Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Skkn một số giải pháp giáo dục kỹ nawmg sống cho hoc sinh qua việc hướng dẫn đọc hiểu vợ chồng a phủ của tô hoài và chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.09 KB, 33 trang )

MỤC LỤC

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT HOẰNG HĨA 3

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1 Thực trạng chung SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang
1
1
1
2
2
2
2
2
3

ĐỀ TÀI

2.2.3. Thực trạng đối với học sinh
3


MỘT
SỐ
GIẢI
PHÁP
GIÁO
DỤC
KỸ
NĂNG
SỐNG
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên
3
HỌC
QUA
HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU “VỢ
2.3.CHO
Các giải
phápSINH
và cách
thức VIỆC
thực hiện
4
CHỒNG
A PHỦ”
2.3.1.
Giải pháp
chung CỦA TƠ HỒI VÀ “CHIẾC THUYỀN NGỒI
4
2.3.2. Những giải pháp
và tổ
chứcNGUYỄN

thực hiện cụMINH
thể
7
XA”
CỦA
CHÂU
a/Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống
7
b/Tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm một cách hiệu quả
8
c/ Tổ chức hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học
10
d/ Tổ chức dạy học theo phương pháp trò chơi
12
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
13
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
14
3.1. Kết luận
14
3.2. Kiến nghị
15

Người thực hiện: Hoàng Thị Hạnh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Ngữ văn

THANH HĨA, NĂM 2022

skkn


0


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của SKKN
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1 Thực trạng chung
2.2.3. Thực trạng đối với học sinh
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên
2.3. Các giải pháp và cách thức thực hiện
2.3.1. Giải pháp chung
2.3.2. Những giải pháp và tổ chức thực hiện cụ thể
a/Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống
b/Tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm một cách hiệu quả
c/ Tổ chức hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học
d/ Tổ chức dạy học theo phương pháp trò chơi
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục SKKN đã xếp giải


skkn

Trang
2
2
2
3
3
3
4
4
5
5
6
6
7
7
10
10
11
14
15
16
17
17
18
19
20


1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong thời kì đất nước hội nhập hiện nay, giáo dục kỹ năng sống
(GDKNS) là rất cần thiết đối với mỗi người, đặc biệt là lứa tuổi học sinh (HS)
đang ngồi trên ghế nhà trường nhằm trang bị cho các em những kiến thức cần
thiết, cơ bản nhất, làm hành trang bước vào cuộc sống sau này tốt nhất: có đạo
đức trong sáng, ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc, có
năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát huy tiềm năng dân tộc và
con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng, làm chủ tri thức khoa học và cơng
nghệ, có kỹ năng thực hành giỏi, tư duy sáng tạo, tác phong cơng nghiệp, có tính
tổ chức và kỉ luật cao, kỹ năng sống phong phú. Những phẩm chất đó chỉ có thể
đạt được khi chúng ta GDKNS cho HS thông qua việc lồng ghép vào mơn học,
trong đó có mơn Ngữ văn.
GDKNS cho HS thông qua hướng dẫn đọc – hiểu văn xuôi hiện đại Việt
Nam chương trình Ngữ văn 11, 12 nói chung, văn bản “Vợ chồng A Phủ” –Tơ
Hồi và “Chiếc thuyền ngồi xa”-Nguyễn minh Châu nói riêng là giúp các em
vận dụng kiến thức, KNS vào giải quyết những tình huống khác nhau trong học
tập và cuộc sống, tạo niềm tin, hứng thú học tập, từ đó hình thành năng lực
phẩm chất và sự hiểu biết đáp ứng yêu cầu của thời kì CNH-HĐH đất nước. Hơn
nữa, rèn luyện KNS cho HS cũng là một trong những nội dung cơ bản của phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, người giáo
viên (GV) phải làm sao hướng HS đến cách tiếp cận KNS mà thực chất là: “học
để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định mình” (theo
UNESCO). Mơn Ngữ văn với chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ giúp HS
hiểu biết, bồi dưỡng năng lực tư duy, sáng tạo và đời sống tâm hồn, tình cảm
lành mạnh, kỹ năng sống để hoàn thiện bản thân.

“Làm thế nào để nâng cao hiệu quả của một giờ Ngữ văn và giáo dục
KNS cho học sinh qua đọc – hiểu tác phẩm văn xuôi hiện đại Việt Nam?” là
điều tôi rất trăn trở trong nhiều năm nay. Vì thế tơi mạnh dạn chọn và ứng dụng
đề tài: “Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua việc hướng
dẫn đọc-hiểu “Vợ chồng A Phủ”-Tơ Hồi và “Chiếc thuyền ngồi xa”-Nguyễn
Minh châu” nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ mơn Ngữ văn tại trường
THPT Hoằng Hóa 3.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Góp phần làm sáng tỏ mục đích rèn một số KNS trong dạy văn và hiệu
quả của phương pháp lồng ghép KNS trong quá trình dạy học văn ở trường
THPT, đặc biệt là ở trường THPT Hoằng Hóa 3.

skkn

2


- Góp phần khắc phục những bất cập của PPDH (phương pháp dạy học)
theo lối truyền thụ một chiều, đồng thời trình bày những cơ sở khoa học của
PPDH văn với lồng ghép KNS cho HS.
- Góp phần khẳng định xu hướng tất yếu của đổi mới chương trình, PPDH
văn theo quan điểm: rèn kĩ năng thơng qua q trình tích lũy tri thức, chú trọng
"dạy người" bên cạnh việc dạy chữ.
- Giúp HS có những kỹ năng bảo vệ giới, bảo vệ sức khỏe sinh sản tuổi
vị thành niên, phòng chống bạo lực; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng tự nhận thức,
xác định giá trị bản thân; ứng phó; hợp tác…
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp
126 trường THPT Hoằng Hóa 3 - Hoằng Hóa - Thanh Hóa. Vì đây là những lớp
mà tơi trực tiếp giảng dạy xuyên suốt từ lớp 10, có cơ hội thuận lợi trong việc

quan sát kĩ năng sống của học sinh qua các giờ học trên lớp thường xuyên và sát
sao nhất.
Tác giả đã thực nghiệm đề tài ở tiết đọc -hiểu văn bản “Vợ chồng A Phủ”
(trích, Tơ Hồi), “Chiếc thuyền ngồi xa” (trích, Nguyễn Minh Châu)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện đề tài, tơi đã sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp và phát triển lý luận.
- Phương pháp khảo sát, điều tra thực tế.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích số liệu.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
Năm học 2019-2020, tôi đã viết SKKN với đề tài: “Một số giải pháp giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh qua việc đọc-hiểu thơ trung đại Việt Nam lớp 10”.
Năm học 2020-2021, đề tài này được tôi tiếp tục vận dụng vào đọc –hiểu một số tác
phẩm văn học lớp 11. Năm học 2021-2022, đề tài được tập trung vận dụng vào đọc-

hiểu “Vợ chồng A Phủ”-Tơ Hồi và “Chiếc thuyền ngoài xa”-Nguyễn Minh
châu”
Những điểm mới của SKKN: “Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh qua việc đọc-hiểu “Vợ chồng A Phủ”-Tơ Hồi và “Chiếc thuyền ngoài
xa”-Nguyễn Minh châu” so với SKKN “Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh qua việc đọc-hiểu thơ trung đại Việt Nam lớp 10” là:
- Không đi sâu vào phân tích, lí giải các nguyên tắc GDKNS mà chỉ nêu tên các
nguyên tắc GDKNS.
- Tập trung vào rèn luyện các kỹ năng: Đọc hiểu TP theo đặc trưng thể loại
truyện ngắn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-1975 và giai đoạn sau 1975. (SKKN
trước đó rèn luyện kỹ năng đọc hiểu TP theo đặc trưng thể loại thơ trung đại Việt
Nam); kỹ năng ứng phó với tình huống căng thẳng, kịch tính để từ đó giáo dục giới

skkn


3


tính, tình dục tồn diện và phịng chống bạo lực giới, bạo lực gia đình và bạo lực nói
chung.
- Vận dụng phương pháp học tập nhóm để thảo luận nội dung bài học trước khi
học bài trên lớp như một nhiệm vụ chuẩn bị bài mới nhằm rèn luyện ý thức chủ động
học tập và sử dụng hiệu quả điện thoại thông minh trong việc học tập, đảm bảo thời
lượng và nội dung dạy học theo quy định.
- Vận dụng phương pháp tổ chức trò chơi đối thoại văn học, đóng vai diễn
xuất.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Các khái niệm:
- KNS là năng lực của mỗi cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham
gia vào cuộc sống hàng ngày. KNS gắn liền với 4 trụ cột giáo dục: "Học để
biết, học để làm việc, học để chung sống với nhau, học để làm người".
(UNESCO)
- Giáo dục kỹ năng sống là q trình tác động có chủ đích, có kế hoạch vào sự
hình thành năng lực và hành động, có liên quan tới thái độ giúp cá nhân đó có
được ý thức của bản thân, các mối quan hệ xã hội và ứng phó được với các
thách thức của cuộc sống hàng ngày.
2.1.2. Đặc trưng loại thể của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” –Tơ Hồi.
Ngồi những đặc trưng của văn học giai đoạn 1945-1975, truyện còn mang
những đặc trưng riêng của loại truyện ngắn hiện thực. Điều này được thể hiện
như sau: Nhân vật được xây dựng có sự vận động, phát triển tính cách để phản
ánh bước đường đi lên của lịch sử, dân tộc, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng
vào khả năng làm cách mạng của nhân dân để tự giải thoát số phận khổ đau.

Truyện đã đề cập đến sự đổi đời của những con người từng là nạn nhân trong
xã hội cũ nay tìm lại được niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống mới. Kết cấu
dựa vào sự kiện được xâu chuỗi theo thời gian, xoay quanh nhân vật chính để
làm nổi bật tính cách nhân vật. Lựa chọn tình huống có ý nghĩa như một thử
thách của hồn cảnh nhằm đưa nhân vật vào hành động khiến họ tự bộc lộ
phẩm chất vốn có. Kết thúc khép kín, có hậu. Nhà văn khám phá và thể hiện
con người của cộng đồng, giai cấp, xã hội. Con người của gia đình trở thành
con người của cách mạng và kháng chiến. Mang đời sống nội tâm từ ngộ nhận
đến thức tỉnh, từ căm thù đến hành động, từ giác ngộ thấp đến giác ngộ cao.
Giọng trần thuật tỏ ra hiểu thấu diễn biến trong tâm tư, tình cảm của con người.
Ngơn ngữ mang tính đại chúng, gàn gũi với cuộc sống của người lao động.
2.1.3. Đặc trưng loại thể của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu.
Truyện ngắn Việt Nam hiện đại có thể chia làm ba loại chính dựa trên sự
khác biệt cơ bản trong cách phản ánh hiện thực và kiểu cấu trúc tự sự. Loại

skkn

4


truyện ngắn - kịch hóa. Loại "truyện ngắn - trữ tình hóa". Loại "truyện ngắn tiểu thuyết hóa"".
- “Chiếc thuyền ngồi xa” thuộc loại "truyện ngắn - tiểu thuyết hóa" là
một loại truyện tổng hợp loại thể, ở đó các thủ pháp kịch và trữ tình vẫn được
sử dụng nhưng không nhằm diễn tả hành động, hay trạng thái cảm xúc mà
trước hết là để phân tích, lý giải đời sống qua mối quan hệ của con người với
môi trường, hồn cảnh, tính cách. Với kiểu truyện ngắn này, tình huống truyện
phổ biến là tình huống thường của văn học, và từ tình huống ấy, nhân vật cũng
như người đọc sẽ chiêm nghiệm ra những điều sâu sắc trong cuộc sống. Trong
truyện, chức năng phân tích và giải thích trở thành nguyên tắc tự sự kiểu mới.

Khi xây dựng nhân vật, nhà văn thường tập trung vào việc phân tích, giải thích
về tính cách, số phận một cách biện chứng trong quan hệ với hồn cảnh nên
nhân vật thường có chiều sâu và sức khái quát lớn. Quan niệm nghệ thuật về
con người hướng đến con người đa trị, phức tạp, bí ẩn, khơng thể đốn trước,
khơng thể biết hết. Quan niệm nghệ thuật về thế giới đa chiều là thế giới ở đó
tồn tại song song những yếu tố khả giải - bất khả giải, duy lý - phi lý, tất nhiên
- ngẫu nhiên… Kết cấu truyện thông thường tùy vào sự sáng tạo của từng nhà
văn. Truyện ngắn đa dạng hơn trong nội dung phản ánh, phong phú hơn trong
hình thức diễn đạt, tự do hơn ở cách thức dựng truyện. Cảm hứng nhân bản trở
thành cốt lõi của những nguyên tắc phản ánh đời sống, quy định hệ quy chiếu
giá trị của tác phẩm. Cảm hứng hứng phân tích, đối thoại, khám phá; khuynh
hướng đời tư - thế sự. Tính dân chủ của đời sống và thể loại khiến truyện ngắn
hiện đại có tính đa thanh. Hiện thực khơng nhất thiết phải là mục đích phản ánh
của nhà văn, nó có thể chỉ là phương tiện để nhà văn trình bày tư tưởng, cách
nhìn, sự chiêm nghiệm của riêng mình. Cốt truyện của truyện ngắn hiện nay
vẫn chú ý miêu tả tâm lý, song sự diễn biến của cốt truyện thường không gắn
với điều kiện của đời sống bên ngoài mà xuất phát từ nội tâm, từ suy nghĩ của
nhân vật. Giọng điệu văn xuôi cũng trở nên đa dạng. Ngôn ngữ đa thanh,gần
gũi tới mức tối đa với đời sống.
2.2. Thực trang vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1 Thực trạng chung.
Từ năm 2005, Bộ giáo dục và đào tạo đã xác định lại mục tiêu của giáo
dục Việt Nam: chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình
thành và phát triển những năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát
triển CNH-HĐH đất nước. Thể hiện mục tiêu của giáo dục thế kỉ XXI của tổ
chức UNESCO, Chủ trương chung của Bộ giáo dục là từ năm học 2009-2010
đưa vấn đề tích hợp giáo dục KNS cho HS vào tất cả các môn học từ cấp mầm
non cho đến lớp 12. Đây là những nhiệm vụ vơ cùng cấp thiết. Song có lẽ đây là
lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ trong giáo dục ở Việt Nam và với nhiều


skkn

5


nguyên nhân khác nhau nên việc giảng dạy, huấn luyện KNS vẫn còn nhiều điều
bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức; chưa có sự thống nhất đồng bộ trong
hệ thống giáo dục của cả nước dẫn đến chất lượng giáo dục nước nhà vẫn còn
chưa đạt được kết quả như mong đợi.
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên
Qua những lần khảo sát, thăm dò ý kiến, tâm sự nghề giáo với các đồng
nghiệp trường tôi và cả một số trường bạn, tôi nêu vấn đề: “Giáo dục KNS cho
HS thế nào để đạt hiệu quả?”. Một số giáo viên chỉ cười trừ. Số khác thì thú thật:
“Chỉ đối phó thơi, khơng có thời gian mà chuẩn bị bài dạy tích hợp”. Có người
chia sẻ: “Chủ trương chung là phải tích hợp rèn luyện KNS cho HS nhưng thực
tế chẳng có gì là cụ thể nên khó thực hiện”.
Bàn đến nguyên nhân của thực trạng trên, tôi nhận thấy: Điều đầu tiên
chính là việc tiếp cận của GV với tích hợp giáo dục KNS cho HS cịn khá lung
túng. GV vẫn quen với lối dạy truyền thống, chưa được tiếp cận với phương
thức tiến hành giáo dục KNS một cách đầy đủ và bài bản. Thời gian mỗi tiết
học gói gọn trong 45 phút trong khi lượng kiến thức lớn. Nguồn tài liệu cho
GV và HS còn nghèo nàn, kế hoạch thực hiện, tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng.
Tổ chức giáo dục KNS có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục
khác, nội dung giáo dục khơng chỉ diễn ra trong mơn học mà cịn thơng qua
một số hoạt động khác (hoạt động ngồi giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho nên
phải tính đến cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện, điều này cũng không dễ thực
hiện.
Bản thân tôi, khi mới tiếp cận với vấn đề cũng có những bỡ ngỡ, lúng
túng. Tuy nhiên, sau vài năm vận dụng tích hợp GDKNS vào giảng dạy Ngữ
văn như một mục tiêu dạy học, tôi đã tự tin hơn, chủ động hơn trong việc thiết

kế bài dạy. Điều đó đem lại hứng thú học tập hơn cho HS trong giờ học văn.
2.2.3. Thực trạng đối với học sinh
Những năm gần đây, hiện tượng tiêu cực: hút thuốc lá, uống rượu, tiêm
chích ma túy, quan hệ tình dục sớm, thờ ơ, vô cảm, đánh nhau, chửi thề…, thậm
chí là vi phạm pháp luật của HS ngày càng gia tăng. Đặc biệt có nhiều vụ án giết
người, cố ý gây thương tích mà đối tượng gây án là học sinh mà nạn nhân chính
là bạn bè và thầy cơ giáo của họ, thậm chí là tự sát khi vướng mắc trong cuộc
sống khơng cịn hiếm. Nhiều em học giỏi nhưng khả năng tự chủ và giao tiếp lại
rất kém. Nhiều học sinh tốt nghiệp THPT, thậm chí đại học cịn lúng túng khi
viết đơn xin việc, khơng tự tin khi phát biểu trước đám đông, thiếu kiến thức về
giới tính, thụ động đương đầu với khó khăn.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng trên, nhưng cái chính
vẫn là do các em thiếu KNS. Các em khơng được dạy cách đương đầu với những
khó khăn của cuộc sống như cha mẹ ly hơn, gia đình phá sản, kết quả học tập

skkn

6


kém… Mặc dù đổi mới PPDH và rèn KNS cho học sinh khơng phải là điều hồn
tồn mới lạ. Song, có lẽ do “sức ép” thực tế quá lớn của chương trình, điểm số,
thi cử, thành tích, lối học “hàn lâm”…, việc giáo dục KNS bị xao lãng, hời hợt
ở từng lúc, từng nơi. Điều đó làm cho các em vốn khơng có KNS lại càng hạn
chế, bất lợi hơn và thuật ngữ KNS đôi khi trở thành xa lạ với các em. Điều đó
cho thấy cách dạy và học theo kiểu cũ (giảng sng, sáo mịn, máy móc áp đặt,
học vẹt) làm hạn chế rất nhiều đối với việc giáo dục và rèn luyện KNS, như một
rào cản khiến các em càng trở nên thụ động.
Trước thực trang đó, tơi mạnh dạn tích cực thực hiện đề tài này với mong
muốn góp phần đưa việc GDKNS lồng ghép vào dạy học bộ môn Ngữ văn theo

yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhiều năm qua nhằm khắc phục
những hạn chế đã nêu, góp phần cải thiện, hồn thiện q trình dạy học bộ mơn
Ngữ văn của bản thân và năng cao chất lượng bộ môn trong nhà trường.
2.3. Giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện
2.3.1. Giải pháp chung.
Theo suy nghĩ của cá nhân tôi, để đạt được hiệu quả trong việc GDKNS
cho HS qua tiết dạy đọc-hiểu văn bản văn xuôi hiện đại Việt Nam, đầu tiên cần
trang bị cho HS những kiến thức cơ bản, hệ thống về thể loại văn xuôi hiện đại
Việt Nam. (Nhiệm vụ này, GV đã thực hiện ngay trong quá trình dạy học Ngữ
văn lớp 11). Mỗi thể loại có đặc điểm riêng về cấu tạo, thi pháp nghệ thuật, mỗi
tác phẩm lại có những đóng góp sáng tạo riêng của tác giả. Từ đó hướng dẫn HS
khai thác những giá trị của văn bản theo đặc trưng thể loại và sáng tạo của tác
giả cũng như hình thành và phát triển các năng lực tiếp nhận văn học, năng lực
cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự học và năng lực thực hành ứng dụng…Bồi dưỡng
cho HS tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hoá; thiên nhiên, đất nước; lịng tự hào
dân tộc; Hình thành nên KNS cho HS.
GV khi soạn giáo án chuẩn bị cho tiết dạy cần xác định rõ các KNS cơ
bản được giáo dục trong bài là gì để từ đó định hướng soạn bài cho đúng.
Trong quá trình giảng dạy, GV phải biết hình thành cho HS trải nghiệm
qua các tình huống thực tế, từ đó giúp các em hiểu rõ hơn nữa về các KNS
thông qua một tiết dạy.
GV cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ
học sao cho HS có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân
tích kinh nghiệm sống của chính mình và của người khác nhằm phát huy hơn
nữa KNS của HS.
Giáo dục KNS cho HS cần địi hỏi người giáo viên phải kiên trì, nhẫn
nại tiếp cận các quá trình: nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi và
hướng các em vào các q trình đó, từ đó nâng cao được nhận thức của học
sinh.


skkn

7


Tổ chức, hướng dẫn cho các em tự học, tự tìm tịi nhằm giúp học sinh thay đổi
hành vi theo hướng tích cực, thay đổi thái độ và hành động của mình.
Cần phải kết hợp linh hoạt, chặt chẽ các phương pháp và kĩ thuật dạy
học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho HS được thực hành, trải nghiệm KNS
trong quá trình học tập. Để một tiết dạy học Ngữ văn có lồng ghép KNS thành
cơng địi hỏi người giáo viên phải có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo các
phương pháp vào từng bài soạn, từng tiết dạy cụ thể:
@ Giáo viên phải xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể cho phân mơn
mình dạy, tích hợp kĩ năng sống cho bài nào? Tiết nào? Ở nội dung nào?
@ Trên cơ sở SGK, SGV, tài liệu mà xây dựng câu hỏi cho phù hợp
chuẩn kiến thức Ngữ văn, không được biến giờ dạy ngữ văn thành tiết đơn
thuần hoạt động ngồi giờ hay ngoại khóa về KNS.
@ Trong bài soạn cần xác định rõ nội dung cần tích hợp, tích hợp trong
phần nào của bài, liên hệ cụ thể như thế nào cho hợp lí và có hiệu quả.
@ Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học để tiết học sinh
động, không nhàm chán.
*Những nguyên tắc giáo dục KNS:
- Nguyên tắc 5 chữ T: Tương tác, trải nghiệm, tiến trình, thay đổi hành vi, thời
gian.
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng tự nhận thức bản thân là hiểu về chính bản thân mình
- Kĩ năng xác định giá trị là hiểu rõ giá trị của bản thân mình
- Kĩ năng suy nghĩ sáng tạo.
- Kĩ năng ra quyết định.
- Kĩ năng làm chủ bản thân.

- Kĩ năng kiên định.
- Kĩ năng đặt mục tiêu.
- Kĩ năng ứng phó với tình huống căng thẳng
- Kĩ năng hợp tác.
- Kĩ năng từ chối.
- Kĩ năng thương lượng.
*Phương pháp GDKNS:
GDKNS khơng phải là để nói cho các em biết thế nào là đúng thế nào là sai
như ta thường làm. Cũng không phải là rao truyền những lời hay ý đẹp đề chúng
vào tai này rồi ra tai kia. Giáo dục KNS là giúp HS nâng cao năng lực tự lựa
chọn những giải pháp khác nhau. Vì thế việc học phải hết sức gần gũi với cuộc
sống, các em có điều kiện cọ xát với các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm,
thực hành, ứng dụng… Có thể ứng dụng các phương pháp sau (trong đề tài

skkn

8


trước, tơi đã làm rất rõ tính chất, đặc điểm của từng phương pháp, nay xin được
nhắc lại tên các phương pháp một lần nữa):
- Phương pháp động não.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
- Phương pháp đóng vai.
- Phương pháp nêu tình huống.
- Phương pháp trị chơi đối thoại.
KNS là một trong ba mục tiêu (kiến thức, kĩ năng, thái độ) mà mỗi môn học
cần đạt được, đặc biệt là môn Ngữ văn ở trường THPT trong quan điểm của
Đảng và Nhà nước là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện. Đổi
mới PPDH theo hướng phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo khả năng tự học

của HS. Vì vậy sau mỗi bài học, HS cần phải đạt được những yêu cầu về kiến
thức, kỹ năng, thái độ nhất định. Đối với các bài dạy đọc-hiểu văn xi hiện đại
Việt Nam lớp 12, trong đó có “Vợ chồng A Phủ”-Tơ Hồi, “Chiếc thuyền ngồi
xa”-Nguyễn Minh Châu, cần giúp HS vươn tới những mục tiêu:
Về kiến thức:
Nắm vững và nhận thức được những kiến thức về tác giả, hoàn cảnh sáng
tác, những giá trị văn bản thơ theo đặc trưng thể loại, đóng góp mới lạ của tác
giả. Từ đó giúp định hướng cho các em chủ động hơn khi tiếp nhận văn bản
truyện ngắn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-1975 và giai đoạn đổi mới văn
học sau 1975. Tránh tiếp nhận lệch lạc, không đúng đặc trưng thi pháp sáng tác
của văn học hiện đại, đặc trưng thể loại.
Về kĩ năng:
Chương trình tập trung rèn luyện các kĩ năng đọc mà trọng tâm là đọc –
hiểu nhằm hình thành năng lực: khái quát, đánh giá nội dung và nghệ thuật của
văn bản văn học; rèn luyện năng lực tư duy cho học sinh, tạo cho HS kỹ năng
nắm bắt thông tin nhanh, nhạy, chuẩn xác, đáp ứng yêu cầu cầu đời sống hiện
đại; biết đối phó các tình huống trong cuộc sống theo chiều tích cực; có suy nghĩ
và hành động tích cực, có những quyết định đúng đắn trong cuộc sống, nâng cao
kỹ năng giao tiếp, hợp tác, từ chối, bảo vệ giới, phòng chống bạo lực, bảo vệ sức
khỏe sinh sản vị thành niên, khả năng diễn xuất,...
Về thái độ, tư tưởng:
Hướng HS tới có lý tưởng sống đúng đắn, tích cực; bồi dưỡng nhân cách
mới cho thế hệ trẻ, một thế hệ yêu nước, trọng lẽ phải, say mê khoa học, thích
sáng tạo. Coi trọng giáo dục năng lực cảm thụ thẩm mĩ, tinh thần yêu tiếng Việt,
văn học, yêu cái đẹp, rèn luyện ý thức khoa học và thái độ chủ động sáng tạo
trong học văn, có hứng thú và nhu cầu qua các kĩ năng sống mà bản thân đúc rút
và rèn luyện được, đồng thời hướng những người khác cùng thực hiện các kĩ
năng sống đó. Hình thành và thay đổi hành vi, nhất là những hành vi liên quan

skkn


9


đến lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường và xã
hội. Có ý thức về quyền và nghĩa vụ của người công dân, biết tơn trọng quyền
bình đẳng giới,…
2.3.2. Những giải pháp và tổ chức thực hiện cụ thể
a/Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống
*Vai trị của những tình huống có tính chất ứng dụng:
Thực tế, dạy văn rất dễ sa vào nói sng, nói lý thuyết nên dễ gây ra sự
nhàm chán hoặc suy nghĩ “văn nói láo, báo nói phét” từ phía học sinh, khiến các
em mất niềm tin vào lời thầy cô giảng. Hơn nữa, chỉ lí thuyết sng chắc hẳn
các em sẽ rất chóng qn. Vì vậy, để đổi mới trong dạy học văn, tơi quan tâm
đến việc tạo tình huống có tính chất ứng dụng vào đời sống cho HS để góp phần:
- Nâng cao tính thực tiễn của mơn học, để văn học gắn với đời sống chứ
không phải là thế giới chỉ có trong sách vở giúp HS hiểu văn là đời, là cuộc sống
chứ không phải chỉ là những con chữ ghi lại những gì do nhà văn tự nghĩ ra,
tưởng tưởng ra.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của học sinh trong
quá trình học.
- Phương pháp tạo tình huống sẽ rèn cho HS Kĩ năng ứng phó với căng
thẳng. mà ỹ năng này có được nhờ sự kết hơp  của các KNS khác như kỹ năng
tự nhận thức, kỹ năng xử lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, tư duy sáng tạo, kỹ
năng tìm kiếm sự giúp đỡ và kỹ năng giải quyết vấn đề. Vì vậy, cùng lúc nó
nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày, bảo vệ và phản biện ý
kiến trước đám đơng.
- Với GV, trong vai trị của người định hướng, dẫn dắt, cũng sẽ tiếp thu
được rất nhiều kinh nghiệm và những cách nhìn, những giải pháp mới từ phía
HS để làm phong phú bài giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu.

* Cách thức thực hiện:
Trong mỗi bài học, tôi luôn cố gắng lồng ghép giáo dục KNS thơng qua
tạo ra những tình huống có vấn đề mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống
(tuy nhiên không phải dạy văn bản văn học nào cũng phải tìm cho ra tình
huống), rồi tổ chức cho học sinh tự giải quyết. Việc giải quyết các tình huống
như thế lúc đầu mang tính chất cá nhân sau đó được thảo luận để đi đến một
cách giải quyết tối ưu nhất.
Ví dụ:
Khi dạy bài “Vợ chồng A Phủ” –Tơ Hồi: Sau khi hướng dẫn HS tìm hiểu
chi tiết A Sử bát cóc Mị về làm dâu trừ nợ, tơi tạo tình huống: Giả sử trong cuộc
sống hiện nay, các em rơi vào tình thế bị bắt cóc về làm vợ giống như Mị thì em
sẽ làm gì? Vì sao?

skkn

10


Khi hướng dẫn HS khai thác chi tiết Mị đã bị A Sử đánh đập vơ tội vạ, vơ
lí, tơi nêu tình huống: Giả sử, trong cuộc sống hiện, em nhiều lần chứng kiến
người đàn ơng hàng xóm đánh đập vợ một cách dã man, vơ lý thì em sẽ làm gì?
Vì sao?
Với mỗi tình huống trên, lúc đầu tơi cho 4 HS (2 nam, 2 nữ) phát biểu và các em
đã đưa ra quan điểm khác nhau. Sau đó lại yêu cầu em khác nhận xét. Cuối
cùng, tôi là người nhận xét điểm đúng, sai trong nhận thức, tư tưởng của các em
và nêu ra cách lựa chọn và lí do nhằm hướng đến quan niệm sống tích cực xem
trọng nhân cách, nhân phẩm, tự trọng để tạo nên giá trị người đúng nghĩa.
b/Sử dụng phương pháp dạy học nhóm một cách hiệu quả
* Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhóm
Phương pháp dạy học nhóm là một trong những phương pháp dạy học

được áp dụng trong đổi mới PPDH hiện nay để hoạt động dạy học hướng về
người học, phát huy được tính tích cực, chủ động của người học.
Làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của một
nhóm người, từng người trong nhóm sẽ bổ sung, hồn thiện cho nhau những
điểm yếu, hơn nữa nó cịn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập.
Qua thử nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học văn trong những
năm học vừa qua, tôi thấy: Việc dạy học theo nhóm nếu được thực hiện đều
đặn thì khơng chỉ giúp HS giải quyết tốt nhiệm vụ nhận thức mà còn hình
thành các phẩm chất nhân cách và các kỹ năng xã hội tốt hơn, cụ thể là:
- Học theo nhóm phát huy cao độ vai trị chủ thể, tích cực của mỗi cá nhân
trong việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao; khi học theo nhóm, vai trị chủ
thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của học
sinh thường được phát huy hơn, cơ hội cho HS tự thể hiện, tự khẳng định khả
năng của mình nhiều hơn. Đặc biệt, khi HS học theo nhóm thì kết quả học tập
thường cao hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, khả năng ghi nhớ lâu hơn, động cơ
bên trong, thời gian dành cho việc học, trình độ lập luận cao và tư duy phê phán.
Nhóm làm việc còn cho phép các em thể hiện vai trị tích cực đối với việc học
của mình như: hỏi, biểu đạt, đánh giá công việc của bạn, thể hiện sự khuyến
khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích..., rất nhiều những kỹ năng nhận thức
được hình thành, như: biết đưa ra ý tưởng của mình trong mơi trường cùng phối
hợp, giải thích, học hỏi lẫn nhau bằng ngơn ngữ và phương thức tác động qua
lại,  phát triển sự tự tin vào bản thân như là người học và trong việc chia sẻ ý
tưởng với sự tiếp thu có phê phán, có tranh luận của nhiều người trước một vấn
đề. Cũng có nghĩa là HS trở thành chủ thể đích thực của họat động học tập của
cá nhân mình.
- Giúp hình thành các kỹ năng xã hội và các phẩm chất nhân cách cần
thiết như: kỹ năng tổ chức, quản lí, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng hợp tác,

skkn


11


có trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít,
sự ủng hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị
của sự đa dạng và tính gắn kết. Có những cảm xúc về trách nhiệm với nhóm và
khuyến khích ý thức tự giác, tự kỉ luật.
- Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn cho người học.
Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho
những HS nhút nhát, thiếu tự tin, cơ độc có nhiều cơ hội hịa nhập với lớp học.
Học theo nhóm cịn tạo ra mơi trường hoạt động mang bầu khơng khí thân mật,
cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao
của mỗi cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung mà GV giao phó. Học sinh có
cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều
được tơn trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó
sẽ khắc phục tình trạng trong dạy học truyền thống là thầy áp đặt, trò phải theo.
- Để một giờ học trên lớp thành công, tôi vận dụng phương pháp dạy học
nhóm nhưng thiên về tổ chức hướng dẫn cho HS tự tổ chức học nhóm ngồi
giờ lên lớp thay vì tổ chức trong giờ học. Điều này khơng chỉ có ý nghĩa như
trên đã nêu mà còn phù hợp với điều kiện học tập mới khi HS đều sử dụng điện
thoại thông minh, đảm bảo thời lượng và nội dung của tiết học.
* Cách thức thực hiện
Bước 1-Chuẩn bị:
* Đối với GV:
- Hướng dẫn cho học sinh cách chuẩn bị bài soạn theo một dàn ý bao
gồm các nội dung cơ bản sau:
+ Đọc kĩ phần “kết quả cần đạt” trong sách giáo khoa.
+ Tìm hiểu trước những kiến thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm, đặc trưng thể loại của tác phẩm (kiến thức này chủ yếu nằm trong phần
“tiểu dẫn”)

+ Đọc thật kĩ văn bản trước khi học để nắm bắt được mạch cảm xúc của
tác phẩm trữ tình.
+ Đọc phần chú giải trong sách giáo khoa để hiểu một số từ ngữ khó
hoặc các điển tích, điển cố, những chủ ý sáng tạo của nhà văn…
+ Tự mình trả lời các câu hỏi trong phần “hướng dẫn học bài”; đánh dấu
những chỗ chưa giải quyết được hoặc còn băn khoăn để trao đổi với thầy cô và
các bạn.
Khi đưa ra những yêu cầu chuẩn bị bài cho học sinh, tơi ln kiểm tra
tính hiệu quả của công việc này bằng cách kiểm tra vở soạn bài của hs bằng
nhiều cách khác nhau (kiểm tra ngẫu nhiên 5-7 em vào đầu tiết học; kiểm tra cả
lớp sau tiết học; giao cho lớp trưởng, bí thư kiểm tra trước tiết học và sau khi

skkn

12


học sinh báo cáo kết quả, tôi kiểm tra xác suất). Bởi vì nếu khơng chuẩn bị bài
tốt, phương pháp dạy học nhóm khơng thể thành cơng.
- Xây dựng được nội dung thảo luận quan trọng và phù hợp để HS hoạt
động nhóm có hiệu quả.
- Khoanh nhóm HS tham gia nhóm thảo luận. Tơi u cầu các em cùng
xã hoặc gần nhà nhau tham gia một nhóm để thuận lợi thực hiện nhiệm vụ.
Thông thường, tôi chọn 2 nội dung để tổ chức hoạt động này. Giao 2-3 nhóm
thực hiện 1 nội dung để tạo tính thi đua và học hỏi cho HS. Kết quả thảo luận
nhóm được lưu lại vào giấy A0 hoặc trong Powerpoint để tiện trình bày trong
tiết học hôm sau.
*Đối với HS:
- Chuẩn bị bài soạn theo hướng dẫn của GV đã nêu ở trên
- Tự phân cơng nhiệm vụ trưởng nhóm, thư ký, lên lịch thảo luận nhóm

phù hợp với tất cả thành viên.
- Phương tiện ghi hình ảnh, âm thanh, quay video hoạt động học nhóm
ngồi giờ học trên lớp.
Bước 2-Nộp bài hoạt động nhóm và phản hồi.
- HS quay vedeo hoạt động nhóm và gửi nộp cho GV trước ít nhất 01 ngày
thực hiện dạy-học trên lớp.
- GV nhận kết quả và phản hồi ý kiến (nếu cần) để HS tiếp tục suy nghĩ và bổ
sung trong quá trình học trên lớp.
Bước 3-Tiến hành tổ chức hoạt động nhóm ở trên lớp
- HS ngồi học theo vị trí nhóm đã được GV quy định trước.
- Trong quá trình hướng dẫn đọc – hiểu, GV sẽ tổ chức thảo luận khi thích hợp
với nội dung bài học. Lần lượt từng nhóm trình bày; GV chỉ làm nhiệm vụ
quan sát, theo dõi mà không tham gia ý kiến, không cắt ngang lời HS, không tỏ
vẻ phản ứng nếu câu trả lời, tranh luận không đúng với ý mình; khi HS đưa ra
những câu trả lời ngờ nghệch, khơng đúng, giáo viên nên nhanh chóng làm cho
HS nhận thức được sự không đúng của thông tin đó mà khơng làm ảnh hưởng
đến cảm xúc, lịng tự trọng của HS; khi HS trình bày, giáo viên phải nghe cẩn
thận những điều HS nói để hiểu các em định nói gì hoặc ghi chép nhanh lại
những điểm cơ bản của mỗi ý kiến để chuẩn xác kiến thức.
- Sau khi các nhóm trình bày, các em có thể thảo luận nhanh nếu phát hiện vấn
đề mới (nếu có và thời gian 1-2 phút).
- GV phải tổng kết những ý kiến phát biểu thống nhất và chưa thống nhất để
mình tham gia vào những ý kiến chưa thống nhất và bổ sung thêm những ý cần
thiết; đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh thần, thái độ làm việc của HS
để thưởng điểm hoặc trừ điểm cho cá nhân của nhóm.

skkn

13



Ví dụ: Trước khi dạy bài “Chiếc thuyền ngồi xa”-Nguyễn Minh Châu, tơi
hướng dẫn HS hoạt động nhóm với 2 nội dung:
Nội dung 1. Nghệ sĩ Phùng có những phát hiện nào ngoài bãi biển. Tâm trạng
của anh trước mỗi phát hiện ra sao? Từ đó nhà văn gửi gắm những thơng điệp ý
nghĩa gì? Em hãy nêu những phát hiện của mình về cuộc sống có ý nghĩa như
phát hiện của Phùng?
Nội dung 2. Chánh án Đẩu đã giúp đỡ người đàn bà hàng chài như thế nào?
Người đàn bà đã đón nhận sự giúp đỡ đó ra sao? Em đồng tình với Đẩu hay
người đàn bà? Vì sao?
Với 2 nội dung trên, tơi giao nhóm 1,2 thảo luận nội dung 1. Nhóm 3,4
thảo luận nội dung 2. Vì hoạt động thực hiện ngồi giờ lên lớp nên tơi không
giới hạn thời lượng thảo luận. Trong tiết học, mỗi nhóm cử đại diện trình bày.
Cùng một nội dung thì nhóm trình bày sau chỉ trình bày những nội dung khác
với nhóm trình bày trước.
c/ Tổ chức dạy học bằng phương pháp trò chơi đối thoại đa dạng trong giờ
dạy học:
*Tầm quan trọng của trò chơi đối thoại trong dạy học và rèn luyện kĩ năng
sống
Một thực tế đáng buồn trong các nhà trường hiện nay là hiện tượng lười
xây dựng, phát biểu bài trở nên ngày càng phổ biến. Việc ngại hỏi, ngại nói,
ngại tranh luận trong lứa tuổi học sinh, nhất là học sinh THPT đã và đang để
lại những hậu quả bất lợi cho cả thầy và trị, cho chất lượng dạy-học, trong đó
người chịu thiệt thịi nhiều nhất chính là các em; khá nhiều thầy cơ và cả bản
thân tơi cũng rơi vào tình huống: GV ra câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong
sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3, 4 lượt nhưng các em vẫn ngồi im, cúi
mặt khiến GV tự hỏi, tự trả lời lấy gây tâm lí ức chế cho thầy cơ rất nhiều,
thậm chí chán nản, khơng tha thiết với cơng việc của mình.
HS lười biếng trong tư duy, lười xây dựng phát biểu bài dẫn đến tâm lí
thụ động, chờ đợi, co cụm, ỷ lại nên HS khó nắm bắt và làm chủ kiến thức của

bài học, lâu ngày sẽ tạo thành thói quen thiếu tự tin, trí nhớ giảm sút, học lực
giảm, khơng phát huy được ưu điểm cũng như không khắc phụ được nhược
điểm của mình, thiếu kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử với cộng đồng, không
dám mạnh dạn đứng lên phê phán, chống lại cái sai, cái ác, bảo vệ cái đúng cái
thiện, thậm chí đồng tình, đồng lõa với các thói hư tật xấu.
Qua hoạt động này, GV rèn cho HS thói quen hợp tác với bạn trong q
trình học tập, tự đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức của bản thân trong quá trình
thảo luận. Qua đối thoại, HS rèn luyện được kĩ năng nói, phát biểu trước tập
thể, tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự tin, kích thích sự chủ động sáng tạo
của các em.

skkn

14


Tổ chức cho HS đối thoại trên lớp không chỉ tạo điều kiện phát triển
năng lực cá nhân cho mỗi HS mà còn phát huy vai trò hỗ trợ của tập thể trong
học tập khiến cho những vấn đề đưa ra đối thoại được nhìn nhận đa dạng,
phong phú, tồn diện hơn. Hơn nữa, khi HS được tự do phát biểu một cách độc
lập, sáng tạo theo cảm nhận cá nhân, giáo viên sẽ có cơ sở và điều kiện để phát
huy vai trò chủ thể HS trong giờ học, lớp học trở nên sinh động, và việc tiếp
thu kiến thức của HS trở nên tự nhiên, sâu sắc hơn.
* Cách thức thực hiện.
- GV tổ chức đối thoại theo hình thức nói chuyện về tác phẩm. HS sẽ đóng các
vai nhà văn, nhà phê bình văn học, bạn đọc học sinh. GV dẫn chương trình
(Nếu các em đã quen với hoạt động dạy học này thì HS có thể dẫn chương
trình).
- Người dẫn chương trình sẽ dẫn dắt và cho phép các thành phần tham gia đối
thoại đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.

- Yêu cầu:
+ Thời gian thực hiện: Khoảng 5 phút và thực hiện vào hoạt động củng cố bài
học.
+ Các câu hỏi xoay quanh việc làm sáng rõ các vấn đề về tác phẩm đã học
(Khơng lan man vào đời tư, tác phẩm khác)
Ví dụ:
HS trong vai bạn đọc HS đặt câu hỏi cho tác giả: Thưa nhà văn A, xin
nhà văn cho chúng cháu biết hoàn cảnh sáng tác TP … ạ? Trong quá trình sáng
tác, nhà văn có gặp khó khăn gì khơng?...
HS đặt câu hỏi với nhà phê bình văn học: Thưa giáo sư/ nhà văn, theo
bác/ơng… thì điều ấn tượng nhất với bác/ ơng sau khi đọc TP… là gì ạ?
Nhà văn đặt vấn đề cho HS: Sau khi được học TP …, các cháu rút ra
được những bài học gì cho bản thân?
+ Yêu cầu quan trọng nữa là GV phải có sự hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho HS
từ trước và phải có hình thức khích lệ các em bằng phần thưởng hoặc điểm số.
Hoặc GV hướng các các vào việc xem các chương trình giao lưu giữa nhà văn
và bạn đọc để có thêm hiểu biết và học tập cách đối thoại.
d/ Tổ chức dạy học theo phương pháp đóng vai
*Tầm quan trọng của phương pháp đóng vai.
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hiện những hành
động, những thái độ, những việc làm của nhân vật trong TP văn học.
“Chơi mà học, học mà chơi” đang được các nhà giáo quan tâm áp dụng nhằm
tránh sự căng thẳng và nặng về lý thuyết trong dạy và học hiện nay. Lí luận và
thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức đóng vai như một trị chơi hợp lí,
lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Nhằm phát triển về các mặt trí

skkn

15



tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà cịn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích
cực, phát huy được sở thích, năng khiếu diễn xuất cho HS.
Việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động thông qua
đóng vai, học sinh được lơi cuốn vào q trình học hỏi một cách tự nhiên, hứng
thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời loại bỏ được những mệt mỏi, căng
thẳng trong học tập. Trong quá trình chơi sẽ hình thành năng lực quan sát, được
rèn luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi và khả năng quyết định lựa chọn
cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp, từ đó sẽ hình thành được ở các em
niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực sau này. Giúp tăng cường khả
năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh, tính
nhút nhát từ đó sẽ được cải thiện. Vì thế mơi trường sư phạm sẽ trở nên hòa
đồng, thân thiện hơn góp phần tích cực vào xây dựng “trường học thân thiện,
học sinh tích cực”.
*Cách thức thực hiện:
Để thực hiện phương pháp này trên lớp, tôi chọn học sinh vào vai phù
hợp: Em có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, dễ xúc động vào vai có tâm trạng nổi
bật; em nhút nhát vào vai đơn giản; em có năng khiếu diễn xuất vào vai khó,…
Cơng việc chuẩn bị phải được giao cho học sinh trước đó 1 tuần, giáo
viên cũng tham gia vào việc tư vấn, điều chỉnh, huấn luyện các em luyện tập
cho thật tốt trước khi tiến hành “diễn xuất” theo quy định của GV.
Ví dụ: Sau khi học xong bài “Chiếc thuyền ngồi xa”-Nguyễn Minh
Châu, tơi tổ chức cho học sinh đóng vai diễn xuất cảnh bạo lực gia đình tại lớp.
Khi tiến hành thử nghiệm dạy học theo phương pháp này, tơi nhận thấy
giờ dạy học đó không chỉ đem lại hứng thú cho học sinh, rèn luyện được nhiều
kĩ năng sống quan trọng cho các em mà còn tạo thêm niềm say mê nghề
nghiệp, niềm tin yêu HS của GV. Điều thú vị là trên 90% học sinh trả lời rất
thích học những giờ học kiểu như thế này, khơng cịn hiện tượng HS ngủ gật
hay làm việc riêng trong giờ học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

Sau thời gian nghiên cứu đề tài và thực nghiệm đề tài, tôi nhận thấy: kết
quả học tập của HS đã có những chuyển biến đáng mừng. Các em tiếp thu bài
trên tinh thần chủ động, tích cực tham gia hoạt động học tập, nắm kiến thức có
chiều sâu, phát huy cá tính sáng tạo; những KNS quan trọng như kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề…được
hình thành và phát triển bền vững; hứng thú dạy và học ở cả GV và HS đều tăng
lên đáng kể.
Kết quả thăm dò ý kiến HS sau mỗi tiết học và chất lượng môn học cuối
năm học 2021-2022 tại lớp 12B6 (đối chứng với 12B8 không thực nghiệm đề
tài) như sau .

skkn

16


Nội dung đối chứng
Kĩ năng tự nhận thức bản thân
Tự tin giao tiếp
Tự tin hợp tác nhóm
Hiểu biết về bình đẳng giới,
tình dục tồn diện
Hứng thú học tập cao

Lớp khơng thực
nghiệm
40%
30%
46%
30%


Lớp thực nghiệm
80%
71%
87%
68%

40%
95%
- Giỏi: 11,4%
- Giỏi: 40%
Kết quả bộ môn
- Khá: 45,7%
- Khá: 48,9%
- TB: 37,1%
- TB: 8,9%
- Yếu: 5,8%
- Yếu: 2,2%
Kết quả này là nguồn động viên rất lớn đối với bản thân tơi và đó là tiền
đề vững chắc cho những năm tiếp theo để tơi có thể làm tròn nhiệm vụ của một
người GV trong thời đại mới. Mặt khác, qua báo cáo đề tài trước tổ và Hội đồng
khoa học nhà trường, đề tài của tôi được số đông các đồng môn hưởng ứng, các
đồng nghiệp và lãnh đạo ghi nhận những nỗ lực đóng góp của bản thân tôi trong
việc nâng cao chất lượng dạy và học bộ mơn nói riêng và thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ năm học của nhà trường nói chung.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
* Bài học kinh nghiệm
Để hình thành được kĩ năng sống cho học sinh địi hỏi giáo viên phải có
khả năng tư duy nghiên cứu, khai thác nội dung tư tưởng của tác phẩm, trình

độ chuyên môn sâu sắc, kinh nghiệm sống dồi dào, giáo dục học sinh qua từng
bài, tích lũy kiến thức cho học sinh chứ không chỉ dạy một lần duy nhất hay
một bài học duy nhất. Giáo viên phải đóng một vai trò quan trọng trong các
hoạt động của học sinh, đánh thức năng lực tiềm năng trong mỗi học sinh góp
phần nâng cao hiệu quả dạy học.
* Ý nghĩa của SKKN đối với công tác giảng dạy
Việc giáo dục KNS cho HS qua môn Ngữ văn là rất cần thiết đối với
công tác dạy học theo xu hướng đổi mới hiện nay. Có thể nói phương pháp này
sẽ cải thiện phần nào KNS đang rất báo động của thế hệ trẻ, giúp các em nhận
thức được vai trị ni dưỡng tâm hồn và hướng con người tới chân - thiện - mĩ
của văn học.
Qua cách học này, HS sẽ ý thức hơn trong nhận thức đối với các sự việc,
hiện tượng xã hội và có những thái độ ứng xử, giao tiếp phù hợp hơn.
* Nhận định về hướng phát triển của đề tài.

skkn

17


Tơi thừa nhận, cách dạy tích hợp giáo dục KNS vào bài học rất dễ gây
ồn, mất trật tự khi biểu hiện cảm xúc hứng thú trước các trò chơi, vai diễn của
bạn, địi hỏi GV tích cực giám sát, nhắc nhở HS thực hiện nhiệm vụ học tập.
Điều đáng mừng là các em đều cảm thấy giờ văn không còn nhàm chán, buồn
ngủ như trước. Đa số HS bị cuốn hút vào bài học, chủ động, tích cực, được
phát huy năng lực tiềm năng.
Bản thân tôi và tổ chuyên mơn thống nhất áp dụng đổi mới hình thức
dạy học theo phương pháp này vào năm học tiếp theo ở các khối, lớp sao cho
phù hợp.
3.2. Kiến nghị

- Đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót cần có sự góp ý xây dựng của tổ
chuyên môn và đồng nghiệp để được hoàn thiện và sâu hơn.
- Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được thực hiện một cách đồng đều ở
các lớp, tổ chuyên môn phải lên kế hoạch và có phương hướng triển khai cụ thể
từ đầu năm học thông qua các việc làm cụ thể như: Xác định địa chỉ (bài nào?
Nội dung nào?) tích hợp giáo dục KNS, xây dựng chương trình kịch bản cho
hoạt động ngoại khóa nhằm giáo dục KNS cho HS để trình duyệt với Ban giám
hiệu…
- Nhà trường cần quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở, vật chất, tài liệu,
thời gian cho tổ chuyên môn thực hiện kế hoạch. Tổ chức giao lưu, trao đổi,
học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp các trường bạn trong, ngoài huyện.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỜNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 13 tháng 05 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Hồng Thị Hạnh

skkn

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, 2006
2. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, 2008

3. Phương pháp giảng dạy kĩ năng sống. NXB Văn Hóa thơng tin 2013
4. Một số kỹ năng cần thiết dành cho học sinh trung học phổ thông. NXB Giáo
dục Việt Nam, 2011.
5. Nguồn tư liệu, ảnh trên Internet.

skkn

19



×