Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Skkn một số biện pháp dạy học môn mĩ thuật giúp học sinh khối 4 trường tiểu học nga phượng 1 phát huy tính tích cực theo phương pháp đan mạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, trong mục tiêu giáo dục, chúng ta đã xác định giáo
dục thẩm mĩ có vai trị rất quan trọng. Nếu con người được giáo dục về thẩm mĩ
đến nơi đến chốn thì sẽ ngày càng hồn thiện bản thân mình hơn và tiến đến
chân thiện mỹ. Mơn học Mĩ thuật là một trong những mơn học góp phần giáo
dục thẩm mỹ cho học sinh một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Đặc biệt là đối với
trường tiểu học, môn Mĩ thuật giúp cho học sinh được giáo dục thẩm mĩ từ rất
sớm, được trải nghiệm phát triển sự sáng tạo và khả năng biểu đạt. Có thể nói,
dạy học Mĩ thuật trong nhà trường không nhằm đào tạo các em trở thành hoạ sỹ
mà thông qua các hoạt động tạo hình để khơi gợi và phát huy khiếu thẩm mỹ
vốn có ở học sinh, gây hứng thú cho học sinh trước cái đẹp tiến tới hình thành
thị hiếu thẩm mỹ của riêng mình trong cuộc sống hằng ngày.
Thơng thường, việc dạy học Mĩ thuật trong trường tiểu học ở Việt Nam dạy
theo phân phối chương trình với các phân mơn độc lập như vẽ trang trí, vẽ theo
mẫu, vẽ tranh, thường thức mĩ thuật và tập nặn tạo dáng. Với môn học này học
sinh chỉ cần một quyển vở tập vẽ, bút chì, hộp màu hoặc đất nặn. Điều này cũng
giới hạn phần nào sự hứng thú và sáng tạo của học sinh. Việc phân phối các
phân môn xen kẽ nhau chủ yếu nhằm mục đích để học sinh không cảm thấy
nhàm chán khi học nên sự liên kết giữa bài trước với bài sau thường lỏng lẻo,
đôi khi không liên quan. Việc này hạn chế sự liên tưởng, vận dụng kiến thức cũ
vào bài học mới và khó tích hợp kiến thức liên mơn.
So với phương pháp truyền thống, dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới
của Đan Mạch có nhiều ưu điểm trong việc phát huy khả năng sáng tạo của học
sinh, tiết học rất thoải mái, sinh động. Phương pháp này không chỉ đơn giản là
cung cấp tri thức, hướng dẫn thực hành, mà còn phát triển các năng lực toàn
diện cho học sinh như: năng lực trải nghiệm, biểu đạt, phân tích - giải thích,
trình bày, giao tiếp - đánh giá, tạo cơ hội cho học sinh thực hành, ứng dụng
trong học tập và cuộc sống. Trên cơ sở lý thuyết giáo dục và giảng dạy Mĩ thuật,
giáo viên sẽ tổ chức dạy cho các em học Mĩ thuật qua các hoạt động Vẽ cùng
nhau, Vẽ theo nhạc, Vẽ biểu đạt, tạo hình 3D từ các vật tìm được, Xây dựng cốt


truyện... Thơng qua các hoạt động tạo hình sẽ khơi gợi và phát huy được năng
khiếu thẩm mỹ vốn có ở trẻ, gây hứng thú cho các em trước cái đẹp, tiến tới hình
thành thị hiếu thẩm mỹ của học sinh trong cuộc sống. Đây là một chương trình
giáo dục Mĩ thuật Tiểu học năng động, phát huy, rèn luyện được nhiều kỹ năng
cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng sống, một sự thay đổi lớn cả về phương pháp
lẫn mục tiêu giáo dục của bộ môn Mĩ thuật ở Tiểu học. Ngồi việc thay đổi nội
dung phân phối chương trình, sự thay đổi hình thức tổ chức lớp học phần lớn
được thơng qua hoạt động nhóm thì vấn đề để học sinh tiếp thu được kiến thức,
phát triển tư duy, sáng tạo ra những sản phẩm mĩ thuật là một trong những vấn
đề trọng tâm khiến giáo viên không khỏi tránh được những khó khăn, vướng
mắc. Vì theo phương pháp mới, mỗi chủ đề sẽ thực hiện bằng nhiều quy trình mĩ
thuật khác nhau, giáo viên hồn tồn khơng hướng dẫn học sinh thực hành mà
chủ yếu do học sinh tự tìm hiểu vấn đề, đề ra cách giải quyết nên câu hỏi đặt ra
1

skkn


là: Học sinh lớp 1 có khả năng tư duy và sáng tạo ra câu chuyện được kể bằng
ngôn ngữ mĩ thuật? Hầu hết các giáo viên dạy Mĩ thuật Tiểu học đều cho rằng
minh họa hướng dẫn từng bước để học sinh vẽ cịn chưa hiệu quả huống gì là để
tự các em vẽ theo cảm nhận và sự hiểu biết của bản thân.
Có thể nói ưu điểm của phương pháp dạy học mới theo dự án Đan mạch
(SAEPS ) là tích cực, mà ở đó học sinh chủ động, tự lực khai thác tri thức dưới
sự hướng dẫn của giáo viên. Các phương pháp dạy học mới được triển khai
trong dự án đã kích thích sự say mê, hứng thú trong học tập, bồi dưỡng phát
triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tư duy và trí tưởng tượng của học sinh.
Tuy nhiên vấn đề đồ dùng phục vụ môn học giải quyết như thế nào để đáp ứng
nhu cầu học tập của học sinh hay hình thức tổ chức lớp học ra sao, cách thực
hiện các quy trình sáng tạo vẫn là những băn khoăn lớn của mỗi giáo viên

chuyên trách khi giảng dạy. Chính từ những trăn trở đó tơi đã tiến hành nghiên
cứu và thực hiện đề tài: “Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật giúp học
sinh khối 4 trường tiểu học Nga Phượng 1 phát huy tính tích cực theo
phương pháp Đan Mạch”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Khi lựa chọn việc áp dụng “Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật giúp
học sinh trường tiểu học Nga Phượng 1 phát huy tính tích cực theo phương
pháp Đan Mạch” thì mục đích chính là tháo gỡ những khó khăn mà học sinh
cịn vướng phải đó là ngại giao tiếp, thụ động, khơng có sự tương tác giữa mình
và các bạn trong nhóm, do đó khơng có sự chia sẻ về sản phẩm, về cảm xúc của
mình đặt trong sản phẩm. Qua đó giúp học sinh tạo sự tự tin, tích cực, chủ động
và hứng thú trong học tập, để mỗi tiết học thực sự lý thú và hiệu quả, từ đó giúp
học sinh phát triển toàn diện các kĩ năng, năng lực, phẩm chất và tư duy trong
học tập.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Chương trình Mĩ thuật theo phương pháp Đan mạch.
- Học sinh khối 4 trường tiểu học Nga Phượng 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp cơ bản được sử dụng vào nghiên cứu đề tài bao gồm:
+ Nghiên cứu các tài liệu dạy học mĩ thuật theo phương pháp Đan mạch
dành cho giáo viên tiểu học.
+ Phương pháp điều tra, xử lí số liệu.
+ Phương pháp quan sát: cho học sinh xem thêm về hình ảnh và video.
+ Phương pháp thực nghiệm: dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp
mà mình đề ra đúc rút kinh nghiệm, dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp
giảng dạy môn Mĩ thuật.
1.5. Những điểm mới của Sáng kiến kinh nghiệm.
Năm học 2018 - 2019 theo chỉ đạo của Phòng giáo dục và đào tạo huyện
Nga Sơn Trường tiểu học Nga Nhân (nay là Nga Phượng 1) đã sử dụng những
quy trình dạy - học Mĩ thuật của Đan mạch (SAEPS) vào giảng dạy. Là một giáo

viên trực tiếp dạy môn Mĩ thuật tôi đã nghiên cứu đưa vào vận dụng sáng kiến
kinh nghiệm “Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật giúp học sinh trường
2

skkn


tiểu học Nga Nhân phát huy tính tích cực theo phương pháp Đan Mạch” và
đã được Hội đồng Khoa học Phòng Giáo dục & Đào tạo Nga Sơn xếp loại A.
Trong q trình giảng dạy, tơi thấy các vật liệu sẵn có trong tự nhiên đã
qua sử dụng mà hằng ngày các em vẫn thường gặp rất có tác dụng trong việc
học Mỹ thuật để tạo ra được các sản phẩm rất ngộ nghĩnh và đáng yêu mà không
tốn kinh phí cho các em. Chính vì thế, năm học 2021 - 2022 tôi tiếp tục nghiên
cứu đề tài này và đưa vào triển khai, mở rộng phạm vi nghiên cứu, tôi đã đưa
thêm vào đề tài biện pháp “Tạo hứng thú cho học sinh qua việc sử dụng các vật
liệu tự nhiên sẵn có vào các quy trình dạy học”. Sau một năm áp dụng vào các
tiết học mỹ thuật của khối 4 tôi đã thu được những kết quả nhất định.
2. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
2.1. Cơ sở lý luận.
Luật Giáo dục điều 24.2 đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thơng phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh". Đồng thời còn nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục Tiểu
học nhằm giúp cho học sinh những cơ sở ban đầu nhưng rất quan trọng cho sự
hình thành và phát triển nhân cách một con người, chuẩn bị tốt cho các em về
các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao động để học sinh tiếp tục học
lên Trung học hoặc đi vào cuộc sống tùy theo nhu cầu và nguyện vọng bằng
những hình thức thích hợp”. Điều này khẳng định giáo dục thẩm mĩ trong
trường Tiểu học là một nội dung có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các mặt giáo

dục khác, tạo nên sự hoàn thiện trong việc phát triển nhân cách của học sinh.
Chính vì vậy việc giáo dục và bồi dưỡng cho học sinh có trình độ văn hố thẩm
mĩ phổ thơng là hết sức cần thiết.
Mĩ thuật trong đời sống hết sức quan trọng, thế hệ trẻ phải nắm bắt được ý
nghĩa của nó, đất nước ngày một phát triển thì thị hiếu thẩm mĩ cũng ngày một
phát triển theo, giúp các em học sinh phát triển và đón nhận được tinh hoa của
nhân loại.
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo được sự hỗ trợ của
Chính phủ Đan Mạch, đã triển khai Dự án Hỗ trợ giáo dục Mĩ thuật cấp tiểu học
(SAEPS) thử nghiệm tại các trường tiểu học ở một số tỉnh, thành phố đại diện
cho các vùng miền trên cả nước.
Năm học 2014 - 2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển khai phương
pháp dạy - học Mĩ thuật mới sử dụng những quy trình dạy - học Mĩ thuật của
SAEPS ở tất cả trường tiểu học trên toàn quốc. Cho đến nay trường tiểu học Nga
Phượng 1 vẫn đang thực hiện chương trình này.

3

skkn


2.2. thực trạng của vấn đề:
a. Thuận lợi:
* Về phía nhà trường:
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất để việc
dạy- học môn mĩ thuật được phát triển một cách tốt nhất, cơ sở vật chất của nhà
trường khá khang trang, sạch đẹp.

* Về phía giáo viên:
- Giáo viên dạy Mĩ thuật ln được sự quan tâm của Ngành cấp trên, đặc
biệt là Ban Giám hiệu nhà trường thường xuyên động viên, khuyến khích giáo
viên áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy, luôn tạo mọi điều kiện để giáo
viên an tâm công tác và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Giáo viên nhiệt tình, u nghề, mến trẻ, có kinh nghiệm và năng lực chun
mơn.
* Về phía học sinh:
- Đa phần các em thích thú với phương pháp học tập mới, các em được tự
do sáng tạo phát huy tính tích cực trong học tập.
- Các hoạt động của mỗi chủ đề nối tiếp liền mạch nhau, làm cho học sinh
luôn cảm thấy hào hứng khi được khám phá, sáng tạo với nhiều trải nghiệm. Mặt
khác, các em được thỏa thích với những sáng tạo, được trao đổi, học hỏi từ bạn
rất nhiều. Thông qua hoạt động mĩ thuật thực tế, học sinh tự mình làm giàu cách
biểu đạt, phân tích, đánh giá, tự lựa chọn và nhận thức để hình thành, phát triển
những năng lực cá nhân. Chính bản thân các em sẽ tự tin trình bày những ý kiến
cá nhân trước tập thể.
b. Khó khăn:
* Về phía giáo viên:
- Trang thiết bị và tài liệu phục vụ mơn học cịn ít nên giáo viên bị hạn chế
về sự tìm tịi, ngại đầu tư, khả năng tổ chưc hoạt động giảng dạy hạn chế nên kết
quả chưa cao.
- Giáo viên ít được trải nghiệm những tiết dạy chất lượng theo phương
pháp mới của các đồng nghiệp.
- Một số giáo viên dạy văn hóa cịn xem nhẹ vai trị của mơn mĩ thuật, coi
mĩ thuật là môn phụ.
* Về học sinh:
- Vẫn cịn một số học sinh coi mơn mĩ thuật là mơn phụ nên khơng chịu
khó học hoặc dành rất ít thời gian học cho mơn mĩ thuật.
- Có một số học sinh còn thiếu đồ dùng học tập, quên đem đồ dùng học tập.

* Qua điều tra chất lượng học tập của học sinh khối 4 đầu năm học 2021 –
2022 thu được kết quả như sau:
Tổng số

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

HS

SL

%

SL

%

SL

%

75

25

33,3


35

46,6

15

20

4

skkn


Từ kết quả thực trạng trên cho thấy chất lượng học tập của học sinh còn
nhiều hạn chế, chưa phát huy được tính tích cực trong học tập, với mong muốn
giúp học sinh mạnh dạn, tự tin phát huy tính sáng tạo, năng khiếu của mình
trong mơn Mỹ thuật, giúp các em nhận biết và vẽ được những bức tranh đẹp
theo cảm nhận riêng của mình tơi đã mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện đề tài:
“Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật giúp học sinh khối 4 trường tiểu học
Nga Phượng 1 phát huy tính tích cực theo phương pháp Đan Mạch”.
2.3. Các giải pháp thực hiện :
Giải pháp 1: Lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa học và đảm bảo đúng
tinh thần đổi mới theo phương pháp của SAEPS.
* Mục đích: Lập kế hoạch dạy chi tiết từng hoạt động giúp giáo viên chủ động
và ứng phó kịp thời, đúng đắn các tình huống sư phạm có thể xảy ra trên lớp.
* Giải pháp thực hiện: Có thể nói việc lập kế hoạch giảng dạy tốt là đã
thành cơng một nửa của q trình dạy học. Giáo viên là người điều khiển quá
trình và tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy bằng các câu hỏi mở và
khuyến khích các em chia sẻ những kinh nghiệm sẵn có của mình. Điều này tạo
ra nền tảng cần thiết để giúp các em kiến tạo được quy trình học tập của mình

bằng cách liên hệ những điều đã biết với những điều sẽ học. Khi lập kế hoạch
giáo viên phải căn cứ vào tình hình thực tế của lớp để điều chỉnh, thay đổi cho
phù hợp và sát với khả năng tiếp thu của học sinh. Kế hoạch cho từng hoạt động
hoặc cho toàn bộ quy trình theo phương pháp Đan Mạch có thể ngắn, dài và kết
nối, liên kết, xâu chuỗi các hoạt động quy trình với nhau, kết thúc hoạt động này
sẽ là mở đầu cho hoạt động tiếp theo… Cụ thể khi xây dựng kế hoạch dạy học
theo phương pháp mới, giáo viên cần phải chú ý tới:
- Mục tiêu bài học: Mỗi bài học, tiết học đều có mục tiêu chung là hướng
tới hình thành cho học sinh phát huy khả năng tưởng tượng, sáng tạo và năng
lực diễn đạt bằng lời nói, học sinh tưởng tượng và sáng tạo được một câu
chuyện bằng ngôn ngữ mĩ thuật. Tuy nhiên, giáo viên vẫn cần xác định rõ mục
tiêu cụ thể của bài học đó là học sinh hiểu được gì? Thực hiện như thế nào và
làm được gì? Ví dụ nếu là chủ đề Ngôi nhà của em:
Mục tiêu là: Giúp học sinh phát triển được khả năng quan sát và phát hiện về
hình khối đơn giản xung quanh mình. Học sinh xử dụng được các hình khối để tạo
nên các hình dáng đơn giản, cụ thể về ngơi nhà và khung cảnh xung quanh. Học
sinh phát huy khả năng tưởng tượng, sáng tạo và năng lực diễn đạt bằng lời nói.
- Nội dung chủ đề: Nội dung các chủ đề phải vừa sức học sinh, phù hợp
với tâm lý lứa tuổi của các em.
- Điều kiện tiên quyết: Đó là những u cầu thiết yếu để q tình giảng
dạy có hiệu quả, bao gồm: Tạo điều kiện để học sinh học qua nhiều kênh; chú ý
khả năng, phong cách học của từng học sinh; kết hợp kiến thức của bản thân học
sinh và chiến lược học tập; xây dựng môi trường học tập thân thiện, truyền cảm
hứng cho các em.
- Môi trường học tập: Học tại lớp, môi trường học tập thoải mái sẽ hỗ trợ
rất nhiều cho quá trình dạy và học.
5

skkn



- Quá trình học: Mỗi quá trình học là một sâu chuỗi các hoạt động diễn ra.
- Đánh giá: Đánh giá từng giai đoạn và đánh giá cả quá trình thực hiện.
Môn Mĩ thuật là môn dành thời gian chủ yếu cho học sinh thực hành, do
vậy giáo viên cần thiết kế tổ chức các hoạt động trải nghiệm phong phú, đa dạng
nhưng không quá dài, mất nhiều thời gian. Tuyệt đối không đưa ra tranh vẽ, sản
phẩm làm mẫu để học sinh quan sát trước khi thực hành mà phải để học sinh chủ
động tích cực tìm hiểu và tham gia vào quá trình tranh luận, thảo luận, bàn bạc
khi làm việc cùng các bạn. Để thực hiện việc lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa
học và đảm bảo đúng tinh thần đổi mới theo phương pháp của SAEPS, giáo viên
cần tiến hành như sau:
a. Dự kiến các hoạt động dạy-học diễn ra theo trình tự hợp lý và nối
tiếp nhau.
Mỗi tiết dạy, mỗi giai đoạn của một quy trình đều có những hoạt động và
mục tiêu giáo dục khác nhau, do đó địi hỏi giáo viên phải xây dựng và đề ra
những nội dung công việc cụ thể, hình thức học tập, cách thực hiện...
Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học (máy nghe nhạc, bìa cứng,
tranh ảnh, giấy A0…) vận dụng các phương pháp dạy học tích cực hợp lí, nối
tiếp nhau, tơi thấy học sinh nắm bắt bài một cách chủ động, tạo khơng khí thoải
mái trong giờ học đồng thời phát huy hết khả năng sáng tạo của các em với
nhiều hình thức khác nhau như vẽ, xé dán, nặn,…tạo ra sự đa dạng hóa sản
phẩm đáp ứng tốt mục tiêu bài học.
b. Dự kiến cách giới thiệu bài phong phú, đa dạng để lơi cuốn học sinh
tham gia tích cực vào tiết học.
Nhiều giáo viên quan niệm: Giới thiệu chỉ cần ngắn gọn, cứ nêu ngay tên
bài là xong mà chưa chú ý nhiều đến tác dụng giáo dục của việc này. Nếu làm
phép thử nghiệm để so sánh giữa hai hình thức giới thiệu bài trực tiếp và giới
thiệu bài gián tiếp sẽ thấy rõ ngay hiệu quả như thế nào.
Ví dụ khi giới thiệu chủ đề Em và những con vật nuôi:
+ Cách 1:

- Giới thiệu trực tiếp: Hơm này cơ và các em cùng tìm hiểu về chủ đề Em
và những con vật nuôi.
- Hiệu quả: HS nắm được tên bài học. Khơng khí lớp học khơng thay đổi,
học sinh chăm chú nghe nhưng chưa nắm được thêm bất cứ kiến thức gì ngồi
tên bài.
+ Cách 2:
- Giới thiệu gián tiếp: Giáo viên tổ chức trò chơi ô chữ đoán tên con vật
(chú ý chỉ nêu tên và hình con vật ni), gợi ý HS tìm chữ. Khi học sinh đốn
đúng thì hình con vật được lật ra. Kết thúc trò chơi, giáo viên giới thiệu: Đây là
những con vật quen thuộc. Để giúp các em có thể tạo hình được những con vật
ni mà mình thích, hơm nay thầy và các em cùng tìm hiểu qua chủ đề Em và
những con vật nuôi.

6

skkn


Trị chơi ơ chữ và tranh minh họa cho ơ chữ
- Hiệu quả: học sinh nắm được tên bài học, biết được những con vật nào là
vật ni, khơng khí lớp học sinh động, học sinh thích thú khi được tham gia trò
chơi. Vậy nên giáo viên cần chú ý giới thiệu bài thơng qua nhiều hình thức như:
thơng qua trò chơi, kể một câu chuyện nhỏ, tạo dáng, trải nghiệm thực tế…vừa
tạo hứng thú học tập cho học sinh vừa cung cấp kiến thức một cách dễ hiểu nhất
và gây tâm lý chờ đón, hồi hộp cho học sinh, không nên “đi ngay” vào nội dung.
c. Xây dựng các nội dung giúp học sinh trải nghiệm.
Học sinh thích học thông qua các họat động nên giáo viên không nên sử
dụng hình thức thuyết giảng mà nên dạy học tích cực, dạy học tương tác, lý
thuyết gắn với thực hành. Học sinh được nói, được làm và vận dụng ngay thì sẽ
dễ dàng tiếp thu kiến thức và nhớ lâu bền. Trong giáo dục mĩ thuật, học sinh

được phát triển khơng ngừng và có sự khác biệt ở mỗi em về khả năng quan sát,
trí tưởng tượng, trí nhớ, cách thức thể hiện con người, con vật, đồ vật về hình
dáng, đặc điểm, cấu trúc, tỉ lệ...Học sinh được kích thích thơng qua các khả năng
của bản thân cũng như trải nghiệm với người khác như: những thành viên trong
gia đình, bạn bè và thậm chí những người mới quen biết, với con vật yêu thích,
đồ vật thân quen. Học sinh bị ảnh hưởng thông qua tiếp xúc với sự vật, hiện
tượng xung quanh thông qua các kênh thông tin như: ti vi, tạp chí, sách vở,
truyện tranh, quảng cáo, internet và các tác phẩm điêu khắc công cộng. Dần dần
học sinh nhận biết được những cách thức thể hiện hình ảnh con người khác nhau
về hình dáng, cấu trúc, tỉ lệ như: phác họa con người, biểu cảm của nhân vật,
biểu tượng người khái quát... Do đó việc để học sinh trải nghiệm rất quan trọng,
tùy theo từng chủ đề mà giáo viên lựa chọn các hoạt động cho phù hợp giúp học
sinh nhớ lại kiến thức, những kỷ niệm và tưởng tượng, đồng thời cho các em cơ
hội chia sẻ những gì các em đã biết khi trình bày về sở thích, mối quan tâm, mơ
ước hay ý tưởng. Qua q trình này học sinh sẽ có được những kiến thức thực tế
để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tị mị, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát
triển sức sáng tạo và biểu đạt thông qua việc được nghe kể chuyện, chia sẻ
những trải nghiệm của bản thân về chủ đề liên quan, xem tranh ảnh, hoặc tổ
chức các trò chơi phù hợp với từng lớp học.
7

skkn


Ví dụ: Ở chủ đề Sự chuyển động của dáng người giáo viên tổ chức cho học
sinh tạo dáng sẽ thấy ngay hiệu quả bất ngờ. Vì tạo dáng gây hứng thú học tập,
giúp cho học sinh nâng cao hiểu biết về những tình huống sự kiện từ đời sống
hàng ngày của các em. Học sinh tự tạo lại các dáng hoạt động từ những tình
huống trong hoạt động chơi, làm việc hoặc học tập. Các em dễ dàng nắm bắt
được hình dáng, tư thế của người khi hoạt động để vẽ.


Học sinh khối 4 đang thực hiện tạo dáng hoạt động để tạo ngân hàng hình ảnh.
d. Tổ chức hình thức học tập theo quy trình hiệu quả nhất.
Mỗi quy trình theo phương pháp Đan mạch đều có mục tiêu giáo dục khác
nhau để giúp học sinh có thể phát triển khả năng tự học. Khi lựa chọn quy trình
cần chú ý sắp xếp trình tự các bước sao cho có sự kết hợp hài hồ giữa phương
pháp, nội dung và hình thức tổ chức lớp học. Vì nếu lựa chọn quy trình khơng
phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng học sinh học tập chán nản, thiếu ý tưởng sáng tạo.
Ví dụ: nếu là chủ đề con vật thì chỉ nên vận dụng quy trình tạo hình 3D (nặn)
hoặc Vẽ cùng nhau, cịn quy trình Tạo hình từ vật tìm được là khơng thể thực
hiện được.

8

skkn


Sản phẩm nặn theo chủ đề của học sinh
e. Kế hoạch giảng dạy một chủ đề (giáo án):
Mặc dù không có bất cứ một hướng dẫn cụ thể nào về việc xây dựng kế
hoạch dạy học, nhưng theo chúng tôi mỗi chủ đề cần được thực hiện các tiết
theo thứ tự như sau:
- Tiết 1: Học sinh tìm hiểu về chủ đề thông qua các hoạt động trải nghiệm,
tham quan, quan sát thực tế…để hình thành ý tưởng cho tác phẩm của mình.
- Tiết 2: Học sinh thể hiện ý tưởng thơng qua việc tạo hình 2D (vẽ biểu đạt,
tạo ngân hàng hình ảnh)
- Tiết 3: Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm (vẽ cùng nhau, vẽ theo
nhạc, tạo hình 3D…) Thuyết trình các sản phẩm mà cá nhân hoặc nhóm thực
hiện xong.


Học sinh lớp 4B trưng bày và thuyết trình sản phẩm
* Kết quả sau khi áp dụng giải pháp: Giáo viên khơng cịn lúng túng khi
lên lớp, các hoạt động diễn ra theo trình tự một cách khoa học và gắn kết với
nhau. Học sinh dễ tiếp thu bài hơn, hiệu quả sáng tạo tăng lên rõ rệt.
Giải pháp 2: Vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới phù hợp với
khả năng nhận thức của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
* Mục đích: Tạo cơ hội cho học sinh thích học và học thực sự dựa trên
những gì các em đã biết, những gì liên quan đế sở thích của các em.
* Giải pháp thực hiện: Bảy quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới bao
gồm:
9

skkn


1. Quy trình Vẽ cùng nhau và sáng tạo các câu chuyện.
2. Quy trình Vẽ biểu cảm.
3. Quy trình Trang trí và vẽ tranh qua âm nhạc.
4. Quy trình Xây dựng cốt truyện.
5. Quy trình Tạo hình từ dây thép và vật tìm được.
6. Quy trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình khơng gian.
7. Quy trình Tạo hình con rối và biểu diễn nghệ thuật.
Giáo viên tạo hứng thú cho học sinh bằng cách lập nên các quy trình dạy học mĩ thuật tích hợp, linh hoạt theo chủ đề liên quan đến kinh nghiệm cá nhân,
tâm lý lứa tuổi và kiến thức của học sinh. Tùy điều kiện cơ sở vật chất mà giáo
viên tổ chức các hoạt động học tập vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới.
Khi thực hiện tích hợp các quy trình dạy - học giáo viên cần chú ý:
- Xây dựng dựa trên những gì học sinh đã biết, và những gì liên quan đến
sở thích, mối quan tâm của các em.
- Để học sinh chủ động trong quá trình học tập.
- Tạo điều kiện cho học sinh sáng tạo, giao tiếp và thể hiện.

- Hình thành cho học sinh những kĩ năng cần thiết như: nói, trình bày và
làm việc cùng nhau
- Giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh thích học và học thực sự thơng qua
việc học sinh tự làm và thích làm, bởi vì quy trình dạy - học mĩ thuật đó có liên
hệ và gắn với cuộc sống hàng ngày và quá trình học tập của các em, sẽ phát triển
thêm những kỹ năng sống mới cho các em như.
+ Năng lực giao tiếp được phát triển thơng qua việc thảo luận, làm việc
nhóm.
+ Năng lực đánh giá được phát triển qua quá trình quan sát,trải nghiệm và
thưởng thức các sản phẩm mĩ thuật do chính các em tạo nên…
Ví dụ: Giáo viên và học sinh đánh giá kết quả làm việc khi các nhóm học
sinh thuyết trình về tác phẩm của mình. Để diễn giải, phân tích và khuyến khích
các em đưa ra phản hồi và hội thoại với nhau về tác phẩm, giáo viên có thể sử
dụng phương pháp phỏng vấn, tìm kiếm hình ảnh tưởng tượng qua khung hình
trên bức tranh màu sắc trừu tượng, đóng kịch, di chuyển vị trí nhân vật trong
tranh, nhân cách hố hình ảnh, hoặc vẽ lại một tác phẩm nghệ thuật...Mỗi nhóm
học sinh trình bày câu chuyện của mình giống như một vở kịch ngắn. Học sinh
sẽ thảo luận và đánh giá các hoạt động tại lớp học. Trong suốt quy trình, giáo
viên và học sinh có thể thảo luận mục đích và kết quả qua từng bước sáng tạo từ
đầu cho đến khi có sản phẩm cuối cùng. Sau mỗi quy trình, giáo viên và học
sinh sẽ đánh giá chất lượng của mỗi sản phẩm được tạo ra cũng như hiệu quả
xuyên suốt quá trình học tập.
Tuy nhiên, do cơ sở vật chất, không gian học tập, khả năng nhận thức của
học sinh lớp Một, Hai, Ba chưa thể đáp ứng được yêu cầu khi dạy theo phương
10

skkn


pháp mới nên giáo viên chỉ có thể áp dụng 5 quy trình, cịn 2 quy trình Điêu

khắc – Nghệ thuật tạo hình khơng gian, Tạo hình con rối và biểu diễn nghệ thuật
chỉ có thể thực hiện ở các khối lớp 4, 5. Cụ thể thực hiện các quy trình như sau:
- Vẽ cùng nhau: Học sinh biến những quan sát của mình thành các bức vẽ
cá nhân. Tất cả các bài vẽ cá nhân sẽ là ngân hàng hình ảnh của nhóm để các em
lựa chọn, sắp xếp theo một câu chuyện và vẽ cùng nhau, tạo thành một tác phẩm
lớn hơn. Đúng ra là học sinh sẽ vẽ cùng nhau trên khổ giấy A0 hoặc A3 nhưng
do điều kiện khó khăn của học sinh nên giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn
bị một vở vẽ khổ A4 và giấy A4 để vẽ. Khi tạo ngân hàng hình ảnh, các em sẽ
vẽ vào vở, khi vẽ cùng nhau sẽ vẽ vào giấy A4 (vẽ theo nhóm 2 hoặc nhóm 4).
Điều này cũng ít nhiều làm ảnh hưởng đến sự kết hợp của các em trong hoạt
động nhóm do giấy quá nhỏ, chỉ phù hợp ở nhóm 2 và 3 nhưng thực tế chỉ có thể
như vậy. Do điều kiện kinh tế nhiều học sinh cịn khó khăn nên việc chuẩn bị
giấy vẽ nhiều khi chưa đáp ứng được nhu cầu học tập. Để khắc phục vấn đề này,
giáo viên nên kêu gọi sự hỗ trợ của các đồng nghiệp trong nhà trường, thu gom
các giấy khổ A4 đã qua sử dụng in 1 mặt cho học sinh vẽ vừa khơng để lãng phí
vừa giúp ích rất nhiều cho các em.

Học sinh lớp 4A thực hiện Quy trình “Vẽ cùng nhau”
- Vẽ biểu cảm: Học sinh sẽ tập trung quan sát, sử dụng kết hợp mắt và tay,
vẽ khơng nhìn giấy. Học sinh thường sợ vẽ khơng đúng, khơng đẹp nên hay lén
nhìn giấy, nên giáo viên cần lưu ý ngay từ đầu rằng, mục đích khơng phải vẽ cho
đúng với mẫu mà chúng ta quan sát, ghi nhớ và truyền cảm xúc qua tay, thể hiện
lên giấy tạo ra bức vẽ ấn tượng và hài hước. Đồng thời giáo viên cần khuyến
khích, tuyên dương các em học sinh vẽ đúng yêu cầu của phương pháp, không
nh́ n giấy khi vẽ để các em còn lại cố gắng thực hiện theo.
- Vẽ theo nhạc: Khi vẽ theo nhạc, nếu có phịng chức năng thì giáo viên
nên tổ chức cho học sinh đứng xung quanh mép bàn theo từng nhóm (có từ 5 em
trở lên), trước mỗi học sinh là một bảng màu. Giáo viên lựa chọn nhạc (nhạc
khơng lời, nhạc thiếu nhi..), tuy nhiên tùy theo tình hình thực tế có thể dùng
nhạc có lời, tiếng vỗ tay, nghe hát…từ nhẹ nhàng chuyển sang nhanh, mạnh, sôi

11

skkn


nổi. Học sinh lắng nghe và cảm nhận giai điệu, vẽ theo hướng dẫn của giáo viên:
thứ tự các màu từ sáng sang đậm. Ví dụ: Theo thứ tự vàng, đỏ, cam, xanh… và
kết thúc bằng màu đen. Sau khi hoàn thành bức tranh lớn, giáo viên yêu cầu học
sinh quan sát và tưởng tượng theo mức độ cảm nhận: Em nhìn thấy gì trong
tranh? Em nghĩ đến đề tài nào? Từ đó giáo viên gợi ý học sinh sáng tạo từ thế
giới tưởng tượng của mình để bắt đầu quy trình: lựa chọn một phần tranh trong
bức tranh lớn làm tác phẩm của mình. Học sinh có thể vẽ thêm vào để làm nổi
bật nội dung chủ đề hoặc bỏ bớt các chi tiết, để cuối cùng tác phẩm đạt được có
thể là: bưu thiếp, thiệp mừng, bìa sách, họa tiết trang trí đồ vật, tranh đề
tài…Nhưng nếu khơng có phịng chức năng thì giáo viên cũng có thể tổ chức
cho học sinh vẽ theo nhạc bằng cách: yêu cầu các em đứng tại chỗ vẽ và vận
động theo nhạc trên khổ giấy A3, A4.
- Xây dựng cốt truyện: Khi chọn nội dung để xây dựng cốt truyện, giáo
viên cần lưu ý về nhân vật, bối cảnh, sự kiện… phải phù hợp tâm lý lứa tuổi của
các em. Tình huống truyện dễ hình dung, dễ trình bày để học sinh có thể sắm
vai, đóng kịch và xây dựng ố cảnh bằng hình thức vẽ, cắt dán, xé dán, tạo hình
3D…Ví dụ một số nội dung như: lao động làm vệ sinh, biểu diễn văn nghệ…
* Kết quả sau khi áp dụng: Hầu hết HS đều biết chủ động trong quá trình
học tập, tự tin trước lớp, giao tiếp tiến bộ, năng lực sáng tạo, biểu đạt có tiến bộ
rõ rệt.

Học sinh Lớp 4A thực hiện Quy trình “Xây dựng cốt truyện”
Giải pháp 3: Xây dựng bầu khơng khí lớp học thân thiện, đưa các nội
dung của môn mĩ thuật theo phương pháp Đan mạch vào các hoạt động
Ngoài giờ lên lớp( NGLL).

* Mục đích: Ngồi việc dạy học trên lớp thì hoạt động NGLL vơ cùng cần
thiết trong q trình dạy học – giáo dục ở nhà trường, hai bộ phận này hỗ trợ cho
nhau không thể tách rời, giúp học sinh cảm nhận được sự thoải mái khi việc học
của mình vừa gắn kết với kiến thức trong sách vở, vừa thông qua sự trải nghiệm
của bản thân trong các hoạt động tập thể.

12

skkn


* Giải pháp thực hiện:
a. Xây dựng bầu khơng khí học tập thân thiện:
Để học sinh tự tin hơn khi thực hiện các sản phẩm của mình thì rất cần một
mơi trường học tập thân thiện đó là:
- Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn.
- Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi
địa phương, giúp các em tự tin trong học tập.
- Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Do đó muốn xây dựng mơi trường học tập thân thiện thì cũng phải thực
hiện tốt các nội dung trên, nhưng ở phạm vi lớp học và tùy tình hình học sinh,
cơ sở vật chất…mà giáo viên tổ chức cho phù hợp. Trước hết giáo viên cần thể
hiện phong cách giao tiếp thực sự tôn trọng học sinh. Tất cả bề ngồi hình thức
như dáng đi, đứng, cử chỉ, điệu bộ, thái độ, ngôn ngữ …đều phải thể hiện được
sự thân thiện. Luôn giao tiếp thân thiện với học sinh trong mọi tình huống.

Ảnh trường lớp xanh, sạch, đẹp, gọn gàng và thân thiện
Mặt khác Mĩ thuật là một bộ môn phụ thuộc nhiều vào năng khiếu của từng
cá nhân, do đó giáo viên khơng nên địi hỏi q nhiều ở các em. Học sinh hoàn
thành sản phẩm đúng theo nội dung chủ đề, qua mỗi giờ học các em có thể nhận

xét, đánh giá cái đẹp - cái chưa đẹp đã là thành công. Mỗi lời động viên, khích lệ
dù rất nhỏ của giáo viên cũng có thể là một động lực lớn để các em cố gắng.
b. Lồng ghép các hoạt động NGLL của học sinh trường tiểu học Nga
Phượng 1.
Bên cạnh hoạt động học là chủ đạo thì tơi đã mạnh dạn lồng ghép các hoạt
động vui chơi bổ ích cho học sinh thơng qua các ngày kỉ niệm, lễ lớn trong năm
như 20/ 11, ngày 22/12…tổ chúc cho học sinh tham quan cuộc thi khắc dưa hấu
trong lễ hội Mai An Tiêm, giúp các em nhớ về nguồn cuội, q hương mình.
- Lựa chọn trị chơi vừa sức với học sinh. Các em học đấy nhưng phải vui,
khi vui thích thì việc học tập sẽ là tự nguyện, khơng bị gị ép, thúc bách. Khi học
mà như chơi thì việc học sẽ trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, học sẽ trở thành là một
trong những nhu cầu của học sinh. Song cần tìm những trị chơi sao cho nhiều
em được tham gia sẽ phát huy tính tích cực hơn. Giáo viên cần lưu ý cần lựa
chọn các trò chơi làm cho học sinh tự khám ra nội dung bài học một cách chủ
động, thích thú và ghi nhớ được kiến thức một cách tự nhiên và sâu sắc. Trò
13

skkn


chơi có chứa đựng những chủ đề, nội dung nhất định, có những quy chế nhất
định mà học sinh phải tn thủ. Trị chơi vừa mang tính chất vui chơi giải trí
song đồng thời lại có ý nghĩa giáo dục. Dạy học bằng phương pháp tổ chức trò
chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung
gắn liền với bài học. Trị chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh hăng say
vào học tập, chống mệt mỏi, tránh làm cho tiết học nặng nề nhàm chán, tăng
cường khả năng thực hành kiến thức của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói
quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh, lôi cuốn các em vào những
hoạt động học tập.


Học sinh tham gia các hoạt động vui chơi và lễ hội truyền thống
- Tổ chức vào thời điểm thích hợp. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường
tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức
cho học sinh chơi các trị chơi để giới thiệu bài hay hình thành kiến thức, kỹ
năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài
học mới. Do đó giáo viên nên linh hoạt tổ chức ở những thời điểm khác nhau
nhằm tạo sự bất ngờ và giảm căng thẳng của giờ học.
Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần đánh giá cao phần tham gia của các đội,
không làm qua loa đại khái, có khen thưởng, tuyên dương kịp thời cũng là một
biện pháp làm cho học sinh thêm tích cực vì em nào cũng thích được khen, được
thầy cơ qun tâm đến việc làm của mình. Bên cạnh đó cần động viên những đội
còn lại để các em cố gắng hơn ở lần sau. Sau mỗi lần chơi giáo viên cần nhận
xét đánh giá kết quả của học sinh. Dựa vào yêu cầu, nội quy chơi, kết quả cuộc
14

skkn


chơi giáo viên đánh giá cuộc chơi và phân loại thắng thua thật công bằng, rõ
ràng. Giáo viên phải hết sức lưu ý vấn đề này vì đơi khi có giáo viên nêu yêu
cầu và luật chơi rất khắt khe nhưng khi đánh giá kết quả lại đại khái, khơng
chính xác hoặc khơng cơng bằng vì vậy sẽ làm cho học sinh mất phấn khởi, đôi
khi các em biểu lộ sự phản đối với sự đánh giá đó và khơng chấp nhận kết luận
của giáo viên. Để đánh giá đúng thực chất của cuộc chơi, giáo viên phải thống
kê ra được những ưu điểm, nhược điểm của từng đội tham gia chơi. Tuy nhiên
vẫn cần sự đánh giá nhẹ nhàng mang tính chất động viên, khích lệ là chính,
tránh tình trạng đánh giá để các em buồn và xấu hổ với bạn bè khi khơng thắng
trị chơi.
* Kết quả sau khi áp dụng: Nhiều học sinh hăng hái phát biểu và thích
được phát biểu, thích tham gia nhận xét, đánh giá, hứng thú tham gia trò chơi

học tập. Đặc biệt các em tập trung trong học tập hơn, khơng cịn hiện tượng nói
chuyện riêng, làm việc riêng trong giờ học.
Giải pháp 4: Tăng cường nhận xét, đánh giá học sinh.
* Mục đích: Nhận biết được điểm mạnh, điểm yếu của học sinh để có biện
pháp cải thiện, hồn thiện phương thức dạy và học để phát triển năng lực của
học sinh.
* Giải pháp thực hiện: Việc đánh giá quá trình và kết quả học tập của học
sinh là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên được thực hiện ở các tiết cuối
của mỗi chủ đề (hoạt động Trưng bày sản phẩm). Nó khơng đơn thuần là thực
hiện một quy định bắt buộc để giáo viên ghi nhận vào Sổ theo dõi mà dựa vào
đó giúp giáo viên nắm được năng lực, khả năng phối hợp của từng học sinh, từ
đó có kế hoạch tổ chức dạy - học phù hợp và hiệu quả. Giáo viên không được
đưa ra bất cứ một nhận xét nào về sản phẩm của các em. Mà tùy theo từng sản
phẩm, giáo viên gợi ý các em có nên thêm vào, hay bỏ bớt các hình ảnh, nên
chỉnh sửa hay thay đổi gì để tác phẩm đẹp hơn, từ đó các em tự rút ra được kiến
thức và kinh nghiệm cho bản thân ở lần sau. Mặt khác cần theo dõi, đánh giá
học sinh trong suốt q trình tham gia các hoạt động chứ khơng chỉ là dựa trên
đánh giá sản phẩm chung của nhóm. Mỗi học sinh có năng lực, sở trường riêng
nên giáo viên cần quan tâm theo dõi để có những nhận xét, đánh giá cho hợp lý
và đảm bảo khách quan. Giáo viên cần quan sát thái độ học tập và làm việc
trong các nhóm, đánh giá sự tiến bộ của nhóm trên cơ sở thu thập những thông
tin về sự tiến bộ của mỗi thành viên trong nhóm. Sản phẩm của nhóm thể hiện
q trình trao đổi, trình bày ý kiến và kỹ năng hợp tác của từng thành viên. Do
đó việc nhận xét q trình làm việc của nhóm khơng nên qua loa, đại khái. Càng
đưa ra nhận định cụ thể càng giúp học sinh tích lũy nhiều kinh nghiệm cho
những lần làm việc sau. Những tiêu chí nhận xét cần thiết phải có:
- Sự phân cơng trong nhóm.
- Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên trong quá trình thực hiện.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Thời gian hoàn thành sản phẩm.

- Kĩ năng trình bày nội dung tranh vẽ trước lớp.

15

skkn


Việc đánh giá kết quả không chỉ dựa trên thành tích chung của cả nhóm mà
cịn dựa trên sự đóng góp của từng thành viên trong nhóm. Để thực hiện việc
đánh giá đảm bảo công bằng, đúng thực tế, giáo viên cần có sổ tay theo dõi ghi
nhận ngay những cá nhân tích cực, cá nhân thụ động hay sáng tạo, những nhóm
làm việc hiệu quả…Khi thực hiện việc đánh giá, giáo viên cần nêu rõ những mặt
được và chưa được để học sinh nắm và thực hiện tốt hơn. Bên cạnh việc tuyên
dương những học sinh tích cực, giáo viên cũng cần nghiêm khắc nhắc nhở
những học sinh chưa tập trung, hay nói chuyện, làm việc riêng…để các em có
trách nhiệm và ý thức hơn.
Khi đánh giá hoạt động của một nhóm, giáo viên cũng cần lưu ý tới những
tiến bộ của các em. Bởi vì sự tiến bộ đó thể hiện tinh thần, thái độ tiếp thu bài
học có hiệu quả mà các em đạt được. Sản phẩm của một nhóm thường là hồn
thành tốt thì khơng có gì phải bàn, nhưng có nhiều trường hợp ở hoạt động trước
các em chỉ hoàn thành hoặc chưa hoàn chỉnh, ở hoạt động sau lại có sản phẩm
nổi trội hoặc xuất sắc thì rất cần sự ghi nhận của giáo viên. Đó chính là động lực
để các em có tinh thần học tập tốt hơn ở các hoạt động sau.
Hiện tại việc đánh giá môn học được thực hiện theo thơng tư 30, do đó
đánh giá hoạt động nhóm là một phần quan trọng để làm căn cứ cho giáo viên
thực hiện đúng thực chất, công bằng và khách quan. Nhất là đối với nội dung
năng lực và phẩm chất, nếu giáo viên chỉ dựa trên cơ sở là sản phẩm mĩ thuật
của các em là chưa đủ, chưa chính xác, mà phải dựa trên nhiều yếu tố như: Khả
năng kết hợp với bạn, khả năng giao tiếp, tính tích cực, sáng tạo…Chính vì vậy,
giáo viên cần coi trọng khâu đánh giá hoạt động nhóm của học sinh trong các

giờ học, để đảm bảo các yêu cầu về chuyên môn, đạt mục tiêu giáo dục của môn
học Mĩ thuật trong trường Tiểu học nói chung, Mĩ thuật 4 nói riêng.
* Kết quả sau khi áp dụng: Học sinh tích cực tham gia các hoạt động của
nhóm hơn, nhiều em đã biết khắc phục và khắc phục được những hạn chế của
bản thân, sáng tạo nhiều sản phẩm mĩ thuật độc đáo và đẹp mắt.
Giải pháp 5 : Tạo hứng thú cho học sinh qua việc sử dụng các vật liệu
tự nhiên sẵn có vào các quy trình dạy học.
* Mục đích của giải pháp: Giúp các em hứng thú khi tham gia các hoạt
động tạo hình, phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, hứng thú khi tham gia
các hoạt động tạo hình phát huy hết khả năng sáng tạo của mình. Hình thành và
phát triển kỹ năng tạo hình của trẻ thơng qua việc sử dụng các ngun vật liệu tự
nhiên sẵn có. Nâng cao chất lượng giảng dạy hoạt động tạo hình trong trường
Tiểu học.
* Giải pháp thực hiện:
Giáo viên hướng dẫn các em làm ra nhiều sản phẩm tạo hình từ các
nguyên vật liệu tự nhiên sẵn có theo các chủ đề khác nhau. Phát huy khả năng
sáng tạo và tích cực hoạt động để trẻ được phát triển các kỹ năng tạo hình một
cách tự nhiên. Hình thức tổ chức hoạt động tạo hình linh hoạt, sinh động tạo môi
trường cho trẻ được trải nghiệm với nhiều nguyên vật liệu sẵn có khác nhau
Để thực hiện tốt được hoạt động tạo hình cần phải chuẩn bị đa dạng các
nguyên vật liệu. Chúng ta có thể sưu tầm, tận dụng các nguyên vật liệu tự nhiên
16

skkn


sẵn có, dễ tìm ở địa phương, rẻ tiền và gần gũi với trẻ như: Sách báo cũ, len, vải
vụn, hột hạt khô, vỏ chai, lọ, lá khô, rơm, bẹ chuối, ống hút, nắp chai, nút áo….
Yêu cầu khi lựa chọn nguyên vật liệu sẵn có: Nguyên vật liệu sử dụng
làm đồ chơi phải được vệ sinh sạch sẽ khô ráo và đảm bảo an tồn cho trẻ:

Khơng độc hại, khơng sắc nhọn, kết dính chắc chắn...Lựa chọn ngun vật liệu
có màu sắc đa dạng, thiết kế có kích thước phù hợp lứa tuổi, có độ bền, dễ làm
và dễ sử dụng.
Việc cho các em tiếp xúc với các nguyên vật liệu tự nhiên lúc đầu cũng
gặp khó khăn như là các em cịn lúng túng chưa hình dung ra là mình sẽ tạo
hình từ các nguyên vật liệu như thế nào, do đó chúng tơi đã cho các em làm
quen một số đồ dùng đồ chơi được chế tạo từ các nguyên vật liệu sẵn có, sản
phẩm của học sinh khóa trước để từ đó kích thích sự hứng thú của các em tạo
hình từ các nguyên vật liệu ngồi ra chúng tơi cịn khuyến khích các em tạo ra
nhiều mảng trang trí các góc học tập trong lớp nhằm các em tiếp xúc nhiều tác
phẩm tạo hình. Tùy theo chủ đề mà chúng ta tạo các góc với các bức tranh và
những đồ dùng theo ý riêng của mình. Việc bố trí và sắp xếp cũng tạo cho các
em cảm giác thoải mái khi các em quan sát và tiếp tục đến các vật liệu đó một
cách dễ dàng hơn.
Ví dụ: Ở Chủ đề Sáng tạo họa tiết, tạo dáng và trang trí đồ vật giáo cho
học sinh tìm hiểu về các đồ vật trong gia đình và xung quanh các em, có rất
nhiều đồ vật được tạo dáng đẹp và phong phú. Học sinh tìm hiểu và kể lại các
họa tiết, đặc điểm họa tiết. Gợi ý học sáng tạo và sử dụng linh hoạt, sáng tạo các
chất liệu khác để tạo họa tiết như in lá, cắt mút, đính hạt, vỏ sị, hột hạt, đá sỏi,
tạo dáng từ các vật liệu dễ tìm và trang trí theo ý thích và phù hợp để sản phẩm
thêm phong phú và hiệu quả khi sử dụng.
Giáo viên có thể đưa ra ý tưởng thì các em có thể tự đưa ra ý tưởng và
cùng ngồi thảo luận với các bạn để thực hiện theo nhóm hoặc cá nhân. Các em
sẽ là người chủ động trong tất cả, giáo viên chỉ có thể là người hướng dẫn và
người bạn, chứ không thể nào làm hộ, thay, khi các em thực hiện giáo viên kịp
thời đặt ra những câu hỏi kích thích sự sáng tạo của các em để các em có thể tạo
ra những sản phẩm mới lạ hơn.
* Kết quả sau khi áp dụng giải pháp
Qua áp dụng giải pháp: “Tạo hứng thú cho học sinh qua việc sử dụng các
vật liệu tự nhiên sẵn có vào các quy trình dạy học” chúng tơi nhận thấy giải

pháp này dễ thực hiện, mang lại hiệu quả cao, không tốn kém chi phí nhiều và
dễ dàng vận dụng và đạt hiệu quả trong việc tổ chức hoạt động tạo hình ở các
khối lớp học. Các em đều hứng thú, say mê, sáng tạo trong giờ học, tạo ra nhiều
sản phẩm lạ, thể hiện được ý tưởng và cảm xúc riêng của mình. Rèn sự khéo léo
đơi tay các em, hình thành thói quen làm việc có mục đích và tính độc lập của
các em
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua việc học tập theo phương pháp mới giúp cho học sinh có được những
trải nghiệm để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tị mị, trí nhớ, trí tưởng
tượng và phát triển sức sáng tạo và biểu đạt, vì vậy học sinh sẽ có được những
hình ảnh và động lực mang tính tinh thần. Hạn chế được cảm giác lo sợ vì khơng
17

skkn


biết thể hiện của các em. Học sinh được bồi dưỡng rèn luyện óc quan sát, cách
so sánh sự vật hiện tượng, giúp các em tìm tịi thể hiện để vươn tới cái đẹp. Các
em cảm nhận được cái đẹp và chưa đẹp một cách rõ ràng qua việc nhận xét hình
ảnh, tranh vẽ…Biết tạo ra các sản phẩm làm đẹp phục vụ cho sinh hoạt như:
trang trí đồ vật, trang trí góc học tập…Một điều khơng thể khơng nhắc tới đó là
học sinh u thích mơn học hơn, vẽ một cách say sưa hơn, hứng thú với nhiều
sáng tạo, khiến cho tiết học trở nên thoải mái, nhẹ nhàng. Quan trọng hơn cả là
các em đã thấy tự tin khi vẽ, tạo được những câu chuyện ngộ nghĩnh mang hiệu
quả bất ngờ, đẹp mắt.
Số học sinh cịn tẩy xóa bài vẽ giảm đi đáng kể, hiện tượng sao chép cũng
khơng cịn. Đặc biệt là khơng có học sinh nào khơng hồn thành được bài thực
hành theo nội dung u cầu của bài học. Xem sản phẩm của các em chúng ta sẽ
thấy ngay những tiến bộ vượt bậc mà các em đã có được. Tính sáng tạo, độc đáo
được học sinh thể hiện qua từng chủ đề sinh động, phong phú và đa dạng.

Những bức tranh có tạo hình tự tin, ngộ nghĩnh xuất hiện ngày càng nhiều. Điều
quan trọng là giáo viên đã tạo được khơng khí hào hứng, say mê vẽ ở học sinh.
Với quyết tâm nâng cao chất lượng môn Mỹ thuật, bản thân tôi đã thực
hiện nghiên cứu và áp dụng đề tài và thu được kết quả thời điểm cuối tháng
3/2022 như sau:
Tổng số

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

HS

SL

%

SL

%

SL

%

75

50


66,6

25

33,3

0

0

MỘT SỐ SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH KHỐI 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC
NGA PHƯỢNG 1

18

skkn


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Qua quá trình áp dụng phương pháp dạy học Mĩ thuật mới tôi nhận thấy cái
hay của phương pháp này là đặt người học vào vị trí chủ động phải tìm hiểu vấn
đề và tìm ra cách giải quyết hiệu quả, sáng tạo nhất. Việc đáng giá học sinh cũng
khơng cịn bị đặt q nặng vào sản phẩm của các em mà nó được đánh giá dựa
trên cả quá trình mà các em tham gia. Đây là một chương trình giáo dục Mĩ
thuật Tiểu học năng động, phát huy, rèn luyện được nhiều kỹ năng cho học sinh,
đặc biệt là kỹ nãng sống. Giáo viên cần cho học sinh mang sản phẩm về nhà để
trưng bày thành góc Mĩ thuật ở gia đình, nhà trường có thể tổ chức triển lãm,
trưng bày sản phẩm của học sinh vào các ngày sinh hoạt tập thể. Tập cho học

sinh thói quen sưu tầm và cất giữ những vật dụng, vỏ hộp, chai nhựa khơng cịn
sử dụng để khi cần có thể sử dụng. Làm tốt cơng tác tư tưởng với phụ huynh để
phụ huynh tham gia chuẩn bị tốt họa phẩm và vật liệu phục vụ cho phương pháp
dạy Mĩ thuật Đan Mạch, có thể tận dụng tối đa các phương tiện, đồ dùng học tập
sẵn có, sử dụng linh hoạt các chất liệu học sinh đã có, hướng dẫn học sinh sưu
tầm các chất liệu sẵn có ở địa phương, những vật dụng bỏ đi để tạo ra nhiều chất
liệu phong phú trong các hoạt động dạy học Mĩ thuật.

19

skkn


3.2. Kiến nghị.
- Đối với Sở GD&ĐT: Cần đưa ra giáo án mẫu để giáo viên tham khảo, vì
như thực tế hiện nay mỗi giáo viên soạn theo cách riêng, mà không phải cách
nào cũng đảm bảo đúng và khoa học.
- Đối với Phòng GD&ĐT: Tổ chức tập huấn rút kinh nghiệm qua quá trình
áp dụng để giáo viên nắm vững thêm về phương pháp mới. Cần xây dựng nội
dung thành các tiết dạy minh họa nhằm định hướng tổ chức dạy học và chia sẻ
kinh nghiệm giữa các giáo viên chuyên.
Trên đây là “Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật giúp học sinh khối 4
trường tiểu học Nga Phượng 1 phát huy tính tích cực theo phương pháp Đan
Mạch” mà tôi đã áp dụng trong năm học 2021-2022 tại đơn vị trường Tiểu học
Nga Phượng 1. Rất mong được sự đóng góp của đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để
tơi có được những giải pháp hữu hiệu hơn trong công tác giảng dạy
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Nga Phượng, ngày 8 tháng 4 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Đỗ Văn Sự

Mai Thị Hường

20

skkn



×