Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Skkn kinh nghiệm góp phần hình thành một số kĩ năng nhận thức nội dung bài học trong sách giáo khoa cho đội tuyển học sinh giỏi qua việc dạy học chương iii việt nam từ năm 1945 đến năm 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.13 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM GĨP PHẦN HÌNH THÀNH MỘT
SỐ KĨ NĂNG NHẬN THỨC NỘI DUNG BÀI HỌC
TRONG SÁCH GIÁO KHOA CHO ĐỘI TUYỂN HỌC
SINH GIỎI QUA VIỆC DẠY - HỌC “CHƯƠNG III:
VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954”- CHƯƠNG
TRÌNH LỊCH SỬ LỚP 12 THPT

Người thực hiện: Nguyễn Văn Đạt
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Lịch sử

THANH HĨA NĂM 2022

skkn


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. Mở đầu

1


1.1. Lí do chọn đề tài.

1

1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Kinh nghiệm góp phần hình thành một số kĩ năng nhận thức nội dung
bài học trong sách giáo khoa cho đội tuyển học sinh giỏi qua việc
dạy - học “Chương III: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954”chương trình Lịch sử lớp 12 THPT.
2.3.1. Kĩ năng đọc và phát hiện kiến thức cơ bản trong nội dung bài học.
2.3.2. Kĩ năng tự lập dàn ý nội dung bài học.
2.3.3. Kĩ năng khai thác kênh hình trong bài học.
2.3.4. Kĩ năng liên hệ, so sánh nội dung giữa các mục trong một bài học
hoặc giữa các bài học thuộc các chương khác nhau.

2
2
2
2
2
3

2.3.5. Kĩ năng tự nêu vấn đề và giải quyết vấn đề khi nhận thức nội dung
bài học.
2.3.6. Kĩ năng củng cố kiến thức theo nội dung bài học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với

bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị.
- Kết luận.

skkn

3
4
5
6
10
12
13
14
15
15


- Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo.

16
17

Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm mà tác giả đã được Hội đồng
khoa học Ngành đánh giá từ loại C trở lên.
Phụ lục.

17


skkn


1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Việc phát triển
nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (năm 2013) về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu mục
tiêu đối với giáo dục phổ thông là “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, …
năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. Phát triển
khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.[2]
Theo mục tiêu trên của Đảng, thế hệ học sinh Việt Nam trong thời đại mới
được giáo dục và phát triển toàn diện. Bên cạnh việc phát triển trí tuệ, thể chất,
Đảng chú trọng việc phát triển khả năng sáng tạo, tự học. Chỉ thị số 800/CTBGDĐT ngày 24/8/2021 về thực hiện nhiệm vụ năm học 2021 – 2022 ứng phó
với dịch Covid-19, tiếp tục thực hiện đổi mới, kiên trì mục tiêu chất lượng giáo
dục và đào tạo của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nhấn mạnh: “Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ
yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng. [1]
Thực hiện chủ trương của Đảng và ngành Giáo dục, đồng thời, để thích ứng
với thực tiễn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, các trường phổ thơng trên cả
nước đã có nhiều nỗ lực trong việc khuyến khích học sinh tự học, tự trau dồi
kiến thức nhằm duy trì chất lượng giáo dục đại trà và cả chất lượng giáo dục mũi
nhọn, trong đó có cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
Là giáo viên đã nhiều năm phụ trách công tác bồi dưỡng học sinh giỏi mơn
Lịch sử, tơi nhận thấy, ngồi năng lực chun mơn, lịng nhiệt huyết của giáo
viên, ý thức tự học, tự tìm hiểu kiến thức của học sinh là một trong những yếu tố

quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động này. Tuy nhiên, ở bậc phổ thông
hiện nay, đa phần học sinh giỏi môn Lịch sử học một cách thụ động, “chỉ đâu
học đấy”, ít chủ động, sáng tạo. Từ việc tìm tài liệu cho đến cách đọc, cách ghi
chép, trích dẫn, xử lí thơng tin đọc được vẫn cịn hạn chế, lúng túng. Do đó, hiệu
quả của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi chưa cao.
Để nâng cao chất lượng giáo dục Lịch sử nói chung và chất lượng giáo dục
mũi nhọn môn Lịch sử nói riêng, yêu cầu cấp thiết là giáo viên cần dạy cách học
cho học sinh, nhất là cách tìm hiểu nội dung các bài học Lịch sử trong sách giáo
khoa; qua đó, hình thành ở các em năng lực học tập, lĩnh hội tri thức. Tuy nhiên,
chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về vấn đề này, đồng nghiệp, nhà
trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục.
Xuất phát từ thực tế trên, qua nhiều năm phụ trách công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Lịch sử, tơi muốn đóng góp “Kinh nghiệm góp phần hình thành
một số kĩ năng nhận thức nội dung bài học trong sách giáo khoa cho đội
tuyển học sinh giỏi qua việc dạy - học “Chương III: Việt Nam từ năm 1945
đến năm 1954”- chương trình Lịch sử lớp 12 THPT”.
1

skkn


1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần hình thành cho các em học sinh
giỏi môn Lịch sử một số kĩ năng để chủ động chiếm lĩnh kiến thức, qua đó, nâng
cao hiệu quả của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở bậc phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu, tổng kết vấn đề hình thành một số kĩ năng tìm hiểu nội
dung bài học trong sách giáo khoa cho đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử lớp
12 tại trường trung học phổ thông Tĩnh Gia 3.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Đề tài kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic trong nghiên cứu
các tài liệu phục vụ cho đề tài như: Phương pháp dạy học bộ mơn, chương trình
sách giáo khoa.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Đối với học sinh: Điều tra tình hình học tập của đội tuyển học sinh giỏi môn
Lịch sử thông qua việc kiểm tra viết, phỏng vấn.
Đối với giáo viên: Tìm hiểu cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên.
- Phương pháp thống kê, sử lí số liệu:
Tiến hành thống kê, sử lí số liệu về kết quả của cơng tác bồi dưỡng học sinh
giỏi tại trường Trung học phổ thông Tĩnh Gia 3 qua các năm học để so sánh, đối
chiếu hiệu quả của việc hình thành cho đội tuyển học sinh giỏi một số kĩ năng
tìm hiểu nội dung bài học trong sách giáo khoa, tạo cơ sở đưa ra những kết luận
khoa học.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo ở các cấp học đang tăng lên nhanh chóng cả về
số lượng và chất lượng, ở nhiều nước trên thế giới, các phương pháp dạy học
mới dựa trên quan điểm phát huy tính tích cực của người học, đề cao vai trò tự
học của trò, kết hợp với sự hướng dẫn của thầy đang được áp dụng rộng rãi.
Ở Việt nam, việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử hiện nay được thể
hiện qua nhiều tài liệu của Đảng mà tựu chung là phát huy tính chủ động, sáng
tạo của học sinh trong học tập. Trong tác phẩm “Sự nghiệp giáo dục trong chế
độ xã hội chủ nghĩa”, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh: “Dạy Sử cũng
như dạy bất cứ môn học nào, địi hỏi người giáo viên phải khơi dạy trí thông
minh… Làm sao ngay ở nhà trường, ta phải bắt buộc học sinh dùng trí thơng
minh, trí khơn, sử dụng suy nghĩ để hiểu biết rộng ra và nhờ đó đến lúc vào đời
mới phát huy được tài năng” 3.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
(năm 2013) cũng đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc

phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người
học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào
quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.” 2.
Như vậy, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương Đảng về đổi mới phương
pháp dạy học, cách dạy học nhồi nhét, áp đặt một chiều được thay thế bằng hoạt
động nhận thức chủ động của trị. Do đó, việc hình thành một số kĩ năng nhận
2

skkn


thức nội dung bài học Lịch sử cho học sinh nhằm phát huy tính chủ động học
tập, năng lực tư duy, thực hành của các em là yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất
lượng của hoạt động dạy học mơn Lịch sử, trong đó có hoạt động bồi dưỡng học
sinh giỏi.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Quán triệt chủ trương đổi mới phương pháp dạy học của Đảng và Nhà nước
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, trong quá trình
bồi dưỡng học sinh giỏi, nhiều giáo viên Lịch sử tâm huyết ở các trường phổ
thơng nói chung và trường trung học phổ thơng Tĩnh Gia 3 nói riêng ln cố
gắng tìm ra phương pháp dạy - học mới, phù hợp, lôi cuốn, gây hứng thú cho
học sinh, truyền đạt cho các em những kinh nghiệm tự học của bản thân như
kinh nghiệm ghi nhớ nội dung, sự kiện lịch sử.v.v. Tuy nhiên, hầu hết giáo viên
chưa chú ý xây dựng các kĩ năng tự nhận thức nội dung bài học trong sách giáo
khoa cho học sinh, do đó, chưa phát huy triệt để tính chủ động, sáng tạo của
người học. Qua trao đổi trực tiếp, tôi nhận thấy nhiều giáo viên nhận thức được
tầm quan trọng của việc hình thành các kĩ năng nhận thức nội dung bài học
trong sách giáo khoa cho học sinh nhưng do không tin vào khả năng, năng lực tự
chiếm lĩnh kiến thức của các em nên không đưa ra được các định hướng cần
thiết để hình thành cho học sinh những kĩ năng này. Do đó, hiệu quả cơng tác

bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử của một số giáo viên cịn thấp.
Về phía học sinh, các em tham gia đội tuyển học sinh giỏi mơn Lịch sử vì
u thích và có sở trường, năng lực đối với mơn học. Song, các em có hạn chế
là cách học thụ động, chỉ trông chờ vào sự truyền đạt kiến thức của giáo viên.
Một số em chủ động nghiên cứu nội dung bài học trong sách giáo khoa, nhưng
do chưa có kĩ năng tiếp cận với kiến thức nên hiệu quả nhận thức chưa cao.
Tuy nhiên, việc đối tượng học sinh giỏi mơn Lịch sử có hứng thú với mơn học,
có tinh thần ham học hỏi hơn so với đối tượng học sinh đại trà là một thuận lợi
cơ bản để giáo viên có thể tiến hành hướng dẫn cho các em một số kĩ năng tìm
hiểu nội dung bài học Lịch sử trong sách giáo khoa. Qua đó, phát huy năng lực
tự chủ trong học tập của các em.
Thực tế chứng tỏ, yếu tố quyết định kết quả của công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi không chỉ là năng lực chuyên mơn, nghiệp vụ và nhiệt huyết của giáo
viên mà cịn là khả năng tự học, tự nhận thức của học sinh. Do đó, để nâng cao
chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên cần hình thành cho học sinh một
số kĩ năng tìm hiểu nội dung bài học trong sách giáo khoa.
2.3. Kinh nghiệm góp phần hình thành một số kĩ năng nhận thức nội dung
bài học trong sách giáo khoa cho đội tuyển học sinh giỏi qua việc dạy - học
“Chương III: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954”- chương trình Lịch sử
lớp 12 THPT.
Cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và
can thiệp Mĩ (1945 – 1954) là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, là sự
tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện đất nước đã
có độc lập và chính quyền. Ngồi việc kế thừa, phát huy những yếu tố thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
3

skkn



chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954) cũng có những nét mới, đánh dấu
bước phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Chính Đảng Cộng sản. Việc hình thành những kĩ năng tự nhận thức nội
dung các bài học lịch sử thời kì 1945 – 1954 trong sách giáo khoa khơng chỉ
giúp học sinh rèn luyện phương pháp học tự thẩm thấu kiến thức mà còn giúp
các em phát triển kĩ năng tư duy liên hệ, so sánh, đối chiếu để thấy được những
điểm tương đồng cũng như sự phát triển của lịch sử dân tộc qua các thời kì.
Trong quá trình dạy học đội tuyển học sinh giỏi đối với nội dung “Chương
III: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954”, giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh hình thành một số kĩ năng nhận thức nội dung bài học trong sách giáo khoa
như sau:
2.3.1. Kĩ năng đọc và phát hiện kiến thức cơ bản trong nội dung bài học.
Khi học sinh tìm hiểu nội dung bài học trong sách giáo khoa, giáo viên có
thể hướng dẫn các em những yếu tố để nhận biết kiến thức cơ bản của bài học
như sau:
Thứ nhất, phát hiện và nắm vững những “từ khóa” quan trọng. Để hình
thành kĩ năng này, trước hết giáo viên giúp học sinh nhận thức được rằng trong
mỗi đoạn văn bản, có một từ hoặc một cụm từ mang tính chất là “từ khóa” thể
hiện nội dụng cơ bản hoặc chủ đề mà đoạn văn bản đang muốn truyền đạt. Khi
đọc nội dung bài viết trong sách giáo khoa, học sinh tìm ý chính, gạch chân
hoặc đánh dấu những “từ khóa” quan trọng đó rồi sắp xếp các ý thành nội dung
hoàn chỉnh. Làm được điều này các em sẽ dần chiếm lĩnh những kiến thức cơ
bản và trả lời được câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Ví dụ: Khi đọc nội
dung mục 1. “Nguyên nhân thắng lợi” của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp (thuộc mục IV, Bài 20), học sinh đọc toàn bộ nội dung của mục này, gạch
chân những cụm từ quan trọng: “sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng”, “đường lối
kháng chiến đúng đắn, sáng tạo”, “toàn quân, toàn dân”, “mặt trận dân tộc thống
nhất”, “lực lượng vũ trang ba thứ quân”, “hậu phương ”. Đó là các thuật ngữ nêu
lên những yếu tố chủ quan dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến. Tiếp theo,
học sinh tìm các ý để mở rộng cho từng nội dung. Ví dụ, để mở rộng nội dung

về vai trị của “tồn qn, tồn dân”, học sinh cần gạch chân các từ như “đoàn
kết”, “dũng cảm”, “cần cù”. Cuối cùng, học sinh sắp xếp những “từ khóa” thành
các ý chính.
Thứ hai, coi trọng phần vào bài ngay dưới tiêu đề bài học. Đây là phần tóm
tắt nội dung nội bài học. Do vậy, khi đọc phần tóm tắt này, học sinh sẽ có cơ sở
để xác định kiến thức cơ bản của bài học, đồng thời khái quát được tiến trình
phát triển của lịch sử.
Ví dụ, trong Bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946 – 1950)”, phần vào bài có nội dung như sau: Do thực dân
Pháp bội ước, từ ngày 19 – 12 – 1946, nhân dân ta đã bước vào cuộc kháng
chiến toàn quốc chống Pháp xâm lược (1946 – 1954) với niềm tin chiến thắng.
Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến (1946 – 1950), ta đã xây dựng lực
lượng mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài và bước đầu giành thắng lợi
quan trọng với chiến thắng Việt Bắc thu – đông năm 1947 và Biên giới thu –
4

skkn


đông năm 1950 1. Trong Bài 19 “Bước phát triển của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1953 – 1954)”, nội dung bài học được khái quát ngắn ngọn:
Bước sang giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1953, cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp , có sự giúp đỡ của đế quốc Mĩ được đẩy mạnh; lực lượng kháng
chiến của ta trưởng thành về mọi mặt, quân dân ta giành nhiều thắng lợi to lớn
và toàn diện, tiếp tục giữ vững quyền chủ động trên chiến trường 4.
Qua những đoạn văn bản vào bài này, học sinh nhận thức được cuộc kháng
chiến toàn quốc chống Pháp xâm lược (1946 – 1954) của nhân dân Việt Nam
phát triển qua những giai đoạn cơ bản, trong đó, từ năm 1946 đến năm 1950 là
giai đoạn chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài và bước đầu
giành những thắng lợi quan trọng, từ năm 1950 đến năm 1954 là giai đoạn quân

dân ta giành nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện trên các mặt, phát huy quyền chủ
động trên chiến trường chính để đi đến thắng lợi hoàn toàn mà đỉnh cao là Chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương năm 1954.
Thứ ba, chú ý những chữ in nghiêng trong bài học. Đó thường là những nội
dung quan trọng. Ví dụ, trong mục “III – Hậu phương kháng chiến phát triển
mọi mặt” thuộc Bài 19, các thuật ngữ “Về chính trị”, “Về kinh tế”, “Về văn
hóa, giáo dục, y tế” được in nghiêng để nhấn mạnh sự phát triển toàn diện trên
các mặt của hậu phương kháng chiến; trong mục “3. Thời kì 1945 – 1954” thuộc
mục I (Bài 27), các thuật ngữ “Kháng chiến”, “Kiến quốc” được in nghiêng để
nhấn mạnh hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kì này.
Thứ tư, các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa cũng gợi ý cho học sinh
xác định kiến thức cơ bản của nội dung bài học. Ví dụ, trong Bài 17 “Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946”, bài
tập thứ hai “Đảng và Chính phủ cách mạng đã thực hiện chủ trương, sách lược
như thế nào đối với Pháp trong thời gian trước 6/3 và từ ngày 6/3/1946?” đã
định hướng cho học sinh nắm vững về mối quan hệ Việt – Pháp từ sau ngày
2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 trải qua hai giai đoạn: giai đoạn từ sau ngày
2/9/1945 đến trước ngày 6/3/1946, quan hệ Việt – Pháp là đối đầu trực tiếp bằng
quân sự ở miền Nam; từ ngày 6/3/1946 đến trước ngày 19/12/1946, quan hệ Việt
– Pháp là đối thoại, hịa hỗn với việc kí Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và bản Tạm
ước (14/9/1946).
Thông qua việc đọc và phát hiện kiến thức cơ bản, học sinh nắm được những
nội dung trọng tâm của bài học, đồng thời là cơ sở để các em tiến hành tự lập
dàn ý nội dung bài học.
2.3.2. Kĩ năng tự lập dàn ý nội dung bài học.
Đây là kĩ năng rất quan trọng khi học sinh nhận thức nội dung bài học trong
sách giáo khoa. Bởi dàn ý là sự thể hiện cô đọng, khái quát hệ thống nội dung
kiến thức từng mục và toàn bài. Khi học sinh tự lập được dàn ý bài viết trong
sách giáo khoa có nghĩa là đã nắm được kiến thức cơ bản của bài học và có thể
vận dụng linh hoạt để giải quyết các tình huống có vấn đề. Để phát triển kĩ năng

này, giáo viên hướng dẫn học sinh thường xuyên rèn luyện những hoạt động như
đọc kĩ một mục hay toàn bài viết của sách giáo khoa, xác định cấu trúc của bài
5

skkn


học (có bao nhiêu mục, nội dung cơ bản mỗi mục), triển khai các nội dung cơ
bản theo từng ý, sắp xếp nội dung ý chính, ý phụ thành một thể thống nhất và có
thể hồn thiện dàn ý dưới dạng sơ đồ tư duy.
Ví dụ, khi học mục “1. Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947” (thuộc
mục III, Bài 18), học sinh cần đọc kĩ nội dung bài viết trong sách giáo khoa; căn
cứ vào những “từ khóa” và cách bố cục các đoạn văn bản trong mục, học sinh có
thể xác định bốn vấn đề cơ bản của mục này là hoàn cảnh, diễn biến, kết quả, ý
nghĩa của chiến dịch. Sau đó học sinh triển khai ý phụ của bốn ý chính trên,
hồn thiện dàn ý. Hay trong Bài 20, mục “I-Âm mưu mới của Pháp – Mĩ ở Đông
Dương: Kế hoạch Nava”, những vấn đề cơ bản khơng được trình bày rõ ràng
thành các mục nhỏ (a, b, c...) mà được trình bày xuyên xuốt trong cả mục lớn.
Tuy nhiên, qua việc căn cứ vào cách bố cục các đoạn văn bản và các “từ khóa”
như “Trải qua 8 năm”, “kết thúc chiến tranh trong danh dự”, “Kế hoạch Nava
được chia thành hai bước”, “Để thực hiện kế hoạch Nava”, học sinh xác định
được những vấn đề cơ bản là hoàn cảnh ra đời, nội dung (mục tiêu, các bước
thực hiện mục tiêu) của kế hoạch Nava và một số thủ đoạn được Pháp thực hiện
để triển khai kế hoạch này.
Việc rèn luyện kĩ năng tự phát hiện và lập dàn ý các nội dung cơ bản của bài
học trong sách giáo khoa sẽ bồi dưỡng cho học sinh tinh thần tự học, chủ động
chiếm lĩnh kiến thức. Đây cũng là kĩ năng giúp các em nắm lại kiến thức dễ
dàng hơn trong quá trình ơn tập sau này.
2.3.3. Kĩ năng khai thác kênh hình trong bài học.
Bên cạnh nội dung bài viết, kênh hình cũng là một nguồn kiến thức quan

trọng, bổ sung thêm thơng tin cho kênh chữ, góp phần tạo biểu tượng sinh động,
tăng tính hình ảnh giúp học sinh nắm vững hơn kiến thức của bài. Thông qua
việc hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình trong sách giáo khoa, giáo viên
phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, khả năng tư duy và thực hành bộ môn
cho học sinh.
Kênh hình trong sách giáo khoa đã được lựa chọn phù hợp với nội dung bài
học. Vì vậy, trong quá trình dạy học Lịch sử, giáo viên cần rèn luyện cho học
sinh kĩ năng khai thác kênh hình một cách hiệu qủa theo các bước sau:
Bước 1: Quan sát tổng thể kênh hình để biết được chủ đề khai thác.
Bước 2: Đọc các chú thích, chú giải trong kênh hình.
Bước 3: Xác định các chi tiết quan trọng trong hình có liên quan đến nội
dung bài học.
Bước 4: Kết hợp đọc nội dung trong sách giáo khoa với quan sát hình ảnh
minh họa trong kênh hình để nhận thức và khắc sâu kiến thức bài học.
Ví dụ, khi học Mục “IV- Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch Biên giới thu
– đông năm 1950” (Bài 18), để làm sáng tỏ âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp
trong kế hoạch Rơve và diễn biến của chiến dịch Biên giới, giáo viên hướng dẫn
học sinh quan sát Lược đồ chiến dịch Biên giới thu – đơng năm 1950 (Hình 1).

6

skkn


Hình 1 – Lược đồ chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950

Triển khai kế hoạch Rơve, Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường
số 4 và thiết lập hành lang Đông – Tây. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát,
xác định các cứ điểm được Pháp xây dựng trên đường số 4 (Cao Bằng, Đông
Khê, Thất Khê, Na Sầm) và hành lang Đông – Tây từ Hải Phịng qua Hà Nội,

Hịa Bình đến Sơn La. Đồng thời với việc quan sát hình ảnh, học sinh phải biết
tự nêu vấn đề (tự thắc mắc) về mục đích của Pháp khi thực hiện các thủ đoạn
trên, qua đó, kích thích học sinh tư duy tìm hiểu để nắm vững bản chất thủ đoạn
Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4 nhằm khóa chặt biên giới
Việt – Trung, cắt đứt con đường liên lạc của cách mạng nước ta với các nước xã
hội chủ nghĩa; thủ đoạn thiết lập hành lang Đông – Tây nhằm cắt đứt sự chi viện
từ vùng tự do Liên khu III (gồm 12 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và tỉnh Hòa Bình),
Liên khu IV (từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế) cho căn cứ địa Việt Bắc, đẩy
Việt Bắc vào thế bị cơ lập cả trong và ngồi, trên cơ sở đó, chuẩn bị tiến cơng
Việt Bắc.
Trước âm mưu, thủ đoạn mới của Pháp, Đảng, Chính phủ quyết định mở
chiến dịch Biên giới. Quân đội ta nổ súng mở đầu chiến dịch bằng trận đánh vào
vị trí Đơng Khê và giành thắng lợi. Quan sát lược đồ, học sinh nhận thức được ý
nghĩa quan trọng của chiến thắng Đông Khê là tạo ra bước đột phá, chia cắt
tuyến phòng thủ trên đường số 4 của Pháp, uy hiếp cứ điểm Thất Khê, cô lập
quân địch ở Cao Bằng. Đặc biệt, qua lược đồ, học sinh có thể nhận thức rõ vì
7

skkn


sao việc qn đội ta chiếm được vị trí Đơng Khê đã đẩy quân địch ở Cao Bằng
vào thế bị cô lập (Cao Bằng là cứ điểm cuối cùng trong tuyến phòng ngự của
Pháp trên đường số 4, sau khi mất Đông Khê, quân địch ở Cao Bằng bị cô lập
bởi sự uy hiếp của quân đội ta tại Bắc Kạn và tại Đông Khê). Tiếp tục đọc sách
giáo khoa kết hợp quan sát lược đồ, học sinh nắm được phần diễn biến tiếp theo
của chiến dịch Biên giới, gồm những hành động của thực dân Pháp và thắng lợi
của quân đội ta sau trận Đông Khê. Những nội dung này được trực quan hóa
giúp học sinh dễ dàng nắm bắt và khắc sâu kiến thức.
Hoặc khi học Bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết

thúc (1953 – 1954)”, giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác Lược đồ hình thái
chiến trường trong Đơng – Xn 1953 – 1954 (Hình 2)

8

skkn


Hình 2 – Lược đồ hình thái chiến trường trong Đông – Xuân 1953 – 1954

Triển khai kế hoạch Nava, thực dân Pháp tập trung một đội quân cơ động
mạnh tại đồng bằng Bắc Bộ (44 tiểu đoàn) nhằm tạo ra “quả đấm thép” tiêu diệt
chủ lực cách mạng, giành thắng lợi quyết định để kết thúc chiến tranh trong
danh dự. Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa kết hợp quan sát lược đồ, học sinh
nhận thức được sau khi tập trung quân tại đồng bằng Bắc Bộ, Nava không thực
hiện âm mưu tiến công lên căn cứ địa Việt Bắc như các kế hoạch quân sự trước
đây của Pháp ở Đông Dương (kế hoạch Bôlae, kế hoạch Rơve, kế hoạch Đờ Lát
đơ Tátxinhi), mà mở cuộc tiến công lớn vào Ninh Bình, Thanh Hóa – hai địa
phương quan trọng thuộc vùng tự do Liên khu III, Liên khu IV của cách mạng,
nhằm phá kế hoạch tiến công của ta trong Đông – Xuân 1953 – 1954, đồng thời
thực hiện kế “điệu hổ li sơn”, dụ lực lượng chủ lực của cách mạng rời căn cứ
Việt Bắc qua đồng bằng Bắc Bộ về bảo vệ Ninh Bình, Thanh Hóa, tiến hành đón
lỏng và tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng tại đồng bằng Bắc Bộ – nơi thực
dân Pháp chiếm ưu thế vì có hỏa lực mạnh hơn.
Trước âm mưu và thủ đoạn của Pháp – Mĩ trong kế hoạch Nava, Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng chiến lược của ta
trong Đông – Xuân 1953 – 1954 là: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến
công vào hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt
một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị
động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng

không thể bỏ, do phải phân tán lực lượng mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận
lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng [4].
Học sinh quan sát kí hiệu trong lược đồ để xác định những hướng tiến công
của quân ta trong Đông – Xuân 1953 – 1954, gồm Lai Châu, Trung Lào,
Thượng Lào và Bắc Tây Nguyên. Việc quan sát lược đồ giúp học sinh nhận thức
dễ dàng hơn chủ trương của Đảng. Lợi dụng mâu thuẩn trong chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp giữa việc phải phân tán lực lượng để giữ những địa bàn
chiến lược quan trọng với việc phải tập trung lực lượng để tiêu diệt chủ lực cách
mạng nhằm tìm kiếm thắng lợi, kết thúc chiến tranh trong danh dự, Đảng chủ
trương tiến công vào những hướng quan trọng của Pháp ở Đông Dương không
chỉ nhằm buộc Pháp phân tán lực lượng đối phó với ta, làm thất bại kế hoạch tập
trung quân của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ, mà còn nhằm thực hiện phương châm
“điều địch để đánh địch”.
Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 của quân ta đã làm
thất bại kế hoạch tập trung quân tại đồng bằng Bắc Bộ của Pháp, vì từ trung tâm
điểm ban đầu là tập trung binh lực tại đồng bằng Bắc Bộ, Nava đã buộc phải
phân tán lực lượng ra năm nơi (đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ, Xênô, Luông
Phabang và Mường Sài, Plâyku). Việc quan sát lược đồ giúp học sinh có thể lưu
hình ảnh trong trí nhớ, từ đó, nắm và khắc sâu kiến thức, nhất là những kiến
thức khó nhớ.
Như vậy, kĩ năng khám phá những thông tin lịch sử trong kênh hình khơng
chỉ phát huy sự chủ động phát hiện, khám phá kiến thức, khả năng quan sát,
9

skkn


năng lực thực hành cho học sinh mà còn giúp các em hiểu sâu, nhớ lâu kiến
thức.
2.3.4. Kĩ năng liên hệ, so sánh nội dung giữa các mục trong một bài học hoặc

giữa các bài học thuộc các chương khác nhau.
Mỗi đề mục trong một bài học, mỗi bài học trong một chương hoặc giữa các
chương chứa đựng các đơn vị kiến thức khác nhau, song các đơn vị kiến thức đó
khơng đứng biệt lập mà có liên hệ với nhau và đều hướng tới việc giải quyết chủ
đề mà một bài học hoặc một chương đặt ra. Vì vậy, để nhận thức trọn vẹn nội
dung bài học, hiểu rõ tiến trình phát triển của lịch sử của dân tộc qua các thời kì,
học sinh cần hình thành kĩ năng liên hệ, so sánh các nội dung lịch sử.
Thứ nhất, hình thành kĩ năng liên hệ, so sánh nội dung giữa các mục trong
bài học.
Để hình thành kĩ năng này, trước hết học sinh cần nắm vững nội dung của
từng mục, sau đó, vận dụng những kiến thức cơ bản về tiến trình, quy luật phát
triển chung của lịch sử để nhận thức mối liên hệ nội dung giữa các mục.
Ví dụ, nội dung Bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946 – 1950)” được bố cục thành bốn mục lớn, trong đó,
mục IV được bố cục thành mục “1. Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng
chiến” và mục “2. Chiến dịch Biên giới thu – đơng năm 1950”. Để hình thành
mối liên hệ logic nội dung lịch sử giữa hai mục này, trước hết, học sinh cần nắm
vững hoàn cảnh thuận lợi trong nước và quốc tế, những khó khăn của cuộc
kháng chiến do sự can thiệp của Mĩ và âm mưu mới của Pháp ở Đông Dương;
đồng thời nắm được chủ trương mở chiến dịch Biên giới của Đảng và Chính
phủ. Từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận thức mối liên hệ giữa những
điều kiện thuận lợi trong nước và quốc tế được trình bày trong mục 1 với chủ
trương mở cuộc tiến cơng của Đảng được trình bày ở mục 2.
Về điều kiện chủ quan thuận lợi, từ năm 1945 đến năm 1950, cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện phát triển, nhất là hậu phương kháng chiến được xây
dựng và ngày càng vững chắc mội mặt. Về điều kiện khách quan thuận lợi,
thắng lợi của cách mạng Trung Quốc và sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa năm 1949 tạo điều kiện để Việt Nam tiếp xúc trực tiếp với phe xã hội
chủ nghĩa; việc Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa công nhận
và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1950 tạo

cơ sở để cuộc kháng chiến của nhân dân ta có thêm hậu phương mới là các nước
xã hội chủ nghĩa. Những điều kiện thuận lợi nêu trên đã tạo thực lực cho cuộc
kháng chiến, đây là cơ sở quan trọng để Đảng và Chính phủ đưa ra quyết định
chủ động mở chiến dịch Biên giới nhằm đập tan âm mưu mới của Pháp và sự
can thiệp của Mĩ ở Đông Dương.
Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học sinh liên hệ, so sánh để thấy được những
điểm mới của chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950 (mục IV) so với chiến
dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 (mục III). Trước hết, học sinh cần nêu ra các
luận điểm so sánh giữa hai chiến dịch, như hoàn cảnh (thuận lợi, khó khăn, chủ
trương của Đảng), nghệ thuật chiến dịch, kết quả, ý nghĩa, trên cơ sở đó, dựa
vào nội dung bài học để tiến hành tư duy triển khai các ý.
10

skkn


So với chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947, điểm mới về hoàn cảnh
của chiến dịch Biên Giới thu – đông năm 1950 là diễn ra khi cuộc chiến tranh
Đơng Dương được quốc tế hóa, phản ánh sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mĩ, với
việc Mĩ từng bước can thiệp sâu và dính líu trực tiếp vào cuộc chiến tranh, Liên
Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao vói nước VIệt Nam Dân chủ Cộng hịa. Hồn cảnh lịch sử mới có những
yếu tố tạo thuận lợi nhưng cũng có những yếu tố gây thêm khó khăn cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Về chủ trương của Đảng, trong chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947,
Đảng chủ trương mở cuộc phản công “phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc
Pháp” nhằm bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc. Đến chiến dịch Biên giới thu – đơng
năm 1950, Đảng va Chính phủ quyết định mở chiến dịch chủ động tiến công
địch không chỉ để bảo vệ mà còn nhằm mở rộng và cũng cố căn cứ địa Việt Bắc,
biểu hiện qua chủ trương tiến cơng địch để giải phóng đường số 4, đồng thời đẩy

mạnh hoạt động ở tả ngạn sông Hồng, Tây Bắc nhằm phối hợp với mặt trận Biên
giới.
Về nghệ thuật chiến dịch, trong chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947,
hình thức tác chiến chủ yếu của ta là tiến hành chiến tranh du kích ngắn ngày
(bao vây, phục kích, tập kích địch) kết hợp với vận động chiến. Trong chiến dịch
Biên giới thu – đơng năm 1950, ngồi tiến hành chiến tranh du kích, bộ đội chủ
lực của ta phát huy lối đánh chính quy với các hình thức công kiên chiến, vận
động chiến, đánh điểm, diệt viện. Điều đó thể hiện sự trưởng thành của quân đội
cách mạng.
Kết quả, với chiến thắng Việt Bắc thu – đông năm 1947, cơ quan đầu não
kháng chiến và căn cứ địa Việt Bắc được bảo toàn. Kết thúc chiến dịch Biên giới
thu – đông năm 1950, ta không chỉ bảo vệ mà còn mở rộng được căn cứ địa Việt
Bắc với việc giải phóng tuyến biên giới Việt – Trung từ Cao bằng đến Đình Lập
và làm chủ thị xã Hịa Bình.
Về ý nghĩa, chiến thắng Việt Bắc thu – đơng năm 1947 chuyển cuộc kháng
chiến toàn quốc chống Pháp xâm lược sang giai đoạn mới (thực dân Pháp buộc
phải từ bỏ âm mưu đánh nhanh thắng nhanh, chuyển sang đánh lâu dài với ta).
Thắng lợi Biên giới thu – đông năm 1950 mở ra bước phát triển mới của cuộc
kháng chiến (quân đội ta giành được thế chủ động chiến lược trên chiến trường
chính-Bắc Bộ).
Thứ hai, hình thành kĩ năng liên hệ, so sánh những nội dung lịch sử cơ bản
giữa các thời kì được trình bày trong các chương khác nhau.
Để hình thành kĩ năng này, học sinh cần chủ động đặt ra các câu hỏi về sự
giống hoặc khác nhau của lịch sử dân tộc qua các thời kì, sau đó, đối chiếu nội
dung của bài học sau với bài học trước để suy nghĩ, tìm câu trả lời. Ví dụ, học
sinh cần chủ động đặt ra và giải quyết các câu hỏi về những điểm tương đồng
hoặc điểm mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) so với
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 – 1954) có những điểm tương đồng như: đều thực hiện những nhiệm

vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong đó, vấn đề dân tộc được
11

skkn


chú trọng; huy động lực lực toàn dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc,
trong đó có sự kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, có sự sáng tạo
trong phương thức sử dụng lực lượng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần
chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng; tiến hành vũ trang du kích tiêu hao
sinh lực địch; lập căn cứ cách mạng, gây dựng cơ sở cho chế độ mới; kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; góp phần giải trừ chủ nghĩa thực dân
và tác động sâu sắc tới phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới,…
Bên cạnh những điểm tương đồng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 – 1954) có những điểm mới so với Cách mạng tháng Tám năm 1945. Sau
năm 1945, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam được tiến hành bằng một
cuộc chiến tranh (chiến tranh giải phóng dân tộc); có sự kết hợp đấu tranh qn
sự, chính trị, ngoại giao, trong đó, Đảng và Chính phủ chú trọng xây dựng lực
lượng vũ trang ba thứ quân, lấy đấu tranh quân sự (mở các chiến dịch phản công
và tiến công) làm yếu tố quyết định thắng lợi; cuộc kháng chiến diễn ra trong
bối cảnh đất nước có độc lập, chủ quyền, do đó, kháng chiến và kiến quốc là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954; tồn tại
loại hình hậu phương và tiền tuyến; có sự giúp đỡ của Liên Xơ và các nước xã
hội chủ nghĩa; tiến hành liên minh chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông
Dương,…
Việc tiến hành liên hệ, so sánh những nội dung lịch sử cơ bản giữa các thời
kì được trình bày trong các chương khác nhau là một một kĩ năng cần thiết để
nhận thức bản chất của tiến trình lịch sử, tuy nhiên khơng dễ thực hiện. Do vậy,
để thực hiện kĩ năng này, ngoài việc căn cứ nội dung sách giáo khoa, học sinh
cần chủ động tìm hiểu tài liệu tham khảo, trao đổi với giáo viên.

Việc hình thành kĩ năng liên hệ, so sánh các nội dung lịch sử không chỉ giúp
học sinh rèn luyện tư duy mà còn giúp các em làm chủ được kiến thức để giải
quyết tốt các câu hỏi, bài tập lịch sử.
2.3.5. Kĩ năng tự nêu vấn đề và giải quyết vấn đề khi nhận thức nội dung bài
học.
Hiện nay, khi nhận thức nội dung bài học trong sách giáo khoa, nhiều học
sinh trong đội tuyển học sinh giỏi mơn Lịch sử vẫn cịn tồn tại tình trạng “học
vẹt”. Các em chỉ nắm phần “chữ” mà không hiểu được phần “nghĩa”, tức là bản
chất của một sự kiện, hiện tượng lịch sử. Do đó, các em nhanh quên, khơng thể
nhớ lâu nội dung lịch sử.
Để khắc phục tình trạng trên, trong quá trình tìm hiểu nội dung bài học
trong sách giáo khoa, học sinh cần hình thành thói quen tự đặt ra các câu hỏi liên
quan đến sự kiện, hiện tượng lịch sử như “Nghĩa là gì?”, “Vì sao lại như
thế?”.v.v. Ví dụ, khi tìm hiểu Bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950)”, học sinh cần tự nêu các vấn đề
như “Kháng chiến tồn dân là gì?”, “Vì sao phải tiến hành kháng chiến toàn
dân?” “Kháng chiến toàn diện là gì?” “Vì sao phải tiến hành kháng chiến toàn
diện?”,... Hay trong Bài 19 “Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1951 – 1953)”, khi tìm hiểu mục “III-Hậu phương kháng
chiến phát triển mọi mặt”, học sinh có thể tự chất vấn nhiều vấn đề liên quan
đến việc xây dựng hậu phương kháng chiến trong các lĩnh vực, như trong lĩnh
12

skkn


vực văn hóa, phương châm “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng
chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩa là gì?; trong lĩnh vực chính trị, việc Đại
hội Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất (1/5/1952) tổng
kết, biểu dương 7 anh hùng nhằm mục đích hay có tác dụng như thế nào?”.v.v.

Việc tự đặt ra các câu hỏi về những hiện tượng lịch sử được trình bày trong nội
dung bài học sẽ tạo động lực để học sinh suy nghĩ tìm câu trả lời.
Các nội dung trong một mục hoặc giữa các mục thường khơng đứng độc lập
mà có mối liên hệ logic lịch sử, bổ sung, giải thích cho nhau. Do đó, học sinh
cần căn cứ vào các dữ kiện trong nội dung bài học để giải quyết vấn đề đặt ra.
Ví dụ, khi tìm hiểu về chủ trương của Đảng trong cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng từ sau ngày 2/9/1945 đến
trước ngày 19/12/1946 (thuộc mục III, Bài 17), để giải quyết cho câu hỏi “Dựa
trên cơ sở nào, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: tránh trường
hợp một mình đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc?”, học sinh cần căn cứ vào
tình hình của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở mục I để lí giải. Sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã
nằm trong vòng vây của các thế lực đế quốc và tay sai. Trong khi đó, đất nước
cịn đứng trước mn vàn khó khăn về chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo
dục. Thực tế những khó khăn, thử thách của đất nước là cơ sở quan trọng để
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ tránh trường hợp một mình
đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc.
Hay khi tìm hiểu về chủ trương của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với thực dân Pháp được trình bày trong mục 1 và đối với quân Trung
Hoa Dân Quốc được trình bày trong mục 2 (thuộc mục III, Bài 17), để giải quyết
cho câu hỏi “Trong hồn cảnh phải đối phó với qn Trung Hoa Dân quốc và
thực dân Pháp, vì sao Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương
hịa hỗn với quân Trung Hoa Dân Quốc ở ngoài Bắc, tập trung lực lượng kháng
chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ?”, học sinh căn cứ vào âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực ngoại xâm được trình bày trong mỗi mục để lí giải. Quân Trung
Hoa Dân quốc vào Việt Nam với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân
Nhật nên chưa dám lộ rõ bộ mặt xâm lược, chúng chỉ thông qua lực lượng tai sai
(Việt Quốc, Việt Cách) để chống phá cách mạng. Trong khi đó, ở miền Nam,
với dã tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa, đêm 22 rạng sáng 23/9/1945, thực
dân Pháp đã lộ rõ bộ mặt xâm lược bằng việc đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân

Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn. Thực tế trên chứng tỏ thực dân
Pháp là kẻ thù chủ yếu của cách mạng. Do đó, trong hồn cảnh khơng thể đối
phó cùng lúc với nhiều kẻ thù, Đảng, Chính phủ chủ trương hịa hỗn với quân
Trung Hoa Dân Quốc ở ngoài Bắc để tập trung lực lượng kháng chiến chống
thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ.
Việc tự đặt ra vấn đề và giải quyết vấn đề giúp học sinh hiểu phần “nghĩa”
của sự kiện, hiện tượng lịch sử, khắc phục tình trạng “học vẹt”. Có thể, trong
nhiều trường hợp, học sinh sẽ không giải quyết được những câu hỏi tự các em
đặt ra và cần sự hướng dẫn của giáo viên. Tuy nhiên, việc thường xuyên tự nêu
vấn đề và giải quyết vấn đề khi tìm hiểu nội dung bài học sẽ hình thành ở học
sinh tinh thần ham học hỏi, sự chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức.
13

skkn


2.3.6. Kĩ năng củng cố kiến thức theo nội dung bài học.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tự củng cố kiến thức ngay trong quá trình tìm
hiểu nội dung bài học mới ở một số thời điểm sau:
Một là, tái hiện kiến thức cũ trước khi tìm hiểu nội dung bài mới. Vì đặc
trưng của kiến thức lịch sử, mỗi bài học không phải là một đơn vị kiến thức biệt
lập, riêng rẽ mà bao giờ cũng có liên quan đến các bài học khác, do đó, việc tái
hiện kiến thức cũ sẽ là cơ sở để học sinh tiếp thu, lĩnh hội kiến thức mới. Ví dụ:
trước khi tìm hiểu “Bài 19. Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1951 – 1953)”, học sinh cũng cố lại những kiến thức cơ
bản của “Bài 18. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp (1946 – 1950)”. Việc cũng cố nội dung Bài 18 giúp học sinh khi tìm
hiểu nội dung bài 19 nhận thức được điểm mới của kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi
so với kế hoạch Bôlae và kế hoạch Rơve là không chỉ thực hiện âm mưu bao vây,
đánh phá căn cứ địa của ta, mà còn tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định

vùng tạm chiếm của Pháp. Do đó, kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi đã làm cho cuộc
kháng chiến của nhân dân ta, nhất là ở vùng sau lưng địch, trở nên khó khăn,
phức tạp.
Hai là, củng cố kiến thức sau khi học xong mỗi mục. Ví dụ, trong “Bài 20.
Cuộc kháng chiến tồn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”, sau
khi tìm hiểu mục “1. Cuộc Tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954”,
học sinh tái hiện ra giấy những nét cơ bản về chủ trương, diễn biến, kết quả, ý
nghĩa của cuộc tiến cơng. Trên cơ sở đó, khi tìm hiểu nội dung mục “2. Chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)”, học sinh dễ dàng thấy được những điểm
tương đồng của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và cuộc Tiến công chiến
lược Đông – Xuân 1953 – 1954 (đều là những cuộc tiến công chiến lược nhằm
tiêu diệt lực lượng của địch, giải phóng đất đai, đều giành thắng lợi, làm phá sản
kế hoạch Nava của Pháp – Mĩ,...), cũng như điểm mới Chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ năm 1954 so với cuộc Tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954
(tiến công vào hướng quan trọng về chiến lược nhưng địch mạnh,...)
Ba là, củng cố vào cuối bài. Đây là công việc quan trọng, giúp học sinh hệ
thống được kiến thức toàn bài. Sau khi kết thúc phần tìm hiểu kiến thức mới,
học sinh tự củng cố bằng việc suy nghĩ, giải quyết các câu hỏi, bài tập trong
sách giáo khoa. Bởi vì các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa đều định hướng
học sinh nắm lại những kiến thức cơ bản của nội dung bài học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Hàng năm, trường trung học phổ thông Tĩnh Gia 3 thành lập các đội tuyển
học sinh giỏi cấp tỉnh ở các mơn văn hóa, trong đó có môn Lịch sử. Từ năm học
2021 - 2022, sau khi áp dụng những kinh nghiệm nêu trong bản sáng kiến đối
với đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn,
tôi trao đổi kinh nghiệm với các giáo viên Lịch sử trong Nhà trường và nhận
được những đánh giá tích cực. Từ đó, các đồng nghiệp đã chủ động nghiên cứu,
áp dụng những kinh nghiệm này trong q trình bồi dưỡng học sinh giỏi, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn của Nhà trường.

14

skkn


Để có cơ sở đánh giá chính xác hiệu quả của đề tài, trong năm học 2021 2022, tôi phát phiếu điều tra Phụ lục đối với đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh
môn Lịch sử về hiệu quả học tập của vấn đề hình thành một số kĩ năng nhận
thức nội dung bài học trong sách giáo khoa. Tôi thu được 100% phiếu tỏ ý kiến
đánh giá cao vấn đề trên. Các em khẳng định rằng việc hình thành kĩ năng nhận
thức nội dung bài học trong sách giáo khoa đã giúp các em nâng cao hiệu quả
học tập mơn Lịch sử, vì qua việc rèn luyện một số kĩ năng trên, các em khắc
phục được tính thụ động, hình thành tinh thần chủ động chiếm lĩnh kiến thức
trong q trình ơn luyện; phát triển các khả năng tư duy, suy luận, khái quát hóa
nội dung lịch sử; tăng cường khả năng thực hành, vận dụng kiến thức để giải
quyết các câu hỏi, bài tập lịch sử do đã làm chủ, nắm vững nội dung bài học; từ
đó, các em xóa bỏ được hiện tượng thích học Lịch sử nhưng lại sợ môn Sử.
Hiệu quả của các sáng kiến kinh nghiệm trong đề tài không chỉ thể hiện ở ý
kiến của học sinh trong phiếu điều tra mà còn thể hiện rõ nét nhất trong kết quả
kì thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh các mơn văn hóa năm học 2021 – 2022. Tôi
đối chiếu kết quả thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh môn Lịch sử của Nhà trường
trong năm học 2021 – 2022 (năm học vận dụng những kinh nghiệm nêu trong
bản sáng kiến) với năm học 2020 – 2021 (năm học chưa vận dụng những kinh
nghiệm nêu trong sáng kiến) và thu được kết quả như hai bảng tổng hợp sau:
Số
lượng
Năm
học
học
sinh
tham

gia thi
20205
2021
20215
2022

Tổng số
học sinh
đạt giải

Số học sinh đạt giải
Trong đó
Nhất

Nhì

Ba

Số học
sinh
Khuyến khơng đạt
giải
khích

Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ
lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%)

3

60


0

0.0

0

0.0

1

20.0

2 40.0 2 40.0

5

100

0

0.0

2 40.0 2

40.0

1 20.0 0 00.0

Bảng 01 - Kết quả kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh mơn Lịch sử tính theo số lượng,

chất lượng giải của trường trung học phổ thông Tĩnh Gia 3 từ năm học 2020 - 2021
đến năm học 2021 - 2022.

Qua bảng thống kê, tôi nhận thấy ở năm học vận dụng những kinh nghiệm
nêu trong bản sáng kiến, số lượng, chất lượng giải cao hơn so với năm học
chưa vận dụng những kinh nghiệm nêu trên. Điều đó chứng tỏ việc hình thành
một số kĩ năng nhận thức nội dung bài học trong sách giáo khoa cho đội tuyển
học sinh giỏi đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn môn Lịch sử
ở trường trung học phổ thông Tĩnh Gia 3.
3. Kết luận, kiến nghị.
- Kết luận.
Việc hình thành một số kĩ năng nhận thức nội dung bài học trong sách giáo
khoa cho đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử giúp các em rèn luyện, phát triển
năng lực học tập khá toàn diện như năng lực tư duy, suy luận, khái quát, hệ
thống hóa kiến thức hay năng lực thực hành, tự làm chủ kiến thức để giải quyết
15

skkn


các câu hỏi, bài tập Lịch sử; đồng thời, hình thành ở các em tính chủ động học
tập, tinh thần ham học hỏi trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
Từ kết quả của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn Lịch sử trong
năm học 2021 - 2022, những kinh nghiệm trong bản sáng kiến của tôi nhận được
đánh giá tích cực từ Hội đồng đánh giá sáng kiến kinh nghiệm trường trung học
phổ thông Tĩnh Gia 3 và sẽ tiếp tục được triển khai trong các năm học tiếp theo,
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn của Nhà trường.
Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến việc hình thành một số kĩ năng nhận
thức nội dung bài học trong sách giáo khoa cho đội tuyển học sinh giỏi môn
Lịch sử qua việc dạy học phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 ở lớp

12 THPT. Trên cơ sở những kĩ năng mang tính khái quát đã nêu, đề tài sẽ tiếp
tục được mở rộng nghiên cứu theo hướng áp dụng những kĩ năng trên để học
sinh nhận thức các nội dung lịch sử khác trong chương trình lịch sử phổ thơng,
đồng thời không chỉ áp dụng với đối tượng học sinh giỏi mà đề tài sẽ tiếp tục
nghiên cứu, áp dụng một số kĩ năng nhận thức nội dung bài học phù hợp với
đối tượng học sinh đại trà.
- Kiến nghị
Để những kinh nghiệm nêu trong bản sáng kiến ngày càng được hồn thiện
và vận dụng hiệu quả, tơi đề xuất một số ý kiến sau:
+ Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa, cần tổ chức chuyên đề để các
trường phổ thông trao đổi những kinh nghiệm về công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi, trong đó có vấn đề hình thành kĩ năng nhận thức nội dung bài học trong
sách giáo khoa cho học sinh nhằm phát huy tinh thần chủ động học tập của các
em, từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn ở các trường phổ
thông.
+ Đối với Nhà trường và đồng nghiệp, cần hỗ trợ giáo viên tiến hành điều tra
thực tiễn hàng năm để tìm hiểu những khó khăn của học sinh trong quá trình
nhận thức nội dung bài học lịch sử trong sách giáo khoa, từ đó, nghiên cứu, bổ
sung, hoàn chỉnh những kinh nghiệm nêu trong bản sáng kiến, giúp học sinh
nâng cao hiệu quả hoạt động học tập. Đồng thời, Ban Giám hiệu Nhà trường cần
có những biện pháp để động viên, khích lệ tinh thần tự học, tự nghiên cứu của
các em trong đội tuyển học sinh giỏi.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 21 tháng 05 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Văn Đạt


16

skkn


Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chỉ thị số 800/CT-BGDĐT ngày 24/8/2021 về thực
hiện nhiệm vụ năm học 2021 – 2022 ứng phó với dịch Covid-19, tiếp tục thực
hiện đổi mới, kiên trì mục tiêu chất lượng giáo dục và đào tạo
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
3. Phạm Văn Đồng, Sự nghiệp đổi mới giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1979.
4. Phan Ngọc Liên (Tổng Chủ biên), Lịch sử 12, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội, 2020.
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm mà tác giả đã được Hội
đồng khoa học Ngành đánh giá từ loại C trở lên
Họ và tên tác giả: Nguyễn Văn Đạt
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường THPT Tĩnh Gia 3

TT

1

2

3

4


Tên đề tài
Sáng kiến kinh nghiệp
Phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học tiết 1, bài 31: Cách mạng tư
sản Pháp cuối thế kỉ XVIII (lớp 10 –
THPT – Ban Cơ bản).
Vận dụng kiến thức một số môn khoa
học tự nhiên để dạy học bài “Cách mạng
khoa học - công nghệ và xu thế tồn cầu
hóa nửa sau thế kỉ XX”(Sách giáo khoa
Lịch sử 12 Nâng cao) nhằm nâng cao hiệu
quả nhận thức lịch sử cho học sinh ban
Cơ bản C trường THPT Tĩnh Gia 3.
Kinh nghiệm vận dụng kiến thức thực
tế về chuyển biến kinh tế, xã hội ở huyện
Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2013
– 2018 để dạy học một số nội dung trong
chương trình lịch sử phổ thơng nhằm
nâng cao hiệu quả học tập lịch sử cho học
sinh trường THPT Tĩnh Gia 3.
Kinh nghiệm hình thành kỹ năng

Kết quả
Năm học
Cấp đánh đánh
đánh giá
giá xếp loại giá xếp
xếp loại
loại
Sở Giáo dục

và Đào tạo

C

2010-2011

Sở Giáo dục
và Đào tạo

C

2013-2014

Sở Giáo dục
và Đào tạo

C

2017-2018

Sở Giáo dục

B

2018-2019
17

skkn




×