Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Skkn giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh trường thcs quảng hùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 34 trang )

1. Mở đầu.
1.1 Lí do chọn đề tài.
Mơi trường là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của
con người. Nó tác động và quyết định một phần cơ bản đến chất lượng cuộc
sống của mỗi chúng ta. Thế nhưng, thực tế môi trường Việt Nam và trên thế giới
đang bị ô nhiễm và bị suy thoái nghiêm trọng đã gây ảnh hưởng tới chất lượng
cuộc sống của một bộ phận lớn cư dân trên trái đất. Điều đó cho thấy bảo vệ mơi
trường đang là vấn đề cấp bách, nóng bỏng khơng chỉ ở Việt Nam mà cả trên
toàn thế giới. Sự thiếu hiểu biết về môi trường và ý thức bảo vệ môi trường kém
đang là một trong những nguyên nhân chính gây nên ơ nhiễm và suy thối mơi
trường. Do đó việc đưa giáo dục mơi trường vào các cấp học có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, vì nó liên quan đến xây dựng nhận thức cho học sinh ngay từ lúc
tuổi thơ, ngay trong quá trình hình thành nhân cách của học sinh. Giáo dục các
em là cơ sở ban đầu làm nền tảng cho việc đào tạo các em thành những cơng dân
tốt cho đất nước. Nó cịn đặc biệt quan trọng, vì nó khơng những có tác động
tích cực tới nhân cách và hành vi của trẻ em, những người chủ tương lai, mà cịn
có ảnh hưởng lan tỏa tới cộng đồng và xã hội ở địa phương, góp phần tăng
cường sự tham gia tự giác và chủ động của mọi người dân vào sự nghiệp chung
về bảo vệ môi trường.
Ngay hơm nay, việc giáo dục cho học sinh có những hiểu biết về mơi
trường và hình thành ở các em ý thức, kĩ năng về bảo vệ môi trường là vơ cùng
cần thiết. Vì vậy, năm học 2021 – 2022, Bộ giáo dục và đào tạo đã đẩy mạnh
chương trình lồng ghép giáo dục học sinh ý thức bảo vệ mơi trường trong các
mơn học nói riêng và hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp nói chung. Từ đó đặt
ra vấn đề làm thế nào để nâng cao hiệu quả giáo dục môi trường cho học sinh,
làm thế nào để có thể hình thành cho học sinh những hiểu biết về môi trường
đang là vấn đề được quan tâm hiện nay.
Bản thân là một giáo viên chủ nhiệm, tơi nhận thấy mình có trách nhiệm
lớn trong việc hình thành, phát triển ở các em thói quen, hành vi ứng xử văn
minh, lịch sự và thân thiện với môi trường, bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên,
những xúc cảm, xây dựng cái thiện và hình thành thói quen, kĩ năng sống bảo vệ


mơi trường cho các em. Chính vì lẽ đó tơi đã chọn đề tài “ Giáo dục ý thức bảo
vệ môi trường cho học sinh trường THCS Quảng Hùng”, với mong muốn góp
phần đào tạo các em trở thành những con người tồn diện “ Cao trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
1.2.Mục đích của đề tài.
Nghiên cứu và ứng dụng đề tài này trong tình hình thực tiễn của học sinh
trường THCS Quảng Hùng, bản thân tôi hướng tới mục đích:
- Tuyên truyền về tác hại của việc ô nhiễm môi trường để nâng cao nhận
thức của học sinh trong việc bảo vệ.
- Giúp học sinh nắm được những khái niệm cơ bản về môi trường và kỹ
năng bảo vệ môi trường.

skkn


- Tổ chức thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường trường học. Đồng
thời tuyên truyền tới người thân và cộng đồng ý thức bảo vệ môi trường sống..
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là những giải pháp giáo dục học sinh ý
thức bảo vệ môi trường.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Tiến hành nghiên cứu đề tài này đối với học sinh trường Trung học cơ sở
Quảng Hùng tôi áp dụng các phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thơng tin.
- Phương pháp thống kê xử lí số liệu.
- Phương pháp điều tra.
- Thực hành.
- Áp dụng thực tiễn.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

Bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên, chủ động phòng chống
thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu ln là vấn đề được Đảng và Nhà nước
quan tâm, ban hành nhiều chủ trương chính sách, xử lý kịp thời những vấn đề
đặt ra. Năm 2004, ở Việt Nam Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số
153/2004/QĐ TTg ngày 17/08/2004, “Ban hành định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự Agenta 21 của Việt Nam)
nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”. Năm 2005,
Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ
8 thông qua ngày 29/11/2005 đã đưa ra quan niệm về môi trường: “Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh
hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”.
Năm 2020, dự thảo Luật bảo vệ môi trường sửa đổi bổ sung tiếp tục được hồn
thiện, bổ sung, trình Quốc hội. Năm 2017, Thủ tướng chính phủ đã ký phê duyệt
Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển
bền vững với 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể tương ứng với các mục
tiêu phát triển bền vững của toàn cầu. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng khẳng định nhận thức về bảo vệ môi trường được nâng lên,
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này,
hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức của thế
giới trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, văn kiện Đại hội
XII cũng thẳng thắn nhìn vào những yếu kém như: “Tài nguyên chưa được quản
lý, khai thác sử dụng có hiệu quả và bền vững; một số loại tài nguyên bị khai
thác q mức dẫn tới suy thối, cạn kiệt. Ơ nhiễm mơi trường tiếp tục gia tăng,
có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại
còn chậm. Đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn
ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe

skkn



của nhân dân. Chất lượng công tác dự báo và quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa
theo kịp yêu cầu phát triển, chưa đảm bảo tính tổng thể, tính liên ngành liên
vùng; chưa rõ trọng tâm trọng điểm và nguồn lực thực hiện”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Tại Việt Nam trong những năm gần đây, có thể cảm nhận được sức tàn phá
khủng khiếp của thiên tai, sự khốc liệt, cực đoan, bất thường của thời tiết ngày
càng không theo quy luật mà nguyên nhân một phần do sự ô hiễm môi trường
gây nên. Có thể nói, chất lượng mơi trường Việt Nam hiện tại đang ở tình trạng
báo động. Tài nguyên rừng cạn kiệt, tài nguyên đất suy thoái, tài nguyên biển
suy kiệt, mơi trường đất, nước, khơng khí ơ nhiễm nặng, dân số tăng nhanh và
phân bố không đều đã gây sức ép q lớn đơi với mơi trường. Ơ nhiễm mơi
trường khơng khí khiến một số thành phố ơ nhiễm bụi tới mức trầm trọng; chất
thải giao thông, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, các hoạt động dịch vụ, sinh
hoạt của con người đã đưa môi trường tới mức báo động. Ơ nhiễm mơi trường
nước mà ngun nhân do nhu cầu nước dùng cho công nghiệp, nông nghiệp, và
sinh hoạt tăng nhanh, nguồn nước bị ô nhiễm, nạn chặt phá rừng, sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật....Nhất là việc quản lí chất thải rắn chưa tốt như hiệu quả thu
gom thấp, hiệu quả xử lí chưa đạt yêu cầu, chưa có phương tiện đầy đủ và thích
hợp để xử lí chất thải nguy hại.
Quảng Hùng là một xã ven biển, nghề nghiệp chính là nơng nghiệp và ngư
nghiệp cũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường. Chất thải nông nghiệp, dư
lượng thuốc bảo vệ thực vật đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường địa
phương. Đặc biệt là vào các thời điểm chăm bón hoặc thu hoạch mùa màng thì
việc xả một lượng rác thải ra mơi trường làm ô nhiễm không khí, nguồn nước,
làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân. Đặc biệt hoạt động ngư
nghiệp làm cho môi trường biển bị ảnh hưởng và ô nhiễm bởi rác thải từ thủy
hải sản.
Trường THCS Quảng Hùng nằm trên trục đường Tây Nam, thuộc thôn 3,
dân cư đơng đúc, lại gần chợ, Vì vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường là không tránh

khỏi. Số lượng cây xanh trong sân trường nhiều nhưng vẫn chưa đảm bảo bóng
mát và mơi trường trong lành cho học sinh vì diện tích khn viên nhà trường
rộng. Ý thức của người dân và học sinh về môi trường và bảo vệ môi trường
chưa cao. Hầu hết cha mẹ các em HS đều làm nghề nông, buôn gánh bán bưng,
và lao động phổ thông như: thợ nề, thợ mộc, thợ rèn , làm thuê… Đời sống của
đại đa số gia đình các em rất khó khăn, nhiều em thuộc diện gia đình hộ nghèo,
cận nghèo; Vì thế các em chưa được gia đình quan tâm một cách đúng mức về
việc học tập cũng như rèn luyện hạnh kiểm. Chưa nói đến việc ngay bản thân
nhiều bậc phụ huynh cũng chưa có nhận thức đúng mức về bảo vệ môi trường.
Đa số học sinh đã được giáo dục bảo vệ môi trường, thế nhưng qua khảo sát,
theo dõi tơi nhận thấy vẫn cịn nhiều học sinh do nhận thức bảo vệ môi trường
sống chưa cao nên hầu hết các em còn bộc lộ rất nhiều hành vi có tác động xấu
đến mơi trường như: khạc nhổ bừa bãi, vứt rác tứ tung, đi tiêu, đi tiểu không
đúng nơi quy định, chạy chân đất, chơi nhiều trò chơi mất vệ sinh như hốt cát

skkn


ném nhau; trèo cây, bẻ cành, giẫm đạp lên cây trồng, thảm cỏ,... Không tôn
trọng, bảo vệ tài sản của công, vẽ bậy trên tường, bảng, bàn ghế... Tham gia lao
động vệ sinh ở trường với thái độ thờ ơ, bắt buộc, chưa biết gìn giữ an tồn
trong lao động vệ sinh, không đeo khẩu trang, đùa nghịch bằng dụng cụ lao
động. Ở nhà các em còn đi bắt chim, trong đó có các loại có ích như chim sâu,
chưa có ý thức bảo vệ cây trồng trong vườn nhà, đường thơn, lối xóm. Một số
gia đình của các em học sinh nghèo cịn sử dụng bao ni- lơng để đựng thức ăn,
nhất là thức ăn nóng, sử dụng than tổ ong để nấu, cám heo hằng ngày, đánh bắt
cá bằng hóa chất,...
Từ thực trạng nêu trên, tơi ý thức được rằng trách nhiệm của giáo viên chủ
nhiệm trong việc giáo dục bảo vệ môi trường cho các em là rất lớn, rất cần thiết
và cấp bách.

Để đánh giá đúng thực trạng của vấn đề, tôi đã sử dụng phiếu khảo sát học
sinh như sau:
Phiếu khảo sát nhận thức học sinh về bảo vệ mơi trường sống:
Họ và tên:.....................................................................................
TT
1
2
3
4
5

6
7
8
9

Câu hỏi



Con người có thể sống khoẻ mạnh ở
những nơi khơng khí thiếu trong lành
được khơng?
Có cần phải tiết kiệm và giữ gìn nguồn
nước đang sử dụng hằng ngày khơng?
Trồng và bảo vệ cây xanh có phải là
việc làm góp phần bảo vệ môi trường
trong sạch hay không?
Chất thải từ các nhà máy có gây tác hại
cho mơi trường sống của con người hay

khơng?
Những hành vi như đào bới khống
sản, chặt phá rừng, săn bắt mn thú
bừa bãi có phải là hành vi phá hoại môi
trường hay không?
Diệt ruồi muỗi, các con vật có hại có
phải là hành vi bảo vệ mơi trường hay
khơng?
Sự gia tăng dân số nhanh có ảnh hưởng
đến môi trường tự nhiên hay không?
Bảo vệ môi trường sống có phải là
nhiệm vụ của học sinh hay khơng?
Học sinh có nên làm những việc gây ơ

skkn

Khơng

Lưỡng
lự


10
11

nhiễm mơi trường khơng?
Để góp phần bảo vệ mơi trường, học
sinh có cần nghe đài, đọc sách, xem
phim ảnh về mơi trường hay khơng?
Nhà trường có nên u cầu học sinh

làm vệ sinh trường lớp thường xuyên
hay không?
Phiếu khảo sát về hành vi bảo vệ môi trường:

Họ và tên: .........................................................
Hành động

Can ngăn

Đồng tình

Muốn can Khơng có
ngăn nhưng phản ứng gì
ngại

Vứt rác ra đường
Phóng uế bừa bãi
Vẽ bậy lên tường
nơi cơng cộng.
Trồng cây
Diệt chuột, ruồi,
muỗi.
Kết quả khảo sát nhận thức học sinh về bảo vệ mơi trường sống:

TS
HS
39

Có ý thức
BVMT mức

tốt

Có ý thức
BVMT mức khá

SL

TL

SL

4

10%

7

TL
18%

Có ý thức
BVMT mức
TB
SL
8

TL

Chưa có ý thức
BVMT

SL

20,5% 20

TL
51,5%

 Kết quả khảo sát về hành vi bảo vệ môi trường:

Tổng
số HS
39

Hành vi tốt

Hành vi xấu

Bảo vệ môi trường

Bảo vệ môi trường

SL

TL

SL

TL

11


28%

29

72%

Từ thực trạng nêu trên, nhất là từ thực tế của học sinh, tôi đã đưa ra những
giải pháp cơ bản, phù hợp để giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường tại
trường THCS Quảng Hùng.

skkn


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Trên cơ sở thực tế tìm hiểu, điều tra, thu thập thông tin, sau thời gian
nghiên cứu, áp dụng thực tiễn tại trường, tôi đã rút ra những giải pháp cơ bản
nhằm giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường như sau:
Giải pháp 1: Tuyên truyền cho học sinh hiểu về tác hại của việc ô nhiễm
môi trường.
Tôi nhận thấy muốn giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường, trước hết
phải cho các em thấy được tầm quan trọng của môi trường và hậu quả khôn
lường của việc ô nhiễm môi trường. Bởi vậy tôi đã tuyên truyền đến học sinh
những thông tin thực tế để các em có cái nhìn tồn diện về mơi trường và hậu
quả nghiêm trọng của việc ô nhiễm môi trường hiện nay. Căn cứ vào các văn
bản hướng dẫn của các cấp, các ngành về bảo vệ môi trường, tơi sưu tầm thêm
tài liệu, tranh ảnh  có nội dung về chủ đề  môi trường để tuyên truyền đến tất cả 
các em học sinh. Hoạt động này tôi tiến hành bằng hình thức cho học sinh trao
đổi, thảo luận vào thời gian sinh hoạt mười lăm phút đầu giờ. Tôi đưa ra các
thơng tin để học sinh suy nghĩ, trình bày hiểu biết hoặc đặt ra vấn đề để các em

phản biện. Cụ thể là cho các em biết được những nội dung sau:
Ngày nay, con người đang tàn phá tự nhiên một cách nghiêm trọng, làm
thay đổi tính chất và gây ra suy giảm mơi trường. Chính rác thải sinh hoạt, rác
thải nhựa hay rác thải công nghiệp,… đã khiến cho vấn đề bảo vệ môi trường trở
nên vô cùng nan giải.  Ơ nhiễm mơi trường đã, đang và sẽ gây ra những hậu quả
vô cùng nguy hiểm với hệ sinh thái, sức khỏe và đời sống kinh tế, xã hội của con
người.
- Đối với sức khỏe con người:
Một trong những hậu quả nghiêm trọng nhất của ô nhiễm mơi trường đó là
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Việc khơng khí, mơi trường
đất hay mơi trường nước bị ô nhiễm đã khiến cho tỷ lệ người mắc các bệnh về
hô hấp, ung thư, vô sinh hay tim mạch tăng lên đáng kể. Công nghệ phát triển
khiến nhu cầu sử dụng những phương tiện hay công cụ để tối giản hóa cuộc
sống của con người tăng cao. Chính điều này đã góp phần làm gia tăng tỷ lệ
khói bụi trong khơng khí. Từ đây, mỗi ngày con người phải hít một lượng khói
bụi ơ nhiễm lớn (đặc biệt là bụi mịn), tạo nên gánh nặng cho phổi và đường hơ
hấp. Ơ nhiễm mơi trường khiến phổi dễ bị hư hỏng, làm trầm trọng các triệu
chứng từ những người bị hen suyễn, suy hô hấp, viêm phế quản hay hơ hấp khí
phế thũng. Bằng chứng là trong những nghiên cứu của nhiều năm gần đây, trẻ
em sống ở khu vực ơ nhiễm có tỷ lệ mắc bệnh hen suyễn nhiều hơn so với các
khu vực khác. Người dân sống ở khu vực thành phố đông dân, nhiều rác thải và
khói bụi giao thơng,… có tỷ lệ mắc bệnh hơ hấp nhiều hơn nông thôn nhiều lần.
Không dừng lại ở những tác động xấu đến đường hô hấp, hậu quả của ô
nhiễm môi trường cũng làm tăng nguy cơ ung thư cho con người. Thử tưởng
tượng đến việc ngày nào bạn cũng phải “thưởng thức” những món ngon được
chế biến từ rau củ nhiễm thuốc trừ sâu, động vật sống từ môi trường ô nhiễm,

skkn



nước nhiễm chất độc hóa học? Chắc chắn sẽ khơng có một cơ thể nào có thể
chịu đựng nổi. Theo nghiên cứu của Cơ quan Nghiên cứu quốc tế về Ung thư
(thuộc Tổ chức Y tế thế giới WHO) đã tìm thấy những tài liệu chứng minh rằng
ơ nhiễm khơng khí là nguyên nhân chính dẫn đến ung thư bàng quang. Theo kết
quả nghiên cứu, có hơn 10.000 người ở Anh được chẩn đoán ung thư bàng
quang mỗi năm, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do nhiễm chất độc trong
khơng khí bị ơ nhiễm. Tại Việt Nam ta, hàng năm đa số các ca bệnh được chẩn
đoán mắc ung thư dạ dày, ung thư máu, ung thư gan,… đều có nguyên nhân từ
việc ăn uống các thực phẩm nhiễm bẩn từ môi trường. Tỷ lệ ung thư da nhiều
vượt trội vì tiếp xúc với mơi trường ơ nhiễm.
Tổ chức Y tế thế giới WHO coi ơ nhiễm khơng khí là nguyên nhân chính
dẫn đến 2 triệu ca tử vong sớm mỗi năm trên khắp thế giới. Ô nhiễm là thủ
phạm hàng đầu gây nên bệnh đau tim, trong đó cocain là yếu tố đe dọa đến sức
khỏe tiêu biểu. Theo báo cáo mà WHO công bố năm 2010, ô nhiễm môi trường
bởi các chất độc hại gây nên 530.000 ca tử vong do đau tim.
Ngồi đau tim, ơ nhiễm khơng khí cịn gây nên tình trạng tắc nghẽn phổi
mãn tính, nhiễm trùng phổi và ung thư phổi. Một số thành phần như nitrogen
dioxide, ozone, carbon monoxide, sulfur dioxide,… tồn tại trong khơng khí ơ
nhiễm là ngun nhân phá hủy mạch máu trong cơ thể người. Bụi siêu mịn tồn
tại trong khí thải diesel có kích thước bằng virus, chính vì thế rất dễ dàng đi qua
phổi để xâm nhập vào máu. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng viêm cục bộ
trong mạch máu, gây ra xơ vữa động mạch, làm tắc mạch máu, đau tim, suy tim
và loạn nhịp tim.
- Đối với hệ sinh thái:
Môi trường ô nhiễm gây nên sự rối loạn trong điều tiết hệ sinh thái. Hệ sinh
thái là khu vực là các quần thể sinh sống và tương tác với nhau. Tuy nhiên trong
điều kiện ô nhiễm, sự tương tác này sẽ bị thay đổi, gây nên những tác động xấu
đến hệ sinh thái.Mối đe dọa trực tiếp đối với hệ sinh thái chính là ơ nhiễm khơng
khí. Ơ nhiễm khơng khí có thể dẫn tới mưa axit và huỷ diệt toàn bộ các rừng.
Mặc dù không dẫn tới tuyệt chủng nhưng việc cây cối bị chết sẽ dẫn tới cấu trúc

loài bị giảm, gây nên tuyệt chủng ở nhiều loài trên thế giới.
-

Đối với kinh tế - xã hội:

Ơ nhiễm mơi trường gây nên nhiều tác động xấu đến kinh tế và xã hội. Ô
nhiễm gây thiệt hại về kinh tế do con người mắc nhiều bệnh tật, gây ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng nông sản và thủy sản. Khi yếu tố vật lý, hóa học của
mơi trường bị thay đổi, kinh tế bị thiệt hại khi phải cải thiện môi trường. Ngồi
ra, mơi trường bị nhiễm bẩn cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động du
lịch – mua sắm của con người.
Như vậy, sau khi được tuyên truyền về những tác hại mà ô nhiễm môi
trường gây nên, tôi đã tiến hành khảo sát nhanh học sinh bằng hình thức vấn đáp
như sau:
- Các em thấy ô nhiễm môi trường có đáng sợ khơng?

skkn


- Hậu quả mà ô nhiễm môi trường gây ra có lớn khơng?
- Ơ nhiễm mơi trường đã ảnh hưởng như thế nào đến đời sống con người và
hệ sinh thái?
- Em sẽ làm gì để bảo vệ mơi trường?....
Qua việc trả lời nhanh, tôi nhận thấy các em đã bắt đầu nhận thức đúng đắn
về tầm quan trọng của môi trường đối với đời sống con người. Hiểu được những
tác hại của ô nhiễm môi trường đã hướng đến đời sống ra sao để từ đó có ý thức
bảo vệ môi trường. Các em đã liên hệ đến thực tế mơi trường đang sống để nói
lên những hiểu biết của mình về ơ nhiễm mơi trường như: rác ứ đọng ở các dịng
kênh, mương gần nhà, gây mùi hơi thối, làm bẩn nguồn nước, ảnh hướng đến
việc tưới tiêu cho hoa màu của gia đình và người dân trong thơn xóm…. Như

vậy, giải pháp tun truyền kiến thức về ô nhiễm môi trường và tác hại của ô
nhiễm môi trường mà tơi đưa ra đã có kết quả đáng mừng. Nhận thức của học
sinh đã nâng lên rõ rệt. Đây là bước khởi điểm tốt cho việc giáo dục ý thức bảo
vệ môi trường ở các em.
Giải pháp 2: Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về mơi
trường.
Để các em có thể thực hành tốt các kỹ năng, trước hết các em phải được
trang bị những kiến thức cơ bản làm nền tảng. Chỉ khi nào học sinh hiểu rõ, hiểu
đúng và hiểu đầy đủ về lý thuyết thì việc vận dụng thực tế mới đúng và hiệu
quả. Do vậy việc đầu tiên tôi giúp các em có được những kiến thức cơ bản về
chủ đề đang giáo dục. Hoạt động này tôi đã thực hiện thơng qua hình thức đưa
ra hệ thống câu hỏi để học sinh tự tìm hiểu rồi viết bài trả lời và nộp về cho giáo
viên, sau đó giáo viên tổ chức cho các em trao đổi, bổ sung, điều chỉnh trong
những giờ ngoại khóa, tiết sinh hoạt lớp cuối tuần. Hoặc có những hơm tơi đưa
bài viết để ban cán sự lớp đọc vào 15 phút đầu giờ mỗi ngày, sau đó để các em
tự trao đổi, thảo luận cùng nhau.
Cụ thể tôi đã hướng dẫn, cung cấp kiến thức để các em hiểu được những
khái niệm cơ bản sau:
Môi trường là gì? “Mơi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật
chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng
tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.” (Theo
Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam). Môi trường theo nghĩa rộng là
tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con
người, như tài ngun thiên nhiên, khơng khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan,
quan hệ xã hội…Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên
nhiên, mà chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất
lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của học sinh gồm nhà trường với
thầy giáo, bạn bè, nội quy của trường, lớp học, sân chơi, phịng thí nghiệm, vườn
trường, tổ chức xã hội như Đồn, Đội với các điều lệ hay gia đình, họ tộc, làng
xóm với những quy định khơng thành văn, chỉ truyền miệng nhưng vẫn được

công nhận, thi hành và các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp, nghị định,
thơng tư, quy định. Tóm lại, mơi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho
ta cơ sở để sống và phát triển.

skkn


Mơi trường có những chức năng cơ bản nào? Mơi trường là khơng gian
sống của con người và các lồi sinh vật, là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho
cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người. Môi trường là nơi chứa đựng
các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của
mình, là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh
vật trên trái đất. Đồng thời là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
Con người luôn cần một khoảng không gian dành cho nhà ở, sản xuất lương
thực và tái tạo mơi trường. Con người có thể gia tăng khơng gian sống cần thiết
cho mình bằng việc khai thác và chuyển đổi chức năng sử dụng của các loại
không gian khác như khai hoang, phá rừng, cải tạo các vùng đất và nước mới.
Việc khai thác quá mức không gian và các dạng tài nguyên thiên nhiên có thể
làm cho chất lượng khơng gian sống mất đi khả năng tự phục hồi.
Bảo vệ môi trường là việc của ai? Bảo vệ môi trường là những hoạt động
giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân
bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên
nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên. Nhà nước bảo vệ lợi ích quốc gia về tài ngun và mơi trường,
thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong cả nước, có chính sách đầu tư, bảo
vệ mơi trường, có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo, nghiên
cứu khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức khoa học và pháp luật về bảo vệ
môi trường. Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam ghi rõ trong Điều 6: “Bảo vệ
mơi trường là sự nghiệp của tồn dân. Tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm
bảo vệ mơi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường, có quyền và có

trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường“.
Phải làm gì để bảo vệ mơi trường? Để bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ
Môi trường của Việt Nam nghiêm cấm các hành vi sau đây:
- Đốt phá rừng, khai thác khống sản một cách bừa bãi, gây huỷ hoại
mơi trường, làm mất cân bằng sinh thái;
- Thải khói, bụi, khí độc, mùi hơi thối gây hại vào khơng khí; phát
phóng xạ, bức xạ quá giới hạn cho phép vào mơi trường xung quanh;
- Thải dầu, mỡ, hố chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho phép,
các chất thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại và gây dịch
bệnh vào nguồn nước;
- Chôn vùi, thải vào đất các chất độc hại quá giới hạn cho phép;
- Khai thác, kinh doanh các loại thực vật, động vật quý hiếm trong danh
mục quy định của Chính phủ;
- Nhập khẩu cơng nghệ, thiết bị khơng đáp ứng tiêu chuẩn môi trường,
nhập khẩu, xuất khẩu chất thải;
- Sử dụng các phương pháp, phương tiện, công cụ huỷ diệt hàng loạt
trong khai thác, đánh bắt các nguồn động vật, thực vật.
Ơ nhiễm mơi trường là gì? Theo Luật Bảo vệ Mơi trường của Việt Nam:“Ơ
nhiễm mơi trường là sự làm thay đổi tính chất của mơi trường, vi phạm Tiêu
chuẩn môi trường“. Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển

skkn


các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến
sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng
môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải),
lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học
và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.Tuy nhiên, môi trường chỉ được
coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân

trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
Như vậy tôi đã nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho các em bằng việc
cung cấp những hiểu biết cơ bản cũng như những việc làm cần thiết để bảo vệ
môi trường. Hiểu biết về đối tượng chính là nền tảng để phát triển ở các em
những kỹ năng, hành động, việc làm có ý nghĩa. Giải pháp này sau khi tôi áp
dụng đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Học sinh khơng những có kiến thức về mơi
trường mà cịn thấy được trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ môi trường
xanh, sạch đẹp. Các em đã tự đưa ra những việc làm cụ thể, những hành động
thiết thực mà bản thân có thể làm để góp phần bảo vệ mơi trường. Đặc biệt học
sinh đã hoàn toàn tự giác tham gia vào việc giữ gìn vệ sinh trường lớp như vứt
rác đúng nơi qui định, khơng xã rác bừa bãi, chăm sóc cây xanh, tích cực qt
dọn vệ sinh lớp học và khn viên nhà trường. Nhất là việc các em tự nhắc nhở
nhau thực hiện những việc làm tốt để môi trường thêm sạch đẹp.
Giải pháp 3: Tổ chức các hoạt động thực tế cho học sinh.
Từ nền tảng ban đầu như đã nêu trên là trang bị cho học sinh kiến thức cơ
bản về môi trường, tôi đã tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động cụ thể
bảo vệ môi trường tại trường học hoặc tại cộng đồng dân cư. Cụ thể là các hoạt
động sau:
Vệ sinh trường lớp sạch đẹp.
Lớp học là ngôi nhà thứ hai của các em, hàng ngày đến lớp các em như
được sống trong ngôi nhà thân u của mình. Song để lớp học ln sạch – đẹp,
tôi thường xuyên tổ chức cho các em tham gia các hoạt động giữ gìn vệ sinh lớp
học bằng các hình thức như: trang trí lớp học phù hợp với không gian của lớp để
tạo một không gian thoáng, mát, sạch, đẹp; quyét lớp, lau bàn ghế, sắp xếp bàn
ghế gọn gàng, ngăn nắp. Ngồi ra tơi cịn đặt một thùng rác ở góc cuối lớp để
khi các em tháy mẩu rác, giấy loại...thì tự giác nhặt bỏ vào thùng rác và đổ đúng
nơi qui định. Phân công các tổ làm công tác trực nhật lớp hàng ngày nhằm tạo
cho các em thói quen giữ gìn vệ sinh lớp học. Đồng thời phân cơng cho các tổ,
nhóm chăm sóc cây xanh, bồn hoa trước cửa lớp để tạo khơng gian “ xanh” bên
ngồi lớp học, giúp các em ln có ý thức bảo vệ mơi trường.

Song để giáo dục ý thức gìn giữ gìn vệ sinh lớp học cho học sinh đạt hiệu
quả thì cơng tác kiểm tra, đánh giá cũng phải thực hiện thường xuyên bằng hình
thức theo dõi việc thực hiện của từng học sinh, của các tổ vào đầu mỗi buổi học,
giờ ra chơi do các tổ trưởng và ban cán sự lớp kiểm tra.
Qua theo dõi, tôi và ban cán sự lớp đã phát hiện ra gương người tốt, việc tốt
trong công việc giữ gìn vệ sinh lớp học và bảo vệ mơi trường. Tôi đã kịp thời

skkn


tuyên dương, khen thưởng và nêu gương trước tập thể lớp để động viên, khích lệ
các em làm tốt hơn nữa. Việc làm này đã đem lại hiệu quả đó là các em tích cực
hơn, làm tự giác hơn; đặc biệt lan tỏa đến bạn bè những hành động, việc làm tốt
trong việc gìn giữ và bảo vệ mơi trường.
Trồng và chăm sóc cây xanh, gìn giữ quang cảnh trường học.
Sân trường là nơi diễn ra các hoạt động vui chơi, giải trí, các hoạt động
ngoại khóa của học sinh. Bởi vậy quanh cảnh sân trường phải luôn đảm bảo
không gian xanh, sạch, đẹp.
- Với khu vực Cơng trình em chăm được giáo viên Tổng phụ trách bàn giao,
tôi tổ chức cho các em trồng cây hoa, cây cảnh và cỏ để tạo một khơng gian
xanh. Sau đó tơi phân công lịch hàng ngày trong tuần cho các tổ chăm sóc như:
tưới nước ( nhất là trời nắng), cắt tỉa cành khô, nhổ cỏ dại, nhặt lá, nhặt rác …và
đổ rác đúng nơi qui định.Hoạt động này giao cho Ban cán sự lớp nhắc nhở, theo
dõi và chấm điểm thi đua hàng tuần.
- Với khu vực sân trường: Ngay từ đầu năm học, được Liên Đội bàn giao
khu vực quét dọn vệ sinh hàng ngày, tôi đã tiến hành phân chia lịch hàng tuần
như sau:
Thứ 2, 3

Thứ 4,5


Thứ 6,7

Tổ 1

Tổ 2

Tổ 3

Điểm

Chỉ trong một thời gia ngắn, các em học sinh đã ý thức được việc bảo vệ
môi trường và có thói quen tham gia các hoạt động để giữ gìn vệ sinh sân trường
ln sạch sẽ. Hàng ngày các em đều thay phiên nhau tưới nước, chăm sóc những
cây thuộc khu vực Cơng trình em chăm; mỗi khi nhìn thấy những mẩu giấy loại
trong sân trường các em đều tự tay nhặt và bỏ vào thùng rác; tích cực tham gia
các buổi lao động dọn vệ sinh sân trường theo kế hoạch của giáo viên phụ trách
lao động.
Để thực hiện tốt việc giữ gìn khn viên trường học, cứ đến thứ sáu hàng
tuần, vào buổi sinh hoạt lớp, tôi ln biểu dương những học sinh có ý thức tham
gia giữ gìn vệ sinh trường lớp sạch sẽ, có ý thức bảo vệ mơi trường. Ngồi ra, tơi
cịn nhắc nhở học sinh chưa thực hiện tốt để các em cố gắng tham gia thực hiện
tốt hơn trong thời gian tới.
Vệ sinh nguồn nước
Trong đời sống con người, nước giữ một vai trị vơ cùng quan trọng.
Khơng chỉ phục vụ sinh hoạt hồng ngày mà nước cịn là một nguồn năng lượng
cho nông nghiệp, công nghiệp. Thế nhưng hiện nay nguồn nước cũng bị ô nhiễm
do con người xả rác, nước thải sinh hoạt, nước thải trong các nhà máy không
qua xử lí nguồn nước...Để giữ vệ sinh nguồn nước, tơi đã hướng dẫn, nhắc nhở
các em phải có ý thức giữ gìn nguồn nước ở nhà, ở trường và ở nơi công cộng.

Đối với nguồn nước uống. Nhà trường đã lắp đặt hệ thống nước lọc tới

skkn


từng phòng học, phục vụ nước uống hàng ngày cho các em. Song ban đầu các
em chưa ý thức trong việc sử dụng. Nhiều em còn sự dụng bừa bãi, uống ít
nhưng vặn nhiều rồi đổ vừa gây mấy vệ sinh, vừa gây lãng phí nước. Thế nên,
ngay lập tức tôi đã quán triệt và hướng dẫn các em sử dụng hợp lí: uống đâu thì
vặn đó vừa đủ khơng đổ bừa bãi, khơng gây lãng phí. Đặc biệt vẫn giao cho cán
sự lớp theo dõi để xử lí kịp thời những trường hợp vi phạm.
Đối với nguồn nước sinh hoạt. Nhà trường đã xây bể nước và lắp đạt hệ
thống vòi nước và bơm nước lên để phục vụ các em rửa tay, chân sau mỗi buổi
lao động, sau giờ ra chơi, dùng để tưới hoa, tưới cây, lau nền phịng học của các
lớp....Song để giữ gìn vệ sinh nguồn nước ở trường, tôi đã quán triệt tất cả các
em không tự ý xả nước khi không cần thiết, khơng dẫm lên vịi nước, khơng vứt
rác vào bể nước và khu vực ngồi bể nước, đồng thời phải khóa vòi nước mỗi
khi dùng xong.
Tuy nhiên để tạo cho các em thói quen giữ gìn vệ sinh nguồn nước, tơi
phân cơng các tổ trưởng cùng ban quản lí lao động của lớp theo dõi học sinh
trong lớp mỗi khi các em lấy nước để dùng, qua đó sẽ phát hiện ra những học
sinh chưa có ý thức tham gia giữ gìn vệ sinh nguồn nước để kịp thời nhắc nhở,
uốn nắn các em thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.
Giữ gìn khu vực nhà vệ sinh.
Có thể nói khu vực nhà vệ sinh học sinh là nơi rất dễ xảy ra tình trạng ơ
nhiễm, mất vệ sinh. Do vậy việc giáo dục học sinh ý thức giữ gìn vệ sinh nơi
nhà vệ sinh là vô cùng quan trọng. Nhà trường đã xây dựng khu nhà vệ sinh
dành riêng cho giáo viên và học sinh. Song để giữ gìn khu vực nhà vệ sinh, vào
mỗi buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ hay tiết sinh hoạt cuối tuần, tôi luôn nhắc
nhở các em phải đi vệ sinh đúng nơi qui định, đi vào khu vực vệ sinh dành cho

học sinh. Nhắc nhở các em không nên bôi bẩn, vẽ bậy lên tường nhà vệ sinh, dội
nước sạch sẽ sau mỗi lần đi đại tiện, tiểu tiện; luôn nhắc nhở các em rửa tay sạch
sẽ sau mỗi lần đi vệ sinh để giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Không những thế, tơi
cịn đưa ra biện pháp nhằm khuyến khích các em tham gia vào việc giữ gìn khu
vực nhà vệ sinh bằng cách nếu học sinh nào nhìn thấy các bạn trong lớp hoặc
các bạn ở lớp khác đi vệ sinh khơng đúng nơi qui định thì báo cho giáo viên chủ
nhiệm hoặc báo cho giáo viên tổng phụ trách Đội để có biện pháp giáo dục các
em thực hiện tốt hơn. Ngồi ra, tơi cịn trang bị thêm các chất tẩy rửa cần thiết
để các em chủ động vệ sinh khu vực này. Với cách làm này đã rèn cho các em
học sinh thói quen đi vệ sinh đúng nơi qui định, vì vậy mà khơng cịn tình trạng
học sinh đi vệ sinh bừa bãi.
Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh giữ vệ sinh nhà ở và nơi công cộng.
Thơng qua các hoạt động như viết bài tìm hiểu, cung cấp kiến thức, thực
hành…đã giáo dục học sinh ý thức bảo vệ mơi trường trong lớp học nói riêng và
tồn bộ mơi trường học đường nói chung. Thế nhưng, quĩ thời gian các em ở
nhà và ngoài xã hội là rất lớn. Vì vậy bản thân tơi khơng chỉ giáo dục học sinh
biết giữ vệ sinh môi trường học đường, mà cần đặc biệt quan tâm tới những hoạt

skkn


động cụ thể trong việc giữ vệ sinh nhà ở và ngoài cộng đồng. Làm như vậy sẽ
tạo ra được sự thống nhất trong hành động và rèn luyện thói quen cho các em
giữ gìn vệ sinh mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt là trong tình hình dịch bệnh Covid của
vài năm gần đây thì cơng việc vệ sinh nhà ở cũng như vệ sinh cá nhân, vệ sinh
môi trường sống lại càng trở nên cần thiết. Cụ thể tôi đã hướng dẫn các em như
sau:
- Đối với việc vệ sinh nhà ở.
Gia đình là nơi các em tập trung diễn ra các hoạt động ăn uống, ngủ nghỉ,
học tập và sinh hoạt. Vì vậy tơi đã phân tích cho các em hiểu được việc làm sạch

môi trường tại gia đình vơ cùng cần thiết. Hướng dẫn các em từ việc sắp xếp
gọn gàng đồ dùng sinh hoạt, học tập, đồ dùng cá nhân….Thường xuyên lau chùi
bàn nghế, giường tủ; đánh rửa cốc chén hàng ngày; tạo khơng gian thống mát,
nhiều ánh sáng và tập trung khơng khí trong lành. Tự giác vệ sinh phịng ngủ cá
nhân, góc học tập phải luôn gọn gàng….
Sau khi hướng các em nhũng việc cơ bản như vậy, tôi đã thường xuyên
nhắc lại vào các thời điểm thích hợp như sinh hoạt mười lăm phút đầu giờ, sinh
hoạt lớp để học sinh thấy được sự sát sao của giáo viên mà tự giác, tích cực hơn.
Với hoạt động này tôi đã kiểm tra kết quả thơng qua việc trao đổi với phụ huynh
hoặc có thể trực tiếp đến thăm tại gia đình một số trường hợp cần thiết. Nhưng
để việc làm này của học sinh ln được duy trì như một thói quen tốt tôi luôn
đánh giá, nhận xét và tuyên dương trước tập thể để khích lệ, động viên các em.
Thơng qua tìm hiểu từ bạn bè, từ trao đổi với phụ huynh đã cho thấy các em có
sự thay đổi rõ rệt từ nhận thức đến hành động. Các em đã tự giác làm tốt vệ sinh
cá nhân, vệ sinh nhà ở mà không cần ai nhắc nhở. Không những vậy, các em còn
lan tỏa, tuyên truyên đến người thân trong gia đình cùng làm, cùng thực hiện.
Hàng tuần tơi đã tun dương, khen ngợi các em rất nhiều nên các em càng cố
gắng làm tốt hơn nữa.
- Đối với nơi công cộng:
Để học sinh tự giác giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, trước hết tôi cho các
em hiểu được trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Giữ vệ sinh môi
trường sống không phải là trách nhiệm của riêng ai, cần phải sự chung tay góp
sức của mọi cá nhân, tổ chức, trong đó có học sinh. Từ sự nhận thức đó của học
sinh, tơi đã hướng dẫn các em từ những việc làm nhỏ nhất để có thể góp phần
bảo vệ mơi trường nơi cơng cộng. Cụ thể như: bỏ rác đúng nơi qui định khi đến
nơi công cộng, nhắc nhở người vứt rác bừa bãi, tham gia vào việc dọn vệ sinh
chung….
Quảng Hùng thuộc địa phận Thành phố du lịch Sầm Sơn nên việc làm
sạch môi trường Biển ln được các cấp chính quyền, các tổ chức quan tâm. Vì
vậy tơi cũng ln giáo dục các em phải chung tay góp sức làm sạch và giữ gìn

vệ sinh mơi trường biển, góp phần cùng Thành phố Sầm Sơn thực hiện mục tiêu
phát triển Sầm Sơn trở thành một đô thị du lịch biển văn minh, thân thiện. Để
đưa học sinh vào thực tế của hoạt động này, hàng năm nhà trường sẽ tổ chức cho

skkn


các em những đợt ra quân làm vệ sinh bờ biển địa phương, nhất là vào các dịp lễ
hoặc đón mùa du lịch. Sau mỗi đợt ra quân như vậy, tơi đã lồng ghép để phân
tích cho các em hiểu được mục đích, ý nghĩa của việc làm sạch mơi trường biển
nói riêng, làm sạch mơi trường nơi cơng cộng nói chung. Đặc biệt có sự đánh
giá, nhận xét, tuyên dương các trường hợp tích cực để động viên, khích lệ các
em làm tốt hơn nữa. Kết quả cho thấy, học sinh rất tích cực tham gia hoạt động
làm sạch bờ biển tại địa phương cũng như nơi công cộng nói chung. Điều này đã
được nhà trường và Liên đội ghi nhận và ngợi khen.
Giải pháp 5: Tổ chức tuyên truyền thơng qua hoạt động ngoại khóa.
Cùng với việc được trang bị đầy đủ kiến thức cơ bản về môi trường cho
học sinh, tôi đã tiến hành tổ chức cho các em hoạt động tuyên truyền thông qua
hoạt động ngoại khóa. Các hoạt động có thể tiến hành như hùng biện, triển lãm
tranh ảnh và khẩu hiệu, xây dựng hoạt cảnh ca nhạc.... Tuy nhiên vì thời gian
khơng nhiều nên chủ yếu các em hùng biện, vẽ tranh và tổ chức tuyên truyền
trong các giờ sinh hoạt lớp hay sinh hoạt dưới cờ.
Hùng biện
Thực tế tại lớp, tôi đã cho các em viết và thể hiện bài hùng biện theo từng
chủ đề, ứng với các hoạt động thực tế mà các em tham gia. Hoạt động này thật
sự đã thu hút các em tham gia với tinh thần hứng khởi và tập trung cao độ. Các
em được tham gia viết bài, được thể hiện khả năng hùng biện. Đặc biệt qua bài
hùng biện của các em đã đem lại hiệu quả cao trong mục đích tun truyền đến
đơng đảo học sinh trong lớp, trong trường, thậm chí lan tỏa tới các phụ huynh và
người dân địa phương.

Chẳng hạn bài hùng biện của em Lê Thị Như Quỳnh về chủ đề Bảo vệ
không gian xanh, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong thầy cô giáo và các bạn. Hoặc
bài hùng biện của em Phạm Thị Trang về chủ đề Bảo vệ ngôi nhà chung đã gây
xúc động và tác động tới ý thức bảo vệ môi trường của tất cả các bạn.
- Viết truyện, làm báo tường.
Trong hoạt động viết văn hay làm báo tường, học sinh thường được gợi ý
(hay yêu cầu) sáng tác những baì văn, thơ hay kể lại những câu chuyện theo một
chủ đề có sẵn. Đây là dịp để các em thu thập thông tin liên quan đến chủ đề Bảo
vệ môi trường và viết thành bài báo, truyện kể. Các sản phẩm có thể được biên
tập và trang trí thành một tờ báo tường, sổ tay hay một dạng tư liệu khác có thể
sử dụng trong truyền thông về bảo vệ môi trường. Ở hoạt động này, các em cịn
có thể phát huy nhiều kỹ năng khác như vẽ tranh, chụp ảnh để trình bày tờ báo
thêm hấp dẫn.
Với tập hợp các bài viết, câu chuyện tốt, tôi thường gợi ý hoặc giúp các
em trình bày lên báo tường hoặc sổ tay, từ đó trưng bày hay chia sẻ trong tồn
trường và tại thơn xóm mình. Đơn giản hơn, các bài viết có thể được đọc trên
loa phát thanh của trường trong giờ ra chơi. Kết quả là các em rất hào hứng tham
gia và đạt kết quả tốt. Các bài viết ngắn, các câu chuyện từ thực tế được các em
trình bày đã có tác dụng tuyên truyền tới bạn bè, góp phần nâng cao ý thức bảo

skkn


vệ môi trường cho học sinh trong lớp, trong trường.
- Sáng tác tranh ảnh.
Tranh ảnh là hình thức nghệ thuật đơn giản, quen thuộc với các em học
sinh, dễ dàng lồng ghép chủ đề Bảo vệ môi trường cũng như trong môn học Mỹ
thuật. Các em học sinh được yêu cầu vẽ tranh theo chủ đề, có thể là một tranh
đơn lẻ hoặc một chuỗi các tranh tạo nên một câu chuyện hay truyền tải một
thơng điệp.

Bên cạnh đó, tranh ảnh cũng có thể là tư liệu để các em kể chuyện. Hoạt
động này giúp các em kết nối lại các dữ kiện và hình ảnh quen thuộc mà các em
đã được học về môi trường, giúp các em hiểu kỹ và nhớ lâu hơn.
Những tranh vẽ đẹp hay câu chuyện hay đã được chia sẻ trong toàn
trường và tại thơn xóm thơng qua triển lãm, các sự kiện hay bản tin phát nhanh.
Thực tế khi tôi triển khai tại lớp thì các em đã vẽ nhiều bức tranh về các khía
cạnh khác nhau của mơi trường. Có em đã vẽ cảnh học sinh quyét dọn sân
trường, cảnh học sinh trồng và chăm sóc cây xanh; có em vẽ cảnh rác thải ngập
ở các dịng sơng....
Những hoạt động này là cơ hội để các em kết nối giữa lý thuyết với các
vấn đề thực tế về bảo vệ môi trường tại trường học và nơi các em sống. Kết quả
là không chỉ các em vẽ được những tranh đẹp, mà ý nghĩa hơn khi nội dung
tranh có ý nghĩa tuyên truyền về việc hãy chung tay bảo vệ môi trường.
Giải pháp 6. Vinh danh những tấm gương tốt.
Bất cứ hoạt động nào cũng thế, đã tổ chức thực hiện thì phải có kiểm tra
tống kết, đánh giá. Vì vậy, tơi đã kết hợp cùng giáo viên Tổng phụ trách đội để
tuyên dương, khen thưởng, vinh danh các em trước cờ trong những buổi sinh
hoạt tập thể hay lễ chào cờ đầu tuần. Dù chỉ là lời khen ngợi thôi, nhưng việc
làm này đã cho thấy hiệu quả rất lớn. Khi các em được tuyên dương, khen ngợi
trước toàn trường, các em rất tự hào và càng làm tốt hơn nữa việc nâng cao ý
thức bảo vệ môi trường. Đặc biệt hoạt động này đã có sự lan tỏa trong tồn
trường. Đó là sự thi đua giữa các học sinh với nhau, giữa các lớp với nhau; tất cả
điều đó đã làm nên sức mạnh tổng hợp trong hoạt động bảo vệ môi trường của
các em học sinh trường THCS Quảng Hùng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi áp dụng đề tài này vào học sinh trường THCS Quảng Hùng, từ
q trình thực hiện đề tài tơi đã thấy rõ được hiệu quả từ phía các em học sinh.
Trước hết, các em đã có một lượng kiến thức rất cơ bản về chủ đề Môi trường;
đặc biệt các em đã thực hành tốt các kỹ năng bảo vệ môi trường. Những sản
phẩm thực hành mà các em thực hiện được giới thiệu rộng rãi trong tồn trường,

có tác dụng tuyên truyền, phổ biến đến đông đảo học sinh. Ý thức bảo vệ môi
trường của học sinh đã nâng cao rõ rệt. Các em đã thể hiện ý thức đó từ nhận
thức cho đến hành động cụ thể.
Tôi đã khảo sát học sinh như sau:

skkn


Phiếu khảo sát về hành vi bảo vệ môi trường:
Họ và tên: ..............................................................................................................
Hành động

Can ngăn Đồng tình Muốn
can Khơng

ngăn nhưng phản ứng gì
ngại

Vứt rác ra đường
Phóng uế bừa bãi
Vẽ bậy lên tường nơi
công cộng.
Trồng cây
Diệt chuột, ruồi,
muỗi.
Với phiếu khảo sát này đã có 100% học sinh chọn đáp án là can ngăn và
đồng tình. So với khảo sát đầu năm khi cịn nhiều ý kiến lưỡng lự khơng muốn
can ngăn hay khơng có phản ứng gì. Như vậy nhận thức của các em về việc bảo
vệ môi trường đã được nâng lên ở mức độ tốt.
Kết quả khảo sát nhận thức học sinh về bảo vệ mơi trường sống:


TS HS
39

Có ý thức
BVMT mức
tốt

Có ý thức
BVMT mức khá

SL

TL

SL

25

64%

10

TL
%

Có ý thức
BVMT mức
TB
SL

4

Chưa có ý thức
BVMT

TL
%

SL
0

TL
0%

Kết quả khảo sát về hành vi bảo vệ môi trường trước và sau khi áp dụng
đề tài:
- Trước khi áp dụng đề tài:
Tổng
số HS
39

Hành vi tốt
Bảo vệ môi trường
SL
TL
11
28%

Hành vi xấu
Bảo vệ môi trường

SL
TL
29
72%

- Sau khi áp dụng đề tài:
Tổng
số HS
39

Hành vi tốt
Bảo vệ môi trường
SL
TL
37
%

skkn

Hành vi xấu
Bảo vệ môi trường
SL
TL
2
%


Từ kết quả khảo sát này cho thấy học sinh đã có ý thức cao trong việc bảo
vệ mơi trường. Đồng thời các em đã có được những việc làm thiết thực, hiệu quả
góp phần bảo vệ mơi trường nói chung và mơi trường học đường nói riêng.. Đây

là một kết quả đáng mừng cho học sinh.
Như vậy, bằng việc áp dụng các giải pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh tại trường THCS Quảng Hùng, tôi đã nhận thấy kết quả rõ
rệt trong nhận thức và kỹ năng thực hành của các em. Với kết quả này cho thấy
có thể áp dụng rộng rãi cho học sinh, nhằm phổ biến, tuyên truyền và giáo dục
các em kiến thức cơ bản để bảo vệ môi trường sống của chúng ta.
3.Kết luận, kiến nghị.
3.1.Kết luận:
Không thể tránh được tình trạng ơ nhiễm mơi trường nhưng chúng ta có
thể hạn chế tối đa những thiệt hại do ơ nhiễm môi trường gây ra bằng việc nâng
cao ý thức trách nhiệm của mỗi người, đặc biệt với đối tượng trẻ em. Đề tài Giải
pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh trường THCS Quảng
Hùng được nghiên cứu và áp dụng nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đưa
kiến thức về môi trường và bảo vệ mơi trường vào học đường. Bởi vì tầm quan
trọng của thông tin, truyền thông và giáo dục về bảo vệ môi trường cũng đã nêu
rõ trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XI kỳ
họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005. Nhiều trường học và tổ chức đã và đang
thực hiện các hoạt động đa dạng để nâng cao nhận thức và kỹ năng bảo vệ môi
trường. Học sinh được dạy về môi trường ở trên lớp, được học về bảo vệ môi
trường thơng qua các hoạt động ngồi trời, được tham gia các sự kiện để có cơ
hội tìm hiểu những kiến thức mới , thực hành và rèn luyện những kỹ năng cần
thiết. Những đề tài, những chương trình hoạt động hiệu quả rất cần được mở
rộng trong toàn trường, toàn cấp giúp cho giáo viên và học sinh có thể chủ động
tham gia vào việc bảo vệ môi trường.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tơi rút được những bài học kinh nghiệm
như sau:
- Giáo viên phải nghiên cứu, tìm hiểu, thu thập kiến thức, kỹ năng thiết
thực, cơ bản, có chọn lọc để cung cấp cho học sinh.
- Đa dạng các hình thức trang bị kiến thức cho học sinh. Tổ chức linh
hoạt, phong phú các biện pháp tuyên truyền, phổ biến kiến thức, tạo sức lôi

cuốn, hấp dẫn học sinh vào lĩnh lực này.
- Biết phối hợp cùng các đồn thể trong trường và các thầy cơ giáo bộ
môn khác để lồng ghép kiến thức về bảo vệ môi trường vào các môn học nhằm
nâng cao hiệu quả.
- Có kỹ năng tổ chức hoạt động ngoại khóa vừa nghiêm túc vừa sơi nổi,
tạo một sân chơi bổ ích cho các em học sinh.
Nói tóm lại, chất lượng giáo dục học sinh phụ thuộc nhiều vào sự nhiệt
huyết của giáo viên. Vì vậy, mỗi người giáo viên chúng ta cần cố gắng hết mình
để giáo dục con em trở thành những người con có ích cho xã hội.

skkn


Trên đây là một số kinh nghiệm về việc giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh. Do điều kiện thời gian có hạn nên đề tài sẽ không tránh
khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng
nghiệp
3.2. Đề xuất kiến nghị.
Trong khi thực hiện giải pháp này tơi có gặp một số khó khăn cho giáo
viên cũng như học sinh. Vì vậy tơi có một số kiến nghị sau:
- Cần phối hợp giữa giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, Ban giám
hiệu và cha mẹ học sinh để đa dạng các hình thức giáo dục kiến thức về bảo vệ
mơi trường.
- Nhà trường cần tạo điều kiện về thời gian các buổi hoạt động ngoại khóa
của học sinh một cách hợp lí để giáo viên có thể dễ dàng thực hiện các hoạt
động giáo dục, phổ biến, tuyên truyền kiến thức về chủ đề này, tránh tình trạng
bị động về thời gian.
- Giáo viên cần chuẩn bị nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục
cho học sinh có tính khơi gợi sự hứng thú để học sinh có thể nắm bắt hiệu quả,
hấp dẫn, lôi cuốn.

- Nên đưa nội dung này vào chương trình dạy học để tạo sự đồng bộ trong
việc thực hiện cũng như hình thành ở học sinh thói quen, ý thức chủ động trong
việc bảo vệ mơi trường.
- Nhà trường tạo điều kiện về kinh phí để thực hiện các hoạt động được
thuận lợi và hiệu quả.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Sầm Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2022

Tôi xin cam đoan SKKN này hồn tồn
do tơi viết, khơng sao chép .
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Lê Thị Hà

skkn


Học sinh thi hùng biện: Bảo vệ môi trường

skkn


Học sinh làm vệ sinh khu vực rửa tay

skkn


Học sinh chăm sóc cây cảnh

skkn



Học sinh dọn vệ sinh khuôn viên nhà trường

skkn


Học sinh chăm sóc cây cảnh

skkn


Học sinh chăm sóc cây cảnh

skkn


Học sinh vệ sinh trần trường

skkn


×