phận cơ thể) biểu thị con người ở độ tuổi trẻ trung, mới bước vào
đời (toàn thể). Má hồng (bộ phận cơ thể) biểu thị người đàn bà sống kiếp lầu
xanh (toàn thể)
- Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng:
Ví dụ: Áo nâu liền với áo xanh
Nơng thôn cùng với thị thành đứng lên.
(Tố Hữu)
Hai câu thơ này nhà thơ Tố Hữu viết về người lao động của nước ta thời kì Cách
mạng tháng 8. Thời ấy, y phục đặc trưng của người nông dân là áo nâu, của
người công nhân là áo xanh.
13

skkn


Khi phân tích ví dụ giáo viên có thể hỏi: Các từ in đậm trong câu thơ chỉ ai ?
Dùng áo nâu để chỉ người nông dân, áo xanh chỉ người công nhân, nông thôn
chỉ những người sống ở nông thôn , thị thành chỉ những người sống ở thành thị.

Giáo viên hỏi tiếp: Giữa áo nâu, áo xanh, nông thơn, thị thành với sự vật được
chỉ có mối quan hệ như thề nào ?
- Dùng dấu hiệu, vật chứa đựng của sự vật để gọi sự vật.
Hoặc: Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh.
(Tố Hữu)
Trái đất (vật chứa đựng) biểu thị đông đảo nhân dân (vật được chứa đựng).
Liên hệ giữa vật chứa đựng và vật bị chứa đựng. Trong đời sống hằng ngày ta sử
dụng rất nhiều như: cả hội trường đứng dậy vỗ tay, cả làng đổ ra xem …
- Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng:
Ví dụ: Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Một, Ba chỉ số lượng cụ thể nhưng trong trường hợp này được dùng thay cho số
ít và số nhiều.
Hoặc: Kháng chiến ba ngày đêm không nghỉ
Bắp chân đầu gối vẫn săn gân.
(Tố Hữu)
Bắp chân đầu gối vẫn săn gân (cụ thể) biểu thị tinh thần kháng chiến dẻo dai.
Mục đích chủ yếu của hốn dụ là nhấn mạnh vào một dấu hiệu, một thuộc
tính nào đó của đối tượng được nói đến (dấu hiệu hoặc thuộc tính được dùng
làm cái đại diện, cái thay thế cho đối tượng). Cịn chức năng chủ yếu của hốn
dụ là nhận thức và biểu cảm – cảm xúc. Nó khắc sâu đặc điểm tiêu biểu cho đối
tượng được miêu tả. Nó được dùng rộng rãi trong lời nói nghệ thuật và trong
nhiều phong cách.
- Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật:
Ngày Huế đổ máu
Chú Hà nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè.
(Tố Hữu)

Đổ máu là dấu hiệu của chiến tranh". Có thể hiểu Ngày Huế đổ máu là ngày Huế
nổ ra chiến sự.
Hoặc: Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Áo chàm (y phục) ở đây dùng để chỉ người Việt Bắc.
d. Bài tập bổ sung: Tìm và phân tích các hốn dụ trong các ví dụ sau:
- Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
(Ca dao)
- Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá...

14

skkn


“áo rách” là hoán dụ lấy quần áo (áo rách) để thay cho con người (người nghèo
khổ). Còn“áo gấm” cũng là hoán dụ lấy quần áo (áo gấm) để thay cho con người
(người giàu sang, quyền quí).
- “Viên gạch hồng” là hoán dụ lấy đồ vật (viên gạch hồng) để biểu trưng
cho nghị lực thép, ý chí thép của con người. (Bác Hồ vĩ đại). Cịn “ Băng giá” là
hốn dụ lấy hiện tượng tiêu biểu (cái lạnh ở Pa-ri) để gọi thay cho mùa (mùa
đông).
* Lưu ý: Khi dạy các biện pháp tu từ ở lớp 6, tôi thấy các em đa số còn chưa
phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa các biện pháp tu từ. Sau đây là một
số kỹ năng giúp các em phân biệt các biện pháp tu từ này:
So sánh và ẩn dụ: Cả hai đều dựa vào sự giống nhau giữa hai đối tượng nhưng:
- Một đằng thì đặt cả hai đối tượng ra để đối chiếu (so sánh)
- Một đằng thì dùng ngay tên cái đối tượng dùng để so sánh kia mà gọi tên đối
tượng được so sánh, tên thật của đối tượng được so sánh thì ẩn đi (ẩn dụ).

Ví dụ: So sánh
Ẩn dụ
- Cơ giáo như mẹ hiền
- Mẹ hiền ở trường của tôi [...]
- Tay tre như những sợi tóc
- Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
- Hoa lựu màu đỏ như lửa
- Đầu tường lửa lựu lập l đâm bơng
Ẩn dụ và Hốn dụ: Giữa ẩn dụ và Hốn dụ có điểm chung căn bản là chuyển
đổi tên gọi: gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên gọi sự vật hiện tượng khác.
Điểm khác biệt giữa hai phương thức là: sự chuyển đổi tên gọi ấy:
- Trong ẩn dụ thì dựa trên cơ sở hai đối tượng giống nhau ở một phương
diện nào đó. Ví dụ: Đầu tường lửa lựu lập l đâm bơng. Chữ lửa trong văn cảnh
dùng để biểu thị màu đỏ của hoa lựu.
- Cịn trong hốn dụ thì dựa trên cơ sở hai đối tượng gần nhau.
Ví dụ: Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.
(Tố Hữu)
Hoặc: Đầu bạc tiễn đầu xanh (Người già tiễn người trẻ: dựa vào dấu hiệu bên
ngoài).
Tác dụng của ẩn dụ và hoán dụ đều là nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho
nội dung diễn đạt. Tuy vậy, trong các biện pháp nghệ thuật này, đối tượng là chủ
thể của sự tình được diễn đạt lại vắng mặt và được thay thế nên sự tiếp thu cũng
đòi hỏi một ý thức, một sự gia công nhất định.
2.3.2.5. Điệp ngữ:
a. Điệp ngữ là khi nói hoặc viết, người ta có thể dùng biện pháp lặp lại từ ngữ
(hoặc cả một câu) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh. Cách lặp lại như vậy gọi
là phép điệp ngữ; từ ngữ được lặp lại gọi là điệp ngữ.
* Lưu ý: Chúng ta cần phân biệt giữa điệp ngữ và lỗi lặp từ:
- Lặp do kém năng lực tổ chức câu: lỗi diễn đạt.

- Lặp do có dụng ý tăng hiệu quả biểu đạt của câu: tu từ cú pháp.
- Lặp do bệnh lí của cơ quan phát âm: nói lắp.
- Điệp ngữ vừa để nhấn mạnh ý vừa tạo cho câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn
thơ giàu âm điệu, giọng văn trở nên tha thiết, nhịp nhàng hoặc hào hùng mạnh
mẽ.
15

skkn


Ví dụ:Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dịng sơng đỏ nặng phù sa
Hoặc: Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say với cánh bướm tình u
Ta muốn thâu trong một cái hơn nhiều.
Tác dụng: Điệp từ "Ta" được lập lại 4 lần nhấn mạnh khát vọng cháy bỏng
muốn mở lịng mình và để ôm trọn, tận hưởng cuộc sống này.
b. Các loại điệp ngữ:
+ Điệp ngữ cách quãng.
+ Điệp ngữ nối tiếp.
+ Điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vịng)
Ta có thể căn cứ vào vị trí của các yếu tố lặp, có thể phân biệt:
- Điệp ngữ cách quãng là dạng điệp ngữ trong đó những từ ngữ được lặp
lại đứng cách xa nhau nhằm gây một ấn tượng nổi bật và có nhạc tính rất cao.
Ví dụ:
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu

Cô gái ở Thạch Kim, Thạch Nhọn
Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.
Đơi khi có những kiểu cách qng chỉ một lần xuất hiện ở câu đầu văn bản và
lần lặp lại ở câu cuối văn bản. Điệp cách quãng kiểu này là phương tiện để thực
hiện kiểu cấu trúc văn bản có tên gọi là đầu cuối tương ứng.
Ví dụ:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi
Chôn chặt văn chương ba thước đất,
Tung hô hồ thỉ bốn phương trời
.....................................................
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
(Hồ Xuân Hương)
- Điệp ngữ tiếp nối tiếp: là dạng điệp ngữ trong đó những từ ngữ được lặp
lại trực tiếp đứng bên nhau nhằm tạo nên ấn tượng mới mẻ, có tính chất tăng
tiến.
Ví dụ:
Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
(Hồ Chí Minh)
- Điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vòng) là một dạng điệp ngữ có tác dụng
tu từ lớn. Chữ cuối câu trước được láy lại thành chữ đầu câu sau và cứ thế, làm
cho câu văn, câu thơ liền nhau như đợt sóng. Người ta thường dùng nó trong thơ
trữ tình để diễn tả một cảm giác triền miên.
Ví dụ:
Cùng trơng lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
16


skkn


Lịng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
(Đồn Thị Điểm)
Với tư cách là một phương tiện tu từ cú pháp, điệp ngữ được sử dụng rộng
rãi trong tất cả các phạm vi của lời nói: hành chính-cơng vụ, khoa học, chính
luận, sinh hoạt hằng ngày và văn nghệ thuật.
2.3.2.6. Trong SGK Ngữ văn THCS đề cập đến việc vận dụng các biện pháp
tu từ từ vựng để phân tích những câu văn, câu thơ:
Việc vận dụng các biện pháp tu từ để phân tích một đoạn thơ hoặc một
văn bản nào đó tương đối khó. Nhưng nếu nắm vững được các biện pháp nghệ
thuật trên thì việc vận dụng để phân tích các đoạn thơ bài thơ là một bước khá
dễ dàng. Tuy nhiên trong quá trình vận dụng vào phân tích đoạn thơ, bài thơ yêu
cầu học sinh phải đọc kĩ đoạn thơ, bài thơ đó, xác định đúng biện pháp tu từ,
nhận thấy được giá trị, ý nghĩa, hiệu quả, dụng ý diễn đạt thông qua phép tu từ
mà tác giả sử dụng ở trong đoạn thơ, bài thơ đó.
Dạng bài tìm, phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong thơ văn vốn rất
quen thuộc, thường được sử dụng trong kiểm tra, thi cử. Để làm tốt dạng bài
này, học sinh cần nhớ và vận dụng các bước như sau:
Bước 1: Chỉ ra được biện pháp tu từ trong câu/ đoạn... thơ/ văn và từ ngữ
thực hiện
Bước 2: Nêu/ phân tích được tác dụng/ hiệu quả/ giá trị biểu đạt... của biện
pháp tu từ đó ở 3 phương diện:
+ Giá trị biểu đạt nội dung: Biện pháp tu từ đã góp phần thể hiện nội
dung gì được nói đến trong câu/ đoạn/ văn bản… có chứa biện pháp tu từ đó.
+ Giá trị đối với người cảm nhận: (giá trị gợi hình gợi cảm của biện pháp
tu từ cho người đọc, người nghe cảm nhận được gì về hình ảnh, dáng vẻ, âm
thanh, hương vị ... hay gợi tình cảm, cảm xúc gì ...)

+ Giá trị đối với tác giả: biện pháp tu từ thể hiện được tài năng và tình
cảm gì của tác giả đồng thời tài năng, tình cảm của tác giả khơi gợi điều gì cho
người đọc, người nghe, người cảm nhận...
Bước 3: Viết thành đoạn văn, bài văn ngắn.
Ví dụ: Chỉ ra và phân tích hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp tu từ trong
đoạn thơ sau:
- Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã.
- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng.
Cách làm
Bước 1: Xác định chính xác biện pháp tu từ có trong đoạn thơ và chỉ ra
những từ ngữ thực hiện:
- So sánh con thuyền ra khơi “
- So sánh “Cánh buồm với mảnh hồn làng” hăng như con tuấn mã” tức là
con thuyền chạy nhanh như con ngựa đẹp và khỏe (tuấn mã) đang phi.
Bước 2: Phân tích giá trị (cái hay) của các biện pháp tu từ ở ba phương
diện:
- Đối với việc biểu đạt nội dung: Các biện phá tu từ góp phần thể hiện
cảnh Cánh buồm no gió ra khơi trở thành biểu tượng rất phù hợp và đầy ý nghĩa
của làng chài.
17

skkn


- Đối với người cảm nhận: Hai câu thơ trên tác giả đều dùng biện pháp so
sánh. Tuy nhiên mỗi câu lại có hiệu quả nghệ thuật riêng
+ So sánh con thuyền ra khơi “hăng như con tuấn mã” tức là con thuyền
chạy nhanh như con ngựa đẹp và khỏe (tuấn mã) đang phi, tác giả so sánh cái cụ
thể, hữu hình này với cái cụ thể hữu hình khác. Sự so sánh này làm nổi bật vẻ
đẹp, sự mạnh mẽ của con thuyền ra khơi.

+ So sánh “Cánh buồm với mảnh hồn làng” tức là so sánh một vật cụ thể
hữu hình, quen thuộc với một cái trừu tượng vơ hình có ý nghĩa thiêng liêng.
Cách so sánh này làm cho hình ảnh cánh buồm chẳng những trở nên cụ thể sống
động mà cịn có vẻ đẹp lớn lao, trang trọng, thiêng liêng. Cánh buồm no gió ra
khơi trở thành biểu tượng rất phù hợp và đầy ý nghĩa của làng chài.
- Đối với tác giả: thể hiện được sự quan sát, liên tưởng tinh tế, tài tình và
tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống lao động và đã ngợi ca bằng cả tấm lòng
trân trọng mến yêu tự hào với những vẻ đẹp của con người cảnh sắc q hương.
Từ đó khơi gợi trong ta tình u đối với vẻ đẹp rất đỗi bình dị của quê hương đất
nước và sự trân trọng công sức, sự vất vả của người lao động trong một chuyến
ra khơi nhưng tình thần của họ vẫn hăng hái, mạnh mẽ.
Bước 3: Viết thành đoạn văn hoặc bài văn ngắn.
Đây là bước cuối cùng quyết định bài viết có thành cơng hay khơng. Vì ta
khơng nên hiểu làm bài về biện pháp tu là kiểu bài tiếng việt nên chỉ trả lời một
cách máy móc cứng nhắc. Ta nên hiểu kiểu bài này chính là một dạng cảm thụ
văn học do đó phải biết trình bày về biện pháp tu từ một cách sâu sắc có chất
văn. Vì vậy phải đặt ngữ liệu có chứa biện pháp tu từ trong hệ thống của toàn
bài. (Giới thiệu thật ngắn gọn về tác giả tác phẩm rồi chuyển đến ngữ liệu mà
mình phân tích để làm toát lên được cảm nhận sâu sắc nhất của mình về giá trị
của biện pháp tu từ đó).
Ví dụ: Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam,
trong đó có Tế Hanh. Bài thơ Quê hương là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Tế
Hanh. Bài thơ đã khắc họa một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê
miền biển, nổi bật là vẻ đẹp khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân làng chài.
2.3. Kết quả của nội dung nghiên cứu
Qua thời gian thử nghiệm và sử dụng sang kiến trong dạy học, bản thân tơi thấy
có nhiều tác dụng:
- Phát huy được tính tích cực của học sinh trong q trình hoạt động trên lớp
cũng như việc nghiên cứu bài mới và học bài cũ ở nhà.
- Việc nắm kiến thức về các biện pháp tu từ của học sinh vững chắc hơn, có hệ

thống hơn và xóa được lỗ hổng kiến thức bộ môn.
- Giúp các em dần dần biết vận dụng kĩ năng tu từ vào việc phân tích cái hay, cái
đẹp của thơ văn.
KẾT QUẢ BÀI KIỂM TRA KIẾN THỨC VỀ CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ
Ở CÁC LỚP TIẾN HÀNH KHẢO SÁT THU ĐƯỢC SAU ÁP DỤNG.
Lớp TSHS Số lượng bài dưới trung TSHS
bình (Năm học: 20202021)

skkn

Số lượng bài dưới trung
bình (Năm học: 20202021)
18


14 em

Khi đã áp dụng đề tài
4 em
28,5 %

Số lượng bài dưới trung TSHS
bình (Năm học: 2021Lớp TSHS
2022)
Khi chưa áp dụng đề tài
7A 17 em
10 em
58,8%
18 em
6A 13 em

9 em
69,2%
12 em

Số lượng bài dưới trung
bình (Năm học: 20212022)
Khi đã áp dụng đề tài
5 em
27,7%
5 em
41.6%

6A

Khi chưa áp dụng đề tài
14 em
9 em
64,2%

Qua bảng kết quả khảo sát ta thấy có sự khác biệt rõ rệt. Số học sinh dưới
trung bình giảm đáng kể. Trên đây là một số phương pháp giúp học sinh THCS
nắm vững kiến thức về các biện pháp tu từ từ vựng. Đề tài này được thực hiện
chủ yếu mang tính chủ quan của cá nhân tơi được tích luỹ trong q trình giảng
dạy ở đơn vị trường đặc biệt khó khăn. Tuy kết quả bước đầu chưa cao lắm,
nhưng với nhiệt tình và nổ lực theo khả năng, tơi cũng đã tích lũy được một số
bài học thực tiễn. Rất mong được nhận ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu cùng
các bạn đồng nghiệp, để việc giảng dạy bộ mơn Ngữ văn nói chung và dạy các
biện pháp tu từ từ vựng ở phần Tiếng việt nói riêng cho học sinh nói riêng trong
nhà trường chất lượng ngày càng nâng cao, giúp học sinh học tốt hơn.


19

skkn


3. KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Trong quá trình giảng dạy, tơi ln trăn trở làm sao tìm ra phương pháp
tối ưu nhất để tạo hứng thú cho học sinh học tập. Làm sao để nâng cao chất
lượng hiệu quả dạy học, làm sao để qua mỗi tiết dạy học sinh lĩnh hội được một
lượng kiến thức cần đạt. Vì vậy nội dung sáng kiến kinh nghiệm này giúp các
em thêm hứng thú học tập và nắm vững kiến thức về các biện pháp tu từ. Chính
các biện pháp tu từ đã tạo nên những câu văn, câu thơ hay, những tác phẩm hay.
Bởi vì cái hay ở đây khơng chỉ ở nội dung hay mà cịn hay về hình thức, hình
thức diễn đạt ngơn ngữ mới mẻ, đặc sắc. Đó là đặc trưng của ngơn ngữ nghệ
thuật, khác với ngôn ngữ tự nhiên.
3.2. Đề xuất, Kiến nghị:
Đây là một số điều mà bản thân tôi đã rút ra được sau một thời gian tìm tịi,
nghiên cứu và thực hiện giảng dạy trực tiếp ở một số lớp học:
Đối với giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn: cần phải phát huy hết tinh thần
trách nhiệm, yêu nghề, tích cực tự học tự rèn, đọc nhiều tư liệu để nâng cao tay
nghề, tích luỹ chun mơn cho bản thân.
Đối với nhà trường: Cần trang bị cho giáo viên những tài liệu tham khảo
cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.
Tuy nhiên bản thân tôi nhận thấy để những tiết học môn Ngữ Văn đạt hiệu
quả và sát với thực tế hơn thì nhà trường cần có những buổi sinh hoạt chuyên đề
để giáo viên cùng thảo luận về các vấn đề cụ thể đối với từng chủ đề qua đó lựa
chọn và xây dựng một mẫu giáo án chung phù hợp để có những tiết dạy đạt hiệu
quả cao hơn. Đây cũng là đề xuất của riêng bản thân tôi rất mong q thầy cơ
trong hội đồng đóng góp ý kiến để bản thân tơi ngày càng hồn thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 05 tháng 4 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Trương Thị Tuyết Nhung

20

skkn



×