Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Skkn một số giải pháp góp phần phát triển năng lực ngôn ngữ qua việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 6 ở trường thcs xuân cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.51 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GĨP PHẦN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
NGƠN NGỮ QUA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NÓI CHO
HỌC SINH LỚP 6 Ở TRƯỜNG THCS XUÂN CAO

Người thực hiện: Lê Thị Oanh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Xuân Cao
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

skkn


MỤC LỤC
1

Mở đầu...........................................................................................................1

1.1. Lí do chon đề tài.............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................2
2

Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm.........................................................2


2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm........................................................2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm........................4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..............................................4
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục của bản
thân, đồng nghiệp, nhà trường.............................................................................14
3

Kết luận, kiến nghị.....................................................................................15

3.1. Kết luận........................................................................................................15
3.2. Kiến nghị......................................................................................................16

skkn


1. Mở đầu
1.1. Lí do chon đề tài
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 6 thay thế cho chương trình
năm 2006 được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học
sinh, trong đó phải kể đến năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Tuy nhiên,
cho đến nay, dạy học theo định hướng phát triển năng lực nói chung, năng lực
ngơn ngữ nói riêng vẫn là một thử thách đối với giáo viên Ngữ văn ở trường phổ
thơng. Vì thế, việc tìm ra những biện pháp dạy học Ngữ văn theo định hướng
phát triển năng lực người học, trong đó có năng lực ngơn ngữ, đáp ứng u cầu
của chương trình 2018 là điều vơ cùng cần thiết.
Chương trình 2018 mơn Ngữ văn lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp
(đọc, viết, nói và nghe) là yêu cầu trọng tâm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp
học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học
được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ

trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe của học sinh.
Trong các kĩ năng trên, nói là kĩ năng quan trọng và cần được đầu tư nhiều
về thời gian, cơng sức. Qua tiết luyện nói, giáo viên luyện cho học sinh biết vận
dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói đúng, viết đúng, biết
diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa, giáo viên còn rèn cho
học sinh các vấn đề liên qua đến lời nói (phải rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói (phải
vừa nghe, vừa cố gắng truyền cảm) và tư thế nói (phải mạnh dạn, tự tin giúp cho
lời nói có sức thuyết phục hơn). Nói năng tốt có ý nghĩa rất quan trọng đối với
các em khơng chỉ trong thời gian học ở trường mà cịn trong suốt cuộc đời, đặc
biệt là khi các em trưởng thành gắn với hoạt động giao tiếp thực tế. Rèn luyện kĩ
năng nói cho học sinh là một việc làm khó, nhưng dù khó thế nào, yêu cầu của
kĩ năng nói cũng phải ln ln được coi trọng. Nếu như nghe và đọc là hai kĩ
năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thơng tin, thì nói và viết là hai kĩ năng
quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát
triển trong nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường góp phần phát triển năng lực ngôn ngữ và năng
lực văn học, giúp học sinh có thói quen nói trong những mơi trường giao tiếp
khác nhau. Nó được thực hiện một cách có hệ thống, theo những chủ đề nhất
định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày. Văn nói phát
triển cho học sinh kĩ năng lựa chọn từ ngữ, kiểu câu mang phong cách khẩu ngữ.
Tập làm văn nói rất có ích cho người đọc, người học, giúp học sinh có khả năng
độc thoại theo đề tài thường gặp trong đời sống (như phát biểu ý kiến của mình
về một vấn đề nào đó, hay trong thảo luận hoặc trong giao tiếp hằng ngày). Giáo
viên quan tâm đến việc luyện nói cho học sinh là đã góp phần phát triển ngôn
ngữ cho các em thực hành giao tiếp. Với các em lớp 6, việc rèn kĩ năng nói là
việc làm vô cùng quan trọng giúp các em phát âm chuẩn, diễn đạt đúng ý định
của bản thân. Nếu đọc, nói khơng đúng, khơng rõ ràng thì q trình giao tiếp sẽ .
gặp khó khăn, người nghe khó hiểu trọn vẹn được ý định của người nói. Nhiệm

skkn



2
vụ đặt ra cho người giáo viên là để thực hiện các bài luyện nói cho các em cần
lựa chọn phương pháp nào? Biện pháp nào giúp các em mạnh dạn hơn trước tập
thể lớp, trước thầy cô và trước mọi người xung quanh, biết diễn đạt được những
điều mình muốn nói. Làm thế nào để các bài luyện nói theo sách giáo khoa Ngữ
văn sẽ góp phần dạy các em giao tiếp hàng ngày trong cuộc sống. Những trăn
trở này chính là lí do tơi chọn đề tài: “Một số giải pháp góp phần phát triển
năng lực ngơn ngữ qua việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 6 ở trường
trung học cơ sở Xuân Cao”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Việc rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 6 là rất cần thiết, góp phần phát
triển ngơn ngữ cho các em vào việc thực hành giao tiếp. Các tiết rèn luyện kĩ
năng nói sẽ giúp các em phát âm chuẩn, diễn đạt đúng ý định của bản thân. Bởi
vì nếu đọc, nói khơng đúng thì q trình giao tiếp sẽ gặp nhiều khó khăn, người
nghe khó hiểu trọn vẹn ý định người nói. Vậy phát triền năng lực nói cho học sinh
là việc làm thiết thực vừa góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Ngữ văn vừa
hình thành phong cách cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể, có kỹ
năng giao tiếp trong cuộc sống. Nói tốt cũng là cơ sở quan trọng cho việc tạo lập
văn bản tốt.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là đối tượng chính. Nhưng để đạt
hiệu quả cao, vấn đề đặt ra cịn là các kĩ năng khác như tìm hiểu đề, tìm ý, xây
đựng đoạn văn, diễn đạt bằng lời trong bài văn nói.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: trên cơ sở lý thuyết
chung về đặc trưng bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông, đặc biệt là
dựa vào đặc trưng của kiểu bài văn nói thực hiện trong một tiết học.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Khảo sát

thực tế qua bài văn nói cho đối tượng học sinh khối 6 tại trường. Ngồi ra có sự
thu thập thơng tin, tham khảo thêm kinh nghiệm của đồng nghiệp trong trường
và ngoài nhà trường.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dùng phương pháp này để phân tích
các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, từ đó xác lập các lý thuyết liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: cụ thể qua các bài luyện nói của
học sinh khối 6 qua các mặt cụ thể và yêu cầu cần đạt khi thực hiện tiết học.
- Phương pháp so sánh: từ việc điều tra, khảo sát thực tế để có số liệu đến
tiến hành xử lí số liệu để có phép so sánh bằng con số cụ thể. Thơng qua đó để
thấy được tác dụng thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nói đến ngơn ngữ là nói đến cơng cụ dùng để giao tiếp trong cuộc sống.
Có ngơn ngữ thì mới có quan hệ xã hội và quan hệ xã hội chính là nơi để phát
triển ngôn ngữ.  Hằng ngày, người Việt Nam ta nói với nhau bằng tiếng Việt và

skkn


3
cũng hằng ngày, báo chí, đài phát thanh, truyền hình và các thông tin đại chúng
của chúng ta phát ra khắp thế giới chữ viết, tiếng nói giàu đẹp của chúng ta.
Tiếng nói ấy lâu đời như dịng giống của chúng ta, nó đã trở nên thứ “Của cải vơ
cùng quý báu” (Hồ Chủ tịch) của dân tộc. Môn học Ngữ văn trong nhà trường
có vai trị quan trọng trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ người học.
 
Năng lực ngôn ngữ là một năng lực tổng hợp trên cơ sở những biểu hiện
của bốn yếu tố đọc, viết, nghe, nói cấu thành. Các yếu tố đó có mối quan hệ chặt
chẽ, thúc đẩy và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên tính tồn diện năng lực

đặc thù của môn Ngữ văn. Năng lực ngôn ngữ là một trong hai năng lực đặc thù
của bộ mơn Ngữ văn. Nói một cách đơn giản, năng lực ngôn ngữ là năng lực
biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình cảm của mình bằng lời nói, cũng như
nét mặt, cử chỉ, và điệu bộ. Người có năng lực ngơn ngữ là người giỏi về tiếng
mẹ đẻ (tiếng Việt) và thành thạo tiếng nước ngoài. Ở đây chỉ bàn đến năng lực
ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh qua việc học môn Ngữ văn.
Tiếp nối môn Tiếng Việt ở cấp tiểu học, môn Ngữ văn ở trung học cơ sở
được xem là mơn học chủ đạo có thể giúp học sinh phát triển năng lực ngôn
ngữ. Năng lực ngôn ngữ của học sinh gồm 3 năng lực sau: Năng lực làm chủ
ngơn ngữ tiếng Việt địi hỏi học sinh phải có một vốn từ nhất định, hiểu và cảm
nhận được sự giàu đẹp của tiếng Việt, nắm được quy tắc về từ ngữ, ngữ pháp,
chính tả; Năng lực sử dụng tiếng Việt để giao tiếp đòi hỏi học sinh phải biết sử
dụng thuần thục tiếng Việt trong nhiều tình huống khác nhau, môi trường khác
nhau và đối tượng khác nhau; Năng lực sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản là
năng lực rất quan trọng đối với học sinh trong nhà trường phổ thơng. Rèn luyện
kĩ năng nói là phương pháp ưu thế nhằm phát triển năng lực ngôn ngữ cho học
sinh.
Chương trình sách giáo khoa hiện nay và Ngữ văn 6 nói riêng đặc biệt
chú trọng “Trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng Ngữ văn cho học sinh là làm
cho học sinh có kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo kiểu
văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng
lực cảm nhận và bình giảng văn học”. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng
nói: “Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ,
mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nổi bật điều mình
muốn nói...”. Như vậy, phát huy được tính tích cực trong học tập cho học sinh
thông qua việc luyện nói chính là cách để các em rèn luyện ngơn ngữ, cách diễn
đạt trước tập thể và trước đám đông tạo nên tâm thế tự tin cần thiết. Việc rèn
luyện năng lực nói chính là giúp các em phát triển tốt ngôn ngữ tiếng Việt trong
thực hành giao tiếp.
Qua việc trang bị và rèn luyện các phẩm chất và năng lực cho học sinh,

mơn học này góp phần quan trọng vào mục tiêu chung của nhà trường phổ
thơng: hình thành, phát triển nhân cách, tư tưởng và tâm hồn con người. Qua
mỗi giờ Ngữ văn, người học có ý thức sống ngày một tốt hơn, đẹp hơn, đúng
như nhà văn Nga, M. Gorơki đã viết: “Mỗi cuốn sách là một bậc thang nhỏ, giúp
tôi tách khỏi con thú để tiến dần đến với con người”.

skkn


4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Học sinh ở trường trung học cơ sở Xuân Cao là một xã ở xa trung tâm, các
em đều xuất thân và sinh sống ở vùng nông thôn, ít có dịp đi đây, đi đó để mở
rộng tầm nhìn nên thường có tâm lí e dè, ngại nói hoặc khơng tự tin khi nói trước
đơng người. Khơng những thế ngồi giờ học, các em quen nói tự do, cịn trong
giờ tập nói, các em phải trả lời, phải suy nghĩ, trình bày lời nói của mình dưới sự
giám sát của giáo viên.
Học sinh phát âm chưa tốt, nói sai nhiều, do ảnh hưởng của từ ngữ địa
phương. Khi trả lời học sinh có thói quen lặp lại từ, diễn đạt vụng về, thiếu mạch
lạc, tác phong chưa mạnh dạn, khơng dựa vào đề cương để nói mà thường là
đọc.
Vốn từ ngữ ở học sinh còn hạn chế nên các em lúng túng trong việc diễn
đạt, nhiều em hiểu đề nhưng khi vận dụng vào việc tạo lập văn bản thì khơng
diễn đạt được vì nghèo vốn từ.
Thời gian cho một tiết rèn luyện kĩ năng nói khơng đủ để giáo viên có thể
cho số lượng học sinh lên nói được nhiều, vì lớp có sĩ số học sinh khá đơng cho
u cầu của một tiết luyện nói. Việc áp dụng khi tổ chức giờ dạy cụ thể cho đối
tượng học sinh trong trường cịn nhiều khó khăn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của tiết dạy

Chúng ta phải hiểu rằng đây là tiết giúp học sinh “rèn luyện kĩ năng nói”
thì học sinh phải được nói. Phải thực sự luyện trên lớp cho từng em được nói.
Trước khi luyện nói theo tơi, giáo viên phải nêu thật rõ yêu cầu của tiết học. Khi
học sinh lên bảng trình bày, giáo viên phải đứng ở vị trí cuối lớp để nắm bắt và
nhận xét đúng khả năng thành tích đạt được của các em trong q trình luyện
nói (trình bày một vấn đề bằng miệng). Đồng thời cần định hướng cho học sinh
đi đúng yêu cầu, nói chứ khơng phải là đọc. Đã nói thì phải vận dụng đúng ngơn
ngữ, nói thể hiện rõ nhất là ngữ điệu trong sử dụng thành văn. Ngồi ra, các em
cịn thể hiện qua cử chỉ, nét mặt, sắc thái tình cảm, thái độ khi trình bày.
Ví dụ: Kể về một chuyến đi thăm di tích lịch sử
Khi cho học sinh luyện nói đề bài này, giáo viên cần phải cho các em xác
định và nắm vững các bước làm một bài văn tự sự, cần cho học sinh xác định
được phần tìm hiểu đề, tìm ý; giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh định
hướng nội dung bài luyện nói. Chẳng hạn: đề yêu cầu các em làm gì? Với đề
này các em cần trình bày những nội dung nào? Bố cục của bài luyện nói gồm
mấy phần? Sau đó giáo viên sẽ chỉnh sửa lại cho phù hợp và u cầu học sinh
trình bày bài luyện nói của mình.
2.3.2. Hướng dẫn việc chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh
Muốn một giờ luyện nói đạt kết quả tốt, ngoài việc hướng dẫn cho học
sinh đi đúng yêu cầu của một giờ luyện tập trên lớp thì việc cho các em chuẩn bị
bài ở nhà cũng rất quan trọng. Muốn các em chuẩn bị bài tốt, có chất lượng thì
sự chuẩn bị, hướng dẫn của giáo viên cũng phải chu đáo. Giáo viên cần hướng
dãn học sinh chọn chủ đề phù hợp với bản thân. Khi đã chọn được chủ đề phù

skkn


5
hợp rồi, giáo viên phải phân việc cụ thể cho từng đối tượng học sinh (có thể
phân theo dãy bàn, tổ, nhóm) để học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng, tránh đối phó qua

loa, đại khái.
Ví dụ: Trong tiết 12, 13 rèn luyện kĩ năng nói ở lớp 6 có đề bài: Kể lại
một trải nghiệm. Học sinh có thể chọn trải nghiệm: “Một chuyến đi thành phố
của em.”
Với đề bài này dàn ý có thể lập như sau:
a, Mở bài
Lí do ra thành phố
b, Thân bài
- Lòng háo hức khi được ra thành phố
- Những điều tai nghe, mắt thấy ở thành phố
+ Quang cảnh chung của thành phố (xe cộ, nhà cửa, người đi lại…)
+ Quang cảnh của một khu phố cụ thể đã đi qua.
+ Cảnh một siêu thị hiện đại, sang trọng, người mua bán tấp nập
+ Cảnh một công viên đẹp đẽ, trẻ em đông vui nhộn nhịp.
+ Em được chụp ảnh kỉ niệm, mua sách vở, đồ dùng học tập.
c. Kết bài:
Chia tay- cảm xúc về chuyến đi
Giáo viên phải phân nhóm cho học sinh (mỗi nhóm từ 4-5 em) như sau:
+ Nhóm chuẩn bị phần mở bài
+ Nhóm chuẩn bị phần kết bài
+ Năm nhóm chuẩn bị phần thân bài với năm ý
Giáo viên có thể sử dụng Bảng kiểm bài nói để hướng dẫn và đánh giá bài
nói của học sinh.
Bảng kiểm bài nói kể lại trải nghiệm của bản thân
Đạt/
Các phần của bài
Nội dung kiểm tra
Chưa
nói
đạt

Dùng ngơi thứ nhất để kể.
Giới thiệu sơ lược về trải nghiệm.
Mở bài

Dẫn dắt chuyển ý, gợi sự tị mị, hấp dẫn với
người đọc.
Trình bày chi tiết về thời gian, khơng gian, hồn
cảnh xảy ra câu chuyện.
Trình bày chi tiết những nhân vật liên quan.

Thân bài

Trình bày các sự việc theo trình tự hợp lí, rõ ràng.
Kết hợp kể và tả.

Kết bài

Nêu ý nghĩa của trải nghiệm đối với bản thân.

skkn


6
2.3.3. Cả lớp đều tham gia luyện nói
Làm thế nào để cả lớp tham gia luyện nói theo đúng nghĩa của nó? Đó là
yêu cầu quan trọng của tiết dạy. Thường thì những giờ luyện nói như thế này
giáo viên khơng khéo léo thì một số em lơ là, khơng tham gia luyện tập, ỷ lại chỉ
chờ kết quả của các thành viên khác trong nhóm mà khơng chịu tư duy. Vì vậy
tơi cần phải tìm ra những biện pháp tốt nhất mà trong đó khơng thể bỏ qua việc
các em tham gia nhận xét, đánh giá sự trình bày của bạn. Vấn đề đặt ra là giáo

viên phải hướng cho học sinh biết đánh giá thế nào là đúng. Tơi có thể u cầu
các em như sau:
Ví dụ:
? Em hãy nhận xét phần trình bày của bạn? Theo em bạn nói đã đúng nội
dung bài hay chưa? (bạn đọc hay nói?) Phần trình bày nội dung có cần bổ sung
thêm những ý nào không?
? Cử chỉ, thái độ, giọng điệu của bạn trình bày đã phù hợp hay chưa? (cử
chỉ, thái độ, giọng điệu biểu hiện như thế nào?)
Muốn đạt được những yêu cầu này, trước hết tôi phải đặt ra những yêu
cầu đối với các em như: biết nhận xét đúng, sai của bạn tức là mình đã có sự
chuẩn bị bài ở nhà hoặc tơi có thể khuyến khích các em về những lời khen đã có
sự chuẩn bị bài tốt hoặc có thể dùng phần thưởng bằng điểm số hoặc quà cho cả
em được tham gia nói và cả em tham gia nhận xét.
2.3.4. Rèn luyện nội dung và hình thức nói
Trước khi dạy bài này, giáo viên có thể cho các em được xem trên ti vi
một bài văn nói làm mẫu. Sau đó, tổ chức cho học sinh xung phong trình bày
các vấn đề hoặc có thể gọi các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu, kém trình
bày. Giáo viên căn cứ vào bài nói của học sinh để rút kinh nghiệm cho các em
lần sau nói tốt hơn lần trước.
* Rèn luyện nội dung nói
- Học sinh nói phải có nội dung, nói có suy nghĩ, điều chỉnh kịp thời nội
dung để đáp ứng yêu cầu người nghe.
- Nói theo đề cương mà nội dung đã chuẩn bị.
- Nói tập trung vào vấn đề, chọn dẫn chứng tiêu biểu.
- Điều chỉnh nội dung nói: nhắc lại điều người nghe chưa hiểu, lướt những
điều người nghe đã rõ.
- Kết hợp đúng mực nội dung và ngữ điệu, không để cho ngữ điệu lấn át
nội dung.
Ví dụ: Trình bày ý kiến về một vấn đề trong đời sống gia đình
Với đề bài này, các em cần phải trình bày được:

a, Mở bài
- Vai trị của gia đình trong đời sống mỗi người
- Vấn đề em quan tâm trong đời sống gia đình
b, Thân bài
- Một gia đình ln u thương, đầm ấm thì sẽ tạo ra những thành viên
tích cực.

skkn


7
- Tình cảm gia đình là thứ thiêng liêng nhất khơng gì có thể sánh được.
Nhưng để có một gia đình bình n, hạnh phúc phải có sự cố gắng của các thành
viên trong gia đình.
+ Cha mẹ khơng chỉ là tấm gương để con học tập theo, mà cần trở thành
một người bạn của con.
+ Cịn con cái thì cần biết vâng lời, lễ phép và học tập những đức tính tốt
đẹp của cha mẹ. 
+ Đối với anh chị em trong một gia đình cần sống hịa thiện, nhường nhịn,
chia sẻ và giúp đỡ nhau.
+ Có đơi khi, tình yêu thương lại xuất phát từ những hành động vô cùng
nhỏ bé. 
c, Kết bài:
- Duy chỉ có gia đình là đem đến cho con người tình yêu thương chân
thành nhất.
- Bởi vậy chúng ta cần phải biết quý trọng những người thân yêu. Mỗi
thành viên trong gia đình hãy cùng nhau xây dựng một tổ ấm hạnh phúc.
* Rèn luyện hình thức nói
- Nắm vững đề tài cần nói, huy động nhanh vốn từ đúng, từ hay, đặt câu
đúng và hay, cách dựng đoạn.

- Bài nói phải rõ ràng, mạch lạc, phát âm chuẩn, tránh dùng từ ngữ địa
phương.
- Vận dụng nét mặt, cử chỉ, dáng điệu phù hợp với nội dung nói.
- Có thái độ khiêm tốn, chân tình với người nghe, quán xuyến theo dõi
thái độ người nghe.
+ Tạo cho các em có nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ
Khi tiếp xúc với các em lần đầu tiên, tôi thấy cần thiết lập tốt mối quan
hệ, giúp học sinh thấy được sự gần gũi, thân tình nơi giáo viên điều này là cơ sở
giúp học sinh dễ dàng bộc lộ với giáo viên hơn trong những giờ sau. Giáo viên
có thể làm quen với các em bằng cách giới thiệu về mình cũng là cơ sở để các
em theo đó mà tự giới thiệu bản thân về những điều đơn giản như họ, tên, tuổi,
sở thích ... Điều này khơng kém phần quan trọng, vì nếu làm được như vậy thì
giáo viên đã góp phần vào giúp học sinh bắt đầu tập làm quen với việc phát biểu
miệng.
+ Phát huy kĩ năng nói trong các giờ học, kết hợp với việc rèn luyện các
kĩ năng khác
Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kĩ năng nói cho học sinh thơng
qua những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích tư
duy và sự phản xạ của học sinh. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp để tập
cho các em biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần
bình tĩnh, tự tin ... Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát biểu suy
nghĩ trong khi phát biểu và cả trong khi thảo luận, ngay cả khi ý kiến đó là sai
hoặc chưa hồn tồn chính xác. Bên cạnh đánh giá việc trình bày của học sinh,
giáo viên cũng nên lưu ý cho học sinh những lỗi cần tránh về chính tả và hướng

skkn


8
dẫn cách nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn cho người nghe. Do đó giáo

viên phải giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung bài nói, bao gồm các vấn đề:
- Nói cái gì? (Xác định đề tài)
- Nói với ai? (Xác định đối tượng giao tiếp)
- Nói trong hoàn cảnh nào? (Xác định hoàn cảnh giao tiếp)
- Nói như thế nào? (Cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe)
Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói, tránh đọc lại hoặc
thuộc lịng để đọc lại bài văn chi tiết đã chuẩn bị.
Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên, khơng gị bó, áp
đặt). Tác phong tự nhiên, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng mọi
người. Khơng nói ra ngồi những gì mà đề bài yêu cầu. Có lời chào khi kết thúc
bài nói.
+ Tạo cho học sinh hồn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói
Trước mỗi giờ luyện nói, tơi cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước
khoảng một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay chia lớp từ 3 đến
4 nhóm, mỗi nhóm một đề tài (nếu tiết học có đề tài nhiều).
Vào giờ học, tơi cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế trước khi
lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để chọn đại
diện lên nói, nên hướng cho học sinh có thái độ cùng nhau hợp tác, thời gian
thảo luận là 5 phút.
Khơng khí của giờ luyện nói nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài
nói của mình. Để tạo hứng thú cho học sinh học tập tôi đã đánh giá khen ngợi,
khuyến khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi
bài nói tốt.
2.3.5. Sử dụng trị chơi trong tiết luyện nói
* Hái hoa tìm ý
Có thể dùng hình thức này đối với lớp dạy có nhiều HS yếu kém, chưa
thành thạo kĩ năng tạo lập kiểu văn bản đang học, chưa quen nói trước tập thể;
lại ít có (hay khơng có) nhân tố tích cực (học sinh khá, giỏi, lanh lợi, hoạt bát)

làm nòng cốt.
Cách thực hiện
+ Khâu chuẩn bị
- Lựa chọn một bài tập (không ôm đồm nhiều về số lượng bài tập).
- Thông báo bài tập đã chọn cho học sinh biết trước để chuẩn bị.
- Định hướng cho học sinh bằng một số câu hỏi (để giải quyết bài tập).
Những câu hỏi này được cung cấp từ trước tiết học để học sinh suy nghĩ, chuẩn
bị lời.
- Một bảng phụ- mơ hình dàn ý phù hợp với bài tập.
- Các câu hỏi gắn với mơ hình dàn ý (mỗi câu hỏi được trình bày về hình
thức tựa như những bơng hoa.
- Học sinh tự trình bày dàn ý vào vở soạn theo gợi ý từ các câu hỏi cho

skkn


9
trước và tập chuẩn bị ngơn ngữ nói trước khi đến lớp.
+ Trình tự tiến hành trong tiết học
- Phân lớp học thành một số nhóm.
- Lần lượt mời từng đối tượng học sinh trong các nhóm lên hái hoa và trình
bày trước lớp theo hình thức tiếp sức (để tạo khơng khí sơi nổi, kích thích sự
mạnh dạn, tự tin…)
- Lớp và giáo viên lần lượt nhận xét (theo chiều hướng nhắc nhở nhưng vẫn
khích lệ, nâng đỡ để tránh cho các em cảm giác xấu hổ, tự ti…) về việc trình bày
đối với từng câu hỏi của từng nhóm và cùng trao đổi để gắn hoa vào mơ hình
dàn ý.
- Giáo viên sơ kết, giảng giải ngắn gọn về dàn ý và cách trình bày kiểu văn
bản cần tạo lập.
- Học sinh khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài (theo dàn ý) để khắc sâu cách

tạo lập kiểu văn bản đang học.
- Nếu còn thời gian, tiếp tục tổ chức cho các em trình bày theo dàn ý trước
nhóm (nói từng phần để tạo điều kiện cho nhiều học sinh được trình bày).
* Trị chơi thơng thái
Hình thức này dành cho đối tượng học sinh nhút nhát, tuy có khả năng
viết bài nhưng chưa mạnh dạn, tự tin nói trước tập thể.
Khi mục tiêu cụ thể của tiết dạy không đặt nặng kỹ năng làm bài (tạo lập
văn bản) mà còn phải biết tư duy thành lời - ngơn bản thì cần luyện kỹ năng ứng
đáp mau lẹ, nói năng rõ ràng, mạch lạc có cử chỉ, nét mặt, âm lượng phù hợp.
Giáo viên cho học sinh thi hình thức Trị chơi thơng thái sẽ phát huy tác dụng.
Cách thực hiện
+ Điều kiện: cơ sở vật chất thuận lợi.
+ Chuẩn bị
- Giáo viên phải chuẩn bị thật công phu.
+ Nhiều câu hỏi, bài tập ngắn gọn, bổ ích.
+ Tranh ảnh, vật dụng phong phú, giàu ý nghĩa.
+ Cách dẫn chương trình hấp dẫn, sáng tạo.
- Có thể vận động học sinh cùng chuẩn bị như sưu tầm tranh ảnh, vật
dụng, soạn thảo câu hỏi- đáp án…
- Có thể chuẩn bị vài phần quà nho nhỏ giúp trò chơi thêm hào hứng.
- Học sinh được thông báo giới hạn một số đề tài chính để nghiên cứu,
suy nghĩ trước.
+ Trình tự thực hiện trong tiết học
- Chia cuộc chơi thành 2-3 chặng. Lượng câu hỏi, bài tập được sắp xếp
vào từng chặng cho phù hợp.
- Sau mỗi chặng, có nhận xét và đổi người tham gia chơi.
- Giáo viên trực tiếp làm giám khảo và cho điểm theo một thang điểm đã
được thống nhất và công bố; cử học sinh làm thư ký theo dõi và tổng kết điểm ở
từng chặng, cả đợt.
- Cuối cùng giáo viên tổng kết, củng cố phương pháp tạo lập văn bản.


skkn


10
Nhận xét các đội chơi, khen thưởng và trao quà.
Khi đã thuần thục với cách làm trên thì lớp có thể “tự biên tự diễn” mà
giáo viên chỉ là người định hướng từ xa chứ không cần tham gia trực tiếp vào
quá trình hoạt động của học sinh.
* Dàn hợp xướng
- Đây là một hình thức có thể giúp cho các đối tượng học sinh cùng bổ trợ
cho nhau trong q trình thực hành kỹ năng nói về một vấn đề nào đó.
- Tạo cho học sinh khả năng làm việc tập thể, biết phối hợp nhịp nhàng,
ăn ý, biết đoàn kết, hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ.
- Hoạt động diễn ra chủ yếu dựa trên cơ sở đơn vị nhóm. Nhóm trưởng giữ
vai trị đặc biệt quan trọng (tựa như người nhạc trưởng một dàn nhạc) trong việc
điều hành nhóm.
Cách thực hiện
+ Chuẩn bị
- Phân nhóm, lựa chọn nhóm trưởng.
- Thơng báo về số lượng nội dung bài tập thực hành; cho các nhóm nhận
bài tập cụ thể.
- Hướng dẫn các nhóm chuẩn bị bài tập (chủ yếu thơng qua nhóm trưởng )
- Các nhóm học sinh lên chương trình tập luyện và chuẩn bị: làm dàn ý,
sưu tầm tranh ảnh, vật dụng, phân công việc cụ thể cho các thành viên trong
nhóm…
+ Trình tự tiến hành trong tiết học
- Mỗi nhóm trình bày trước lớp về vấn đề đã chuẩn bị dưới sự điều hành
của nhóm trưởng. Có thể theo trình tự sau:
+ Lời chào và lời tự giới thiệu về nhóm và nội dung sẽ trình bày

+ Giới thiệu dàn ý
+ Lần lượt trình bày từng phần theo dàn ý (theo nhiều hình thức sáng tạo
khác nhau).
+ Lời chào kết thúc, lời cảm ơn.
- Lớp và giáo viên lần lượt nhận xét về phần trình bày của từng nhóm.
- Giáo viên nhấn mạnh lại cách tạo lập của kiểu văn bản đang học.
- Học sinh khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài để khắc sâu kiểu văn bản và
kỹ năng nói về kiểu văn bản ấy.
+ Lưu ý
Hình thức Dàn hợp xướng có tác dụng rất tốt nhưng khó thực hiện vì nếu
chuẩn bị khơng kỹ hoặc Nhạc trưởng kém năng lực thì chương trình của nhóm
dễ bị rời rạc, thậm chí thất bại. Do đó, khâu chuẩn bị phải được đầu tư chu đáo.
Nếu học sinh đã chuẩn bị kỹ nhưng khi thực hành vẫn gặp khó khăn thì
giáo viên nên nhẹ nhàng gỡ bí và dẫn dắt, giúp các em hồn thành chương trình
của nhóm.
Mặt khác cũng khơng nên u cầu q cao, nhất là khi thực hiện hình thức
này lần đầu.
Giáo viên cần linh hoạt trong quá trình điều phối các hoạt đông.

skkn


11
2.3.6. Rèn luyện ngơn ngữ nói qua việc luyện đọc trong giờ học văn bản
Môn ngữ văn được coi là mơn học cơng cụ hướng tới việc hình thành và
phát triển các năng lực đọc, nói, viết cho học sinh. Nếu như trước đây chúng ta
coi phân tích tác phẩm hay giảng văn là phương pháp đặc thù của dạy văn thì
hiện nay đã có sự đổi mới. Cách dạy đọc - hiểu không nhằm truyền thụ một
chiều cho học sinh những cảm nhận của giáo viên về văn bản được học, mà
hướng tới việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách khám phá vấn đề để từ đó

học sinh chủ động, tích cực thể hiện sắc thái cá nhân của mình giúp hình thành
các kĩ năng trong đó có kĩ năng nói. Người học càng đọc nhiều thì vốn từ càng
phong phú và có khả năng dùng từ chính xác, hiệu quả. Đó chính là “nền móng”
hình thành khả năng nói trong giao tiếp của con người. Bởi vậy đọc - hiểu văn
bản là một thao tác của nói, có đọc được mới nói được và lẽ hiển nhiên đọc tốt
thì nói tốt.
Nhận thức rõ điều đó nên tơi đưa ra giải pháp giúp các em luyện nói tốt
qua các giờ đọc hiểu văn bản. Thông qua hệ thống bài đọc - hiểu văn bản với
những chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài học, kỹ
năng đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội, con người,
cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt góp phần giúp học sinh tự tin hơn trong giao tiếp
hàng ngày.
Chương trình giáo dục phổ thông mới môn Ngữ văn 6 đã dành cho các em
thời lượng bài học để đọc văn bản kết hợp với việc thực hành tiếng Việt. Nhưng
muốn lôi cuốn, truyền cảm và rèn luyện ngơn ngữ nói cho các em thì tiết đọc
văn bản phải đảm bảo một thời gian đọc thích hợp cho có chất lượng, tránh lối
làm qua loa, đại khái, đọc để mà đọc vì sợ thiếu giờ dạy. Đọc khơng có mục
đích đúng đắn, khơng thu được kết quả nào thì đọc để làm gì? Có lẽ tất cả mọi
giáo viên dạy văn đều biết rằng đọc tốt ảnh hưởng rõ rệt đến nói và viết, làm cho
nói và viết dần trở nên tốt. Qua đọc, học sinh có thể hiểu phần nào ý nghĩa của
bài văn, hỗ trợ một phần nào cho kĩ năng nói của các em.
Đọc chuẩn một văn bản có nghĩa là phải đọc đúng, đọc rõ, đọc diễn cảm,
đọc hay.
Để đạt được điều đó trước một văn bản giáo viên cần cung cấp cho các
em kĩ thuật đọc một tác phẩm cụ thể trong giờ đọc hiểu. Muốn vậy tôi đề ra yêu
cầu và cách đáp ứng yêu cầu như:
- Đọc diễn cảm là một phương pháp đọc sáng tạo người đọc phải thể hiện
được tình cảm, cảm xúc của tác giả, nhân vật thông qua ngữ điệu. Đọc diễn cảm
là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức, thẩm mỹ cho các em, lôi cuốn
học sinh nhập hồn vào tác phẩm. Giáo viên có thể đọc mẫu hướng dẫn học sinh

đọc cụ thể rồi gọi một học sinh đọc tốt đọc trước. Sau khi học sinh đọc xong,
giáo viên phải nhận xét rõ ràng và những nhận xét đó phải mang tính chất khen
ngợi hơn chê. Cách đọc này phù hợp với các tác phẩm trữ tình như “Mây và
sóng”, “Con chào mào”
- Đọc phân vai là cho học sinh đóng vai các nhân vật trong truyện để đọc.
Cách đọc này phù hợp với các tác phẩm tự sự. Phương pháp này tái hiện lại lời

skkn


12
thoại nhân vật một cách cụ thể, làm cho câu chuyện hấp dẫn, sống động hơn.
Đồng thời cũng giúp các em đễ dàng xác định các tuyến nhân vật, lời thoại nhân
vật, tính cách nhân vật qua giọng điệu. Cách thực hiện phương pháp này:
+ Giáo viên cần phân vai rõ ràng, phù hợp, hướng dẫn cụ thể trước khi
đọc để mạch truyện không bị phá vỡ khi các em nhầm vai.
+ Giáo viên sẽ đọc phần dẫn truyện để dẫn dắt, nhắc nhở các vai kịp thời
khi các em lúng túng.
+ Sau một đoạn có thể dừng lại nhận xét cách đọc và mời nhóm học sinh
khác đóng vai đoạn tiếp theo.
Ví dụ: Khi dạy truyện: “Nếu cậu muốn có một người bạn”
Giáo viên cho học sinh đọc diễn cảm phân vai sẽ góp phần tái hiện lại
cảm xúc, suy nghĩ, những điều thú vị về tình bạn mà nhân vật khám phá sau
cuộc trò chuyện. Cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa hoàng tử bé và một con cáo trên
Trái Đất đã mang đến cho cả hai những món q q giá. Cáo khơng hối tiếc vì
nhờ có tình bạn với hồng tử bé, nó khơng cịn thấy đời mình chỉ có buồn tẻ và
sợ hãi như trước kia. Thế giới xung quanh cáo khơng cịn “buồn q” mà trở
nên rực rỡ, tỏa sáng, ấm áp và rộng mở đáng yêu. Tình bạn sẽ khiến cho cuộc
đời cáo trở nên tươi sáng, đẹp đẽ, tràn đầy hạnh phúc như thể được chiếu
sáng. Đọc phân vai tốt sẽ giúp các embước đầu cảm nhận được ý nghĩa của tình

bạn. Khơng có sự gắn bó, niềm u thương thì mọi người, mọi vật trong thế
giới này sẽ hóa thành nhạt nhẽo, vơ nghĩa, “ai cũng giống ai”… 
- Luyện cách phát âm đúng, ngắt hơi đúng, đọc đúng thanh điệu, đọc
đúng từ
Đối với giao tiếp nói trước đám đơng thì việc phát âm đúng, ngắt hơi
đúng và dùng từ đúng nghĩa là việc cần thiết. Với các em học sinh lớp 6 cách
rèn luyện này sẽ giúp các em tự tin trong giao tiếp tránh được sự mặc cảm, tự ti.
Một yêu cầu cần thiết của môn ngữ văn là muốn học tốt phải đọc tốt,
muốn đọc tốt phải nói tốt. Vì vậy ngồi việc rèn cho học sinh có kỹ năng nói
đúng đủ nội dung theo yêu cầu thì người giáo viên cần rèn cho học sinh cách
phát âm đúng, ngắt hơi đúng, đọc đúng thanh điệu.
Một thực tế là khi nói học sinh thường biểu hiện nhiều nhược điểm như
nói ngọng, nói nhỏ, nói sai ngữ pháp, nói ngập ngừng…
Để khắc phục những lỗi đó trong giờ học giáo viên cần:
+ Chữa phát âm sai: một trong những lỗi do phát âm sai phổ biến là khi
phát âm không phân biệt được giữa thanh ngã và thanh hỏi.
Để sửa lỗi đó giáo viên phải hướng dẫn các em cách đọc cụ thể để yêu cầu
học sinh đọc và trong mỗi giờ học quan tâm nhiều hơn để học sinh đó phải cố
gắng sửa chữa, tạo sự tự tin khi nói.
+ Chữa nói nhỏ: Với những năm đi dạy tôi đã gặp nhiều học sinh nói nhỏ
khi phát biểu, đặc biệt hơn khi sinh hoạt kỹ năng sống vào sáng thứ hai dù nói
qua micrơ nhưng vẫn khơng ai nghe rõ em đang nói gì. Bởi vậy trong giờ văn tơi
đã chú ý tới các em đó và uốn nắn sửa chữa cho các em. Rất nhiều học sinh đã
có sự tiến bộ rõ rệt.

skkn


13
Ví dụ: Nói nhỏ dễ chữa nhưng nó rất quan trọng trong việc hình thành kỹ

năng giao tiếp bởi vậy trong lớp với các tiết học tôi gọi em học sinh nói nhỏ
đứng lên trả lời khi nói xong tơi hỏi cả lớp:
- Ở dưới các em có nghe bạn nói khơng?
Cả lớp trả lời:
- Khơng ạ!
Tơi u cầu em đó:
- Em nhắc lại cho các bạn nghe!
Lần này em đó có thể nói to hơn trước hoặc nói nhỏ.
Xong tôi yêu cầu em khác:
- Em hãy nhận xét ý kiến của bạn.
Em được gọi nhận xét trả lời:
- Bạn nói nhỏ q em chẳng nghe thấy gì cả ạ!
Tơi gợi ý ln:
- Em nói lại cho bạn nghe đi!
Lần này em đó nói có sự tiến bộ, nói to hơn.
Gọi một bạn khác nhận xét. Em đó sẽ nói:
- Bạn nói rõ ràng và em đã nghe thấy ạ! Bạn trả lời đúng rồi ạ.
Lúc này tơi sẽ nói:
- Em thấy đó nếu em nói nhỏ sẽ chẳng ai nghe thì làm sao các bạn nhận
xét được, làm sao biết em nói đúng hay sai, hay hay dở. Như vậy dù ý kiến có
hay đến mấy mà nói nhỏ cũng vơ ích. Vậy khi nói phải nói to, rõ, thế mới tôn
trọng người nghe.
2.3.7. Rèn luyện tư thế, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt qua tiết luyện nói
Trong giao tiếp ngơn ngữ, nói đóng một vai trị quan trọng giúp thiết lập
nên mối quan hệ với những người xung quanh. Nhưng trong giao tiếp tư thế, cử
chỉ, ánh mắt, nét mặt cũng đóng một vai trị quan trọng người ta gọi đó là tín
hiệu khơng lời. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tín hiệu khơng lời mang
thơng tin nhiều gấp 5 lần so với nói bằng lời: 75% thông tin mà con người thu
nhận được là qua kênh thị giác, qua kênh thính giác là 12%, xúc giác là 6%,
khứu giác là 4%, vị giác là 3%. Đồng thời trong giao tiếp muốn cho người nghe

hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc, logic,
phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm lượng…
Vì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong q trình dạy học văn, là biện pháp
góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Luyện nói tốt sẽ
giúp người học sẽ có được một cơng cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.
Hiểu rõ điều đó nên để giúp học sinh có kỹ năng nói trước đám đơng,
trong mỗi giờ học tôi đều uốn nắn rèn luyện đặc biệt những điều trên qua các tiết
nói.
Trong chương trình lớp 6 các em có các tiết luyện nói:
Tiết 12,13: Kể lại một trải nghiệm.
Tiết 26: Trình bày ý kiến về một vấn đề trong đời sống gia đình.
Tiết 54: Trình bày suy nghĩ về tình cảm của con sơng q hương.

skkn


14
Tiết 67: Chia sẻ một trải nghiệm về nơi em sống hoặc từng đến.
Tiết 86: Kể lại một truyện truyền thuyết.
Tiết 100: Kể lại một truyện cổ tích qua lời một nhân vật.
Tiết 128, 129: Thảo luận về giải pháp khắc phục nạn ô nhiễm môi trường.
Số lượng tiết không nhiều song cũng là điều kiện để rèn luyện cho các
em khả năng đứng trước lớp hoạt động độc lập một mình.
Bên cạnh đó, khi gọi học sinh lên bảng trình bày phần mình đã chuẩn bị,
giáo viên cần gần gũi, nhẹ nhàng và trực tiếp theo dõi các em với thái độ niềm
nở, bởi vì trong các tiết luyện nói các em phải đứng trước lớp thực hiện việc nói
(thuyết trình) có khơng ít em có thói quen rụt rè, ngại nói sẽ nói nhỏ và nói ấp a
ấp úng, diễn đạt kém. Những lúc này giáo viên có nét mặt nhăn nhó, khó chịu thì
lại càng làm cho các em rụt rè hơn và thậm chí cịn hoảng sợ khơng nhớ và
khơng trình bày đước vấn đề và lần sau sẽ khơng dám nữa.Nếu khi học sinh

thuyết trình không nhớ hoặc thiếu vốn từ để diễn đạt giáo viên nhẹ nhàng gợi
mở cho học sinh những câu hỏi gợi ý. Đây là bước quan trọng nhất trong việc
hình thành kỹ năng giao tiếp nói trước đám đơng bởi vậy cũng trong tiết học này
giáo viên cần nhẹ nhàng uốn nắn từ cách diễn đạt, cử chỉ, ánh mắt sao cho các
em thấy tự nhiên, thích thú với tiết học. Cơng việc này khơng thể vội vàng mà
cần có sự kiên trì của người hướng dẫn là giáo viên và sự nỗ lực của người thực
hiện là học sinh.
Ví dụ: Trong tiết “Trình bày suy nghĩ về tình cảm của con sông quê
hương”, bàn tay đưa lên ngực khi nói là một cử chỉ biểu hiện sự chân thành yêu
quý. Khi kể về việc xa quê, nhớ quê lời nói trầm lắng xúc động…
Đồng thời trong bước này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động
nhóm để hỗ trợ lẫn nhau, vừa phát huy tính sáng tạo của học sinh vừa giúp một
số em rụt rè dần quen với việc đứng trước mọi người có cách ứng xử, giao tiếp
trong cuộc sống hàng ngày. Học sinh trò chuyện tranh luận cùng nhau theo nội
dung bài học.
Sau mỗi phần lên bảng của học sinh, giáo viên cần có thái độ khen, chê,
khi chỉ ra cái các em chưa đạt được cần có cách nói khéo léo để các em thấy và
sửa chữa, trách cách nói chê bai khiến các em mất tự tin và ngại ngùng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục của
bản thân, đồng nghiệp, nhà trường
Trước khi chưa áp dụng các biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh,
tôi đã kiểm tra thái độ các em. Tơi nhận thấy các em cũng rất thích học mơn học
này và học cũng rất sôi nổi, nhưng vận dụng được luyện nói, nói hai chiều, nói
hay, nói biểu hiện giọng điệu, ánh mắt… thì chưa có. Giáo viên chưa phát huy
được điều đó cho các em. Đây là yếu tố hạn chế khiến cho ý nghĩa của tiết học
văn mất đi một phần ý nghĩa. Khi các em phát triển được năng lực ngôn ngữ
qua tiết học, chắc hẳn sẽ yêu môn học nhiều hơn. Đầu năm 2021- 2022, kĩ năng
nói ở các lớp 6A và 6B với cách diễn đạt của các em còn hạn chế. Cụ thể như
sau:
Ở bài luyện nói kể chuyện tiết 12,13:


skkn


15

Lớp
6A
6B

Sĩ số
41
42

Số HS chưa biết
cách nói

Số HS nói theo
hướng đúng mẫu

Số HS nói có lời
nói hay

SL

%

SL

%


SL

%

24
28

58,5
66,6

12
11

29,2
26,1

5
3

12,3
7,3

Sau khi áp dụng những phương pháp như đã nêu trên thì học sinh có sự
chuyển biến tương đối khá tốt.
Các em khơng cịn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đơng để
luyện nói mà theo vào đó là sự tự tin, thái độ cởi mở hơn.
Khơng khí lớp học có sự hào hứng, sơi nổi, các em thích được học những
tiết luyện nói hơn.
Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em khơng có sự

ngập ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ. Do đó, đa số bài nói đều
hồn chỉnh hơn lúc trước.
Kĩ năng nói của các em đã có sự tiến bộ, các em biết chào khi mở đầu và
khi kết thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói cũng trơi chảy, gãy gọn, đúng chính
tả, biết kết hợp cử chỉ, nét mặt, thái độ, ...
Dưới dây là kết quả tôi khảo sát được sau khi áp dụng kinh nghiệm (ở bài
luyện nói kể chuyện tiết 100).
Lớp

Sĩ số

6A
6B

41
42

Số học sinh chưa
biết cách nói
SL
%
9
21,9
15
35,7

Số học sinh nói theo
hướng đúng mẫu
SL
%

17
41,4
14
33,3

Số học sinh nói
có lời nói hay
SL
%
15
36,7
13
31,0

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Từ những thành công qua các biện pháp trên, bản thân tôi rút ra những bài
học kinh nghiệm sau đây:
Rèn luyện kĩ năng nói là một cách để hồn thiện hơn năng lực ngôn ngữ
cho học sinh. Thời lượng các tiết luyện nói tuy khơng nhiều nhưng là yếu tố
quan trọng để học sinh có kĩ năng nói tốt hơn. Bởi thế, người giáo viên dạy văn
phải thấy được tầm quan trọng của tiết luyện nói ở lớp 6 nói riêng và ở bậc trung
học cơ sở nói chung, từ đó có sự tìm tịi và đem hết trách nhiệm của mình để tiết
học này đạt kết quả cao nhất. Giáo viên cần biến tiết luyện nói này trở thành
niềm háo hức được nói, được thể hiện của học sinh.
Muốn giờ luyện nói đạt kết quả tốt, người giáo viên phải có sự chuẩn bị
chu đáo. Trước hết là chuẩn bị giáo án, sau đó là chuẩn bị cụ thể, tỉ mỉ cho việc

skkn



16
hướng dẫn sự chuẩn bị bài của học sinh. Có như vậy cả giáo viên và học sinh
mới thực hiện tốt việc luyện nói trên lớp.
Trong giờ luyện tập, giáo viên phải phát huy trí tuệ của học sinh, áp dụng
những biện pháp tốt nhất để cả lớp tham gia luyện tập. Từ đó giúp các em hiểu
được yêu cầu của tiết luyện tập cũng như nâng cao kĩ năng nói trước tập thể học
sinh.
Thơng qua tiết luyện nói, giáo viên giáo dục cho học sinh lịng tự hào
được nói tiếng Việt, biết tơn trọng và giữ gìn sắc thái ngữ âm độc đáo của tiếng
Việt. Lòng tự hào về tiếng Việt của học sinh phải thể hiện: học tập, xây dựng
tiếng nói và chống những cách nói khơng đúng, không lành mạnh.
3.2. Kiến nghị
Rất mong Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục tiếp tục tổ chức hội
thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ văn trong từng năm để giáo viên có
dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao
chất lượng dạy học môn văn, và đặc biệt là dạng bài luyện nói. Từ đó, có những
chương trình thiết thực với chúng tôi về ứng dụng đổi mới phương pháp dạy và
học Ngữ văn trong các chuyên đề Bồi dưỡng thường xuyên theo chu kì.
Hi vọng đề tài nhận được sự quan tâm góp ý của bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Xuân Cao, ngày 25 tháng 3 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết


Lê Thị Oanh

skkn


17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Sách giáo khoa Ngữ Văn 6 - Nhà xuất bản Giáo dục
2, Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS môn Ngữ
văn 6 (Bộ GD & ĐT)
3, Sách thiết kế bài giảng Ngữ văn 6(Nhà xuất bản Hà Nội)
4, Sách hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn THCS - Tập
1(Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam)
5, Sách Bồi dưỡng Ngữ văn 6(Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh)
6, Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn THCS quyển 1(Đỗ Ngọc Thống, Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam)

skkn


18
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Oanh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Xuân Cao
Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD

cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số kiến giải về việc
sử dụng hệ thống câu hỏi tích
hợp trong giảng văn

2.

3.

Một số biện pháp nâng
cao chất lượng dạy học môn
Ngữ văn ở trường THCS
Xuân Cao
Một số giải pháp khai
thác phần chú thích trong giờ
đọc hiểu văn bản

Ngành GD
cấp huyện

Kết quả

đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc
C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

C

2011 - 2012

Ngành GD
cấp huyện

C

2016 - 2017

Ngành GD
cấp huyện

B

2019 - 2020

 

skkn




×