Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Skkn nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương trình lịch sử việt nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT THIỆU HỐ
…………………………
==========šµ›==========

ĐỀ TÀI
“NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG CHƯƠNG
TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11 BẰNG PHƯƠNG PHÁP KỂ
CHUYỆN LỊCH SỬ”

Họ và tên: Nguyễn Thăng Xuyên
Chức vụ : Giáo Viên
SKKN thuộc lĩnh vực môn : lịch sử

THANH HÓA NĂM 2021 - 2022
MỤC LỤC

skkn


1.Mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của SKKN
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1.Cơ sở lý luận của SKKN
2.2.Thực trạng các vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.3.Các SKKN hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4.Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,


đồng nghiệp và nhà trường
3.Kết luận, kiến nghị
- Kết luận.
- Kiến nghị.
- Tài liệu tham khảo.
- Phụ lục.

Trang
1
2

3
4
5

17

18
19

20

skkn


1.Mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài
Lịch sử với chức năng là một bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt
là những sự kiện liên quan đến con người. Lịch sử là quá khứ chứa đựng nhiều giá
trị văn hoá và nguồn dữ liệu quý giá để đánh giá sự phát triển ở hiện tại. Bất kì

quốc gia nào cũng đều học môn lịch sử bởi lịch sử có giá trị vơ cùng quan trọng ,
sử học ni dưỡng đạo đức con người, giáo dục con người tính cần cù, chăm chỉ,
sáng tạo, yêu thương, đoàn kết gia đình, yêu quê hương đất nước. Việc học lịch sử
lại càng vơ cùng quan trọng trong xu thế tồn cầu hố hiện nay.
Với vị thế là một mơn khoa học, bộ mơn lịch sử trong trường phổ thơng có
vai trị quan trọng trong việc đào tạo giáo dục học sinh trở thành một con người
toàn diện, giáo dục đạo đức, thẩm mĩ, thế giới quan khoa học cho học sinh như giáo
dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc, lòng biết ơn...Lịch sử khơng chỉ dạy cho
học sinh tình cảm yêu ghét trong đấu tranh giai cấp mà còn bồi dưỡng cho các em
năng lực đối xử với mọi người xung quanh, biết yêu quý cái đẹp, yêu lao động, sự
căm thù quân cướp nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Khơi dậy ở học sinh sự
thông cảm sâu sắc và lịng kính u đối với quần chúng nhân dân. Bởi vì lịch sử
chính là “cơ giáo của cuộc sống”, giúp các em có ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc và kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng dân tộc của cha ông trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Tuy nhiên, hiện nay bộ môn lịch sử trong trường THPT chưa thực sự được
đề cao. Vị trí, vai trị của lịch sử bị một bộ phận không nhỏ phụ huynh và học sinh
thờ ơ xem nhẹ. Bên cạnh đó, trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ nặng về
cung cấp kiến thức sự kiện, con số trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng
những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. Yêu cầu cấp thiết
đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng, đáp ứng
nhu cầu đào tạo. Một biện pháp quan trọng trong đó là sử dụng tài liệu tham khảo
trong đó có sử dụng những mẫu chuyện lịch sử kết hợp hình ảnh nhằm gây hứng
thú học tập cho học sinh.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm 1858 - 1918 có vị trí quan trọng trong
tiến trình lịch sử dân tộc. Nội dung chính của giai đoạn này là cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam của thực dân Pháp và cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ nền
độc lập và giải phóng dân tộc của nhân dân ta; trong đó, nội dung đấu tranh chống
xâm lược được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Trong giai đoạn này gắn với mỗi bước
phát triển của lịch sử là những sự kiện, nhân vật - những mẩu chuyện lịch sử.

Những câu chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực quan sẽ có tác dụng cụ thể hoá kiến
thức, giúp các em tái hiện quá khứ một cách chân thực nhất . Đồng thời có tác dụng
mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của học sinh hình thành trong các em lý tưởng
sống cao đẹp, ý thức trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, quê hương đất nước.
Xuất phát từ thực tế trên, với hơn 10 năm giảng dạy lịch sử THPT tôi phải
từng bước đổi mới phương pháp dạy học bộ mơn, để tìm ra phương pháp hay, cách
dạy mới giúp học sinh có thể tiếp cận kiến thức mơn học một cách dễ dàng, gây

skkn


hứng thú cho học sinh, để các em được sống lại với quá khứ thăng trầm của lịch sử
dân tộc Việt Nam và thế giới.
Để nâng cao hiệu quả bài học, nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh tơi
xin trình bày đề tài: “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương trình
lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử”. Với việc nghiên
cứu đề tài này, tơi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học lịch
sử có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng u
thích mơn học.
1.2.Mục đích nghiên cứu
Nhằm đổi mới phương pháp dạy - học của giáo viên và học sinh khối 11 ở
trường THPT Thiệu Hóa, giúp giáo viên có thêm một phương pháp dạy mới, học
sinh có một cách học mới để tiếp thu và lĩnh hội những tri thức lịch sử hiệu quả,
góp phần phát huy năng lực tư duy, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
1.3.Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nghiên cứu và áp dụng cho đề
tài là học sinh khối 11 ở ba lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy là 11B4, 11B5, 11B14
THPT Thiệu Hóa năm học 2021 - 2022.
1.4.Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã thực hiện các bước cụ thể sau

đây:
- Nghiên cứu các tài liệu lí luận và vấn đề sử dụng các câu chuyện, giai
thoại trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Nghiên cứu tìm hiểu SGK, sách giáo viên, sách bài tập, tài liệu chuẩn kiến
thức và kĩ năng, các tài liệu tham khảo kiến thức lịch sử lớp 11.
- Thông qua việc thao giảng, dự giờ đồng nghiệp để trao đổi rút kinh
nghiệm, đặc biệt là những tiết dạy học có sử dụng kể chuyện lịch sử.
- Cho học sinh làm bài kiểm tra, sử dụng phiếu trắc nghiệm khách quan sau
những tiết có sử dụng kể chuyện lịch sử để tổng kết kinh nghiệm sư phạm, đúc rút
kinh nghiệm kịp thời để điều chỉnh quá trình dạy - học cho phù hợp với đối tượng
học sinh.
- Phương pháp thực nghiệm: tiến hành soạn và thực nghiệm các tiết dạy cụ
thể để khẳng định tính khả thi, hiệu quả của việc sử dụng kể chuyện lịch sử trong
dạy học lịch sử.
1.5. Những điểm mới của SKKN
Giáo viên sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong giai đoạn lịch sử Việt nam
từ 1858 -1918 gắn với sự kiện, nhân vật sẽ giúp các em hiểu rõ quá trình xâm lược
Việt Nam của thực dân Pháp và quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân ta. Nhờ đó, từng sự kiện, biến cố lịch sử quan trọng sẽ hiện lên với đầy đủ
tính cụ thể, gợi cảm và đầy kịch tính của nó, đem đến cho học sinh những cảm xúc
mạnh mẽ không thể nào quên, tạo hứng thú học tập cho các em qua từng tiết dạy,
giúp các em đam mê, thích thú với mơn học lịch sử hơn.

skkn


2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu xã hội và con người trong sự phát triển
của nó, nghiên cứu quá khứ cuộc sống của nhân loại một cách tồn diện với những

quy luật chung và tính cụ thể. Khoa học lịch sử vì thế có những đặc trưng riêng:
Thứ nhất: tri thức lịch sử mang tính khái quát. Đó là những sự kiện lịch sử
đã xảy ra, người ta không thể quan sát trực tiếp được lịch sử quá khứ mà chỉ nhận
thức chúng một cách gián tiếp thơng qua các nguồn tài liệu.
Thứ hai: Tính không lặp lại. Mỗi sự kiện, hiện tượng chỉ xảy ra trong một
thời gian khơng gian nhất định.
Thứ ba: Tính cụ thể. Mỗi sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một
hồn cảnh cụ thể về khơng gian, thời gian nhất định. Đặc điểm này đòi hỏi khi trình
bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể, sinh động, có hình ảnh bao nhiêu
thì càng hấp dẫn hứng thú bấy nhiêu.
Thứ tư: Tính hệ thống. Sự vận động từ quá khứ tới hiện tại, từ hiện tại tới
tương lai trong hiện thực lịch sử luôn là quá trình phát triển hợp quy luật.
Từ đặc trưng trên của bộ môn cho ta thấy trong giảng dạy lịch sử ngồi sách
giáo khoa là tài liệu cơ bản thì việc sử dụng tài liệu tham khảo trong đó các mẩu
chuyện lịch sử cũng là một nguồn kiến thức quan trọng giúp học sinh hiểu sâu sắc
kiến thức lịch sử, mà lịch sử là một câu chuyện dài, rất hay và ý nghĩa. Người thầy
có nhiệm vụ khơi gợi cho học sinh cảm nhận cái hay của câu chuyện.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1.Thực trạng chung của THPT Thiệu Hóa
Những năm qua, mặc dù cịn gặp nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ lực cố gắng
của tập thể THPT Thiệu Hóa đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong việc nâng
cao chất lượng dạy - học, đặc biệt là tỉ lệ học sinh giỏi và học sinh thi đậu tốt
nghiệp, các trường trung cấp, cao đẳng, đại học ngày càng cao. Một thực tế vẫn tồn
tại là qua nhiều năm THPT Thiệu Hóa vẫn chưa khắc phục được là chất lượng “đại
trà”, tỉ lệ học sinh yếu kém môn lịch sử chiếm một số lượng tương đối .
2.2.2.Về phía giáo viên
* Ưu điểm:
Nhóm Sử hiện nay có nhiều giáo viên trẻ, tuổi đời, tuổi nghề đang bước vào
độ chín, được đào tạo chính quy, có năng lực chun mơn vững vàng, nhiệt tình,
u nghề, cầu tiến, có tinh thần trách nhiệm cao trong cơng tác chun mơn, ham

học hỏi, tìm tịi và sáng tạo.
* Hạn chế:
Trong qúa trình giảng dạy, phần lớn giáo viên chỉ dựa vào sách giáo khoa
mà chưa chú trọng vào việc mở rộng nguồn nhận thức, hình thức tổ chức dạy học.
Đặc biệt là chưa có phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo khi dạy học, nếu có thì
cũng rất hình thức như giới thiệu vắn tắt nội dung của tài liệu, trích đọc một đoạn
tài liệu để minh hoạ, nhắc đến một nhân vật nào đó thì học sinh sẽ quên ngay sau
tiết học. Ít giáo viên sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong bài giảng của mình.

skkn


Bên cạnh đó mặc dù đã cải cách chương trình giảng dạy nhưng vẫn còn một số bài
quá dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với cả giáo viên truyền thụ
lẫn việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.
2.2.3Về phía học sinh
* Ưu điểm :
Hầu hết các em đều xuất thân từ gia đình thuần nơng nên ngoan ngỗn, chịu
khó. Trong giờ học lịch sử các em lắng nghe giáo viên giảng bài, tập trung theo dõi
SGK, làm bài tập theo yêu cầu của giáo viên, có ý thức vươn lên trong cuộc sống.
* Hạn chế :
Về phía học sinh: Đa số các em vẫn cịn thói quen học vẹt, khơng nắm sâu được
Bản thân tơi trong học kì I vừa qua đã đảm nhận việc giảng dạy ba lớp : 11B4,
11B5, 11B14. Kết quả đạt được trong học kì I như sau:_______________________
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Lớp

SLHS
SL %
SL
%
SL
%
SL %
SL
%
11B4
38
10
50
7
18,4
2.6
1 2,6
26,3 19
1
42
11B5
2 4,7
7
16,6 25 59,5
7 16,6
1
2,6
11B14
36
5

4 11,1
5,5
1 2,7
13,8 24 66,6
2
kiến thức vì vậy sẽ mau qn kiến thức cũ, hoặc có nhớ thì cũng khơng thực sự
chính xác các sự kiện lịch sử.
Trong quá trình giảng dạy, với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học
tập bộ mơn của học sinh, vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy, tôi thiết
nghĩ phải từng bước điều chỉnh phương pháp dạy học của mình cho phù hợp với
đối tượng học sinh khối 11 nhằm nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn. Tôi đã
thực hiện “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương trình lịch sử Việt
Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử”. Với việc thực hiện phương
pháp này, tôi từng bước điều chỉnh cách học của học sinh nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, tự giác cho người học trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội và vận dụng
kiến thức đã học để làm bài kiểm tra đạt được kết quả cao hơn, gây hứng thú cho
các em trong mỗi giờ lịch sử.
2.3.Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vân đề
* Những nguyên tắc cần tuân thủ khi sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử
trong dạy - học lịch sử
- Để sử dụng các câu chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử một cách hiệu quả,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hứng thú học tập cho học sinh, đỏi
hỏi giáo viên phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đảm bảo tính tư tưởng. Tính tư tưởng trong dạy học lịch sử thể
hiện ở việc đứng vững trên lập trường quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nên khi lựa chọn những câu chuyện lịch sử phải xem xét để đảm bảo
tính tư tưởng.
-Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học, tính chính xác. Đây là yêu cầu quan trọng


skkn


trong nội dung dạy học để đảm bảo học sinh có cái nhìn đúng về sự kiện, nhân vật,
hiện tượng lịch sử.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức. Nội dung câu chuyện đưa vào dạy học phải
phù hợp với tâm lý lứa tuổi, hồn cảnh và trình độ nhận thức của học sinh. Ngôn
ngữ phải trong sáng, dễ hiểu, biểu cảm....
2.3.1.Nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh.
Giáo viên cần phải lựa chọn các câu chuyện lịch sử cho phù hợp với những
kiến thức sự kiện lịch sử cơ bản, phục vụ cho bài học để từ đó học sinh hiểu sâu sắc
bài học, kích thích sự ham học, khơi dậy nội lực của mình. Giáo viên sử dụng
phương pháp kể chuyện không đơn thuần là để minh hoạ mà cịn để cụ thể hố kiến
thức, tái hiện nội dung kiến thức để tạo biểu tượng lịch sử, rút ra bài học lịch sử.
Một số phương pháp kể chuyện lịch sử trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11
ở THPT Thiệu Hóa.
Trong bài giảng, phương pháp sử dụng kể chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực
quan - quan sát tranh ảnh là đặc biệt nhất, để nâng cao tính tích cực của học sinh,
làm bài giảng sinh động có hiệu quả. phương pháp kể chuyện phải sử dụng kết hợp
với các phương pháp dạy học lịch sử khác một cách đồng bộ. Việc lồng ghép kể
các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong bài dạy sẽ được học sinh có thêm cơ sở
để nắm vững bản chất sự kiện, ghi nhớ sự kiện, có ấn tượng mạnh và ngưỡng mộ
về nhân vật. Qua đó, thực hiện tốt việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hình
thành thói quen tư duy, ghi nhớ sự kiện thông qua việc liên tưởng tới các câu
chuyện được kể, khắc sâu hơn nội dung lịch sử, vấn đề lịch sử.
2.3.2.Sử dụng các câu chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực quan để trình
bày diễn biến một cuộc chiến tranh, một cuộc khởi nghĩa, một chiến dịch... từ
đó rút ra bài học lịch sử.
Khi các bài học có nội dung liên quan đến diễn biến của một cuộc khởi nghĩa,
cuộc kháng chiến, một chiến dịch... giáo viên sử dụng bản đồ, lược đồ hay sa bàn.

trong quá trình tường thuật sự kiện, có thể cho học sinh xem một đoạn phim tư liệu
lịch sử, giáo viên kết hợp kể những câu chuyện có liên quan đến sự kiện đang trình
bày, cho học sinh quan sát tranh ảnh. Điều này có tác dụng giúp học sinh nhớ tốt
hơn diễn biến, sau đó giáo viên có thể đặt một vài câu hỏi để các em nêu lên những
suy nghĩ của bản thân và rút ra được nội dung bài học hoặc cho học sinh kể trên cơ
sở đã chuẩn bị câu chuyện.
Ví dụ 1: Khi dạy chủ đề: “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược ( 1858 – 1884) ”. Có rất nhiều sự kiện nhưng giáo viên chọn sự kiện
tiêu biểu nhất đó là chiến thắng Cầu Giấy lần 1 năm 1873 . Giáo viên sử dụng lược
đồ trận Cầu Giấy kết hợp hình ảnh để tường thuật trận phục kích làm nên chiến
thắng Cầu Giấy vang dội của nhân dân ta (21/12/1873).
Trận Cầu Giấy diễn ra vào ngày 21/12/1873 khi Gác-ni-ê đang bàn luận với
các sứ bộ An Nam thì viên thơng dịch vào báo rằng quân Cờ Đen (tức quân Lưu
Vĩnh Phúc) đang đánh thành ở cửa Tây, lính Pháp đang nã súng ra, buộc quân Cờ
Đen phải rút lui sau lùm tre. Gác-ni-ê liền gọi một tốn lính hơn một chục người rồi

skkn


giao cho ba người kéo một cỗ súng đại bác ra ngồi cổng thành đuổi theo qn
địch. Vì súng thì nặng nên không đi nhanh được, Gác-ni-ê ra lệnh bỏ lại với vài tên
lính. Chín tên lính cịn lại thì Gác-ni-ê chia thành ba nhóm. Hai nhóm truy kích
vịng ra hai phía tả hữu cịn Gác-ni-ê thì dẫn nhóm trực chỉ lối giữa. Đuổi khoảng 1
km rưỡi thì Gác-ni-ê trượt chân ngã xuống ở chân dốc đê. Một toán quân Cờ Đen
ẩn đằng sau đê ùa ra, súng bắn tràn. Lúc đó Gác-ni-ê đã bỏ xa hai người lính hộ vệ
100 mét. Một người trúng đạn chết; người kia cũng bị thương. Gác-ni-ê gào to:
"Hỡi những binh sĩ dũng cảm, hãy lại đây với tôi, tôi sẽ đánh cho chúng một trận
chí tử!" Sau đó Gác-ni-ê cố tự vệ dùng súng côn bắn sáu phát. Quân Cờ Đen xông
ra bao vây giết chết Gác-ni-ê và một binh sĩ khác Bốn người đồng đội khác của
Gác-ni-ê cũng bị giết trong cuộc truy kích này.


Pháp đánh thành Hà Nội 1873 do Gác- ni- ê chỉ huy

skkn


r

Lược đồ chiến trường Hà Nội

skkn


Gác-nỉ-ê tử trận tại cầu Giấy (21/12/1873)
Qua đó học sinh nắm được chiến thắng Cầu Giấy có ý nghĩa lớn khiến cho
nhân dân ta vơ cùng phấn khích, ngược lại làm cho thực dân Pháp vô cùng hoang
mang lo sợ. Tình hình đó mở ra một cơ hội để qn ta tấn cơng Pháp buộc chúng
rút khỏi bắc Kì. Song triều đình một lần nữa lại kí với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất
năm 1874 chịu nhiều thiệt thòi . Từ đây, phong trào kháng chiến của nhân dân vừa
chống thực dân Pháp vừa chống phong kiến đầu hàng.
Ví dụ 2 : Khi dạy bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân
Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”, phần II mục 4: “ Khởi nghĩa Yên Thế
(1884-1913)” giáo viên kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh và kể :
Từ năm 1884 đến năm 1892. Tại vùng n Thế có hàng chục tốn qn
chống Pháp hoạt động riêng lẻ, đặt dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh khác nhau. Thủ
lĩnh có uy tín nhất lúc đó là Đề Nắm đã lãnh đạo nghĩa quân đẩy lùi nhiều trận càn
quét của quân Pháp vào khu vực Cao Thượng, Hố Chuối. Đến năm 1891, nghĩa
quân làm chủ một vùng rộng lớn và mở rộng hoạt động sang Phủ Lạng Thương
(vùng thành phố Bắc Giang ngày nay). Trước những đợt tấn công, càn quét mới của
giặc, nghĩa quân phải rút dần lên vùng Bắc Yên Thế xây dựng, củng cố hệ thống

cơng sự phịng thủ. Tháng 3-1892, Pháp huy động khoảng 2 200 quân, gồm nhiều
binh chủng ồ ạt tấn công vào căn cú của nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân bị tổn
thất nặng, nhiều người bị địch bắt và giết hại, một số phải ra hàng. Đề Nắm bị sát
hại vào tháng 4-1892.
Pháp đem quân đánh mãi mà không được nên năm 1894, Pháp phải xử hồ
với ơng, cho ơng cai quản 22 xã trong vùng YênThế, Đề Thám lập căn cứ ở Chợ
Gò. Dân chúng gọi ông là con “Hùm thiêng YênThế” Nhưng hai năm sau thì Đề
Thám lại nổi lên đánh Pháp, tới năm 1898 thì Pháp lại xin ký hồ ước nhường cho
ơng thêm nhiều quyền lợi nữa. Đề Thám sống yên cho tới năm 1905 thì lại nổi dậy

skkn


đánh Pháp một lần nữa. Năm 1908, Đề Thám quyết định đánh một cú lớn để chiếm
thành Hà Nội nên đã âm mưu với nhiều người đầu bếp để bỏ thuốc độc (bột datura)
cho 200 lính Pháp giữ thành ăn, nhưng vì liều thuốc hơi yếu nên lính Pháp chỉ bị
lảo đảo chứ không chết, cuộc âm mưu bất thành. Đầu năm 1909, quân đội Pháp

Thủ lĩnh Đề Thám

skkn


quyết định mở chiến dịch lớn để tấn công Đề Thám trong tận sào huyệt, Đề Thám
thua nên bỏ trốn vào rừng. Pháp ra giải thưởng 25.000 đồng cho ai bắt hay giết
được Đề Thám. Có ba tay lãng tử người Tàu vì ham tiền nên tìm đến Đề Thám để
xin gia nhập rồi thừa lúc ban đêm ông ngủ mà xúm đến chặt đầu ông đem về lãnh
thưởng ngày 10 tháng 2 năm quý-sửu (18-3-1913), chấm dứt một cuộc kháng chiến
trường kỳ trên một phần tư thế kỷ.


Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế
Qua đó cho học sinh thấy đây là phong trào đấu tranh lớn nhất của nông dân
trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nói lên ý chí, sức mạnh bền bỉ,
dẻo dai của nông dân.
2.3.3 Sử dụng câu chuyện lịch sử để giải thích tên gọi một địa danh, một
vùng đất, bản chất của sự kiện lịch sử
Phần lịch sử Việt Nam lớp 11 có rất nhiều sự kiện, địa danh thường rất khơ
khan và khó nhớ. Để học sinh dễ nhớ và hứng thú hơn trong giờ học, giáo viên cần
có những mẫu chuyện sinh động, kết hợp xem tranh ảnh để tạo nên sự hấp dẫn cho
bài học hoặc qua phần học sinh tìm hiểu các em tự kể, sau đó giáo viên đặt câu hỏi
để các em nhận xét. Còn để cho học sinh nắm được bản chất của sự kiện, tức là trả
lời được câu hỏi vì sao thì giáo viên sử dụng các mẩu chuyện lịch sử rồi từ đó nêu
tình huống có vấn đề.
Ví dụ 1: Khi dạy chủ đề : Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược( 1858 – 1884) lịch sử Việt Nam lớp 11 phần II mục 3: “Phong trào
kháng chiến ở Bắc Kì trong những năm 1973-1974”. Để học sinh hiểu được tinh
thần chiến đấu của quân dân Hà Nội khi thực dân Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất

skkn


qua việc giải thích vì sao cửa Ơ Thanh Hà lại được đổi thành Ô Quan Chưởng, giáo
viên kể kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh:
Ô Quan Chưởng : Đây là một trong những cửa Ơ cịn sót lại của toà thành
Thăng Long cũ, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia
Long thứ 3 được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay (cho HS xem
ảnh của Ô Quan Chưởng hoặc trình chiếu PowerPoint). Hiện ở cửa ơ cịn ngun
cửa chính và hai cửa phụ hai bên. Bên trên cửa lớn có ghi ba chữ Hán “Đơng Hà
Mơn” tức là cửa ơ Đơng Hà. Sở dĩ cửa ơ cịn có tên gọi là Ơ Quan Chưởng vì ngày
20.11.1873 Pháp đánh thành Hà Nội, khi đến cửa ô Đông Hà chúng đã vấp phải sức

kháng cự quyết liệt của 100 binh sĩ triều đình do một viên quan Chưởng cơ chỉ huy
anh dũng chặn giặc, kết cục viên Chưởng cơ cùng toàn thể 100 binh sĩ đều anh
dũng hy sinh. Để tỏ lòng ngưỡng mộ người chưởng cơ anh dũng, nhân dân đổi tên
cửa ơ là Ơ Quan Chưởng. Từ bấy đến nay người ta vẫn chưa xác minh được tên gọi
của vị chưởng cơ anh hùng. Vì vậy tên Ơ Quan Chưởng vẫn cịn đó như một tồn
nghi của lịch sử.

Ơ Quan Chưởng - một trong năm cửa ơ của thành Thăng Long xưa (Hà Nội nay).

Qua đó học sinh hiểu được sự ác liệt của chiến trường Hà Nội và việc đổi tên
cửa ơ thành Ơ Quan Chưởng là do nhân dân đổi để tỏ lòng ngưỡng mộ người
chưởng cơ anh dũng khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 22: “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất
của thực dân Pháp”. Để giải thích cho sự bần cùng hố của giai cấp nơng dân và
nguồn gốc của giai cấp công nhân Việt Nam khác so với giai cấp cơng nhân quốc
tế, giáo viên sử dụng hình ảnh giai cấp nông dân, công nhân Việt Nam thời Pháp
thuộc và kể về sự ra đời và cuộc sống cơ cực của giai cấp nông dân và công nhân.

skkn


Nơng dân Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc

Cơng nhân cạo mủ cao su
Để thu những món lãi khổng lồ từ việc kinh doanh cao su, tư bản Pháp đã tìm
mọi cách chiếm đoạt những vùng đất đai tốt nhất. Sau khi thâm nhập sâu vào vùng
đất mới, vùng đồng bào dân tộc, thực dân Pháp tiếp tục lập thêm các đồn binh và
tiến hành đàn áp, bắt dân về làm lao dịch, dùng mọi thủ đoạn từ lừa bịp đến dùng

skkn



biện pháp vũ lực cướp đoạt trắng trợn đất đai, nương rẫy, và núi rừng, những vùng
cư trú của đồng bào dân tộc để làm đồn điền hoặc lập ra các trại cu ly cho các đồn
điền.
Thời gian đầu, các công ty cao su chủ yếu sử dụng lao động nhàn rỗi trong
nông dân, những người “bán công, bán nông”. Lực lượng này tuy đông nhưng thái
độ và thời gian làm việc khơng ổn định. Vì họ là nơng dân tại chỗ, những ngày giáp
hạt, thiếu ăn họ vào đồn điền làm công, đến mùa vụ họ trở về với mảnh đất khu
vườn của gia đình để sinh nhai. Đồn điền cao su càng phát triển, nhu cầu về lao
động càng trở nên cấp thiết. Để có nhiều nhân cơng, thực dân pháp không bỏ qua
một thủ đoạn man rợ nào. Desrousseaux trong một báo cáo mật gởi Tồn quyền
Đơng Dương đã viết: “Người nơng dân chỉ bằng lịng rời khỏi làng, làm việc khi
nào họ bị đói. Do đó, phải đi đến kết luận lạ lùng là phương thuốc chữa cái khuẩn
bách hiện tại (thiếu nhân công) là phải bần cùng hóa nơng thơn, rút bỏ những khoản
cấp phát, hạ giá nông sản . . . ” Nhưng tước đoạt ruộng đất và chính sách thuế khóa
nặng đối với nông dân Bắc Kỳ chưa tàn bạo bằng việc phá đê nhằm dồn dân vào
chỗ khơng cịn kế sinh nhai.
“Ơi! có một xứ nào trên trái đất mà người ta lại như ở đây, nỡ quyết định
một cách dễ dàng, trong phút chốc, cho một xứ phải chìm dưới 2 thước nước suốt 5
tháng trường. Dân tộc nào, dù là dân tộc dã man nhất, dân tộc nào lại dám quyết
định như vậy”.
Qua câu chuyện trên học sinh hiểu được chính sách cai trị tàn bạo của thực
dân pháp, để giải quyết việc thiếu nhân công chúng đã từng bước bần cùng hố
người nơng dân khơng từ thủ đoạn nào và từ sự bần cùng đó người nơng dân đã dần
trở thành giai cấp công nhân; sau này, giai cấp công nông sẽ là lực lượng cách
mạng to lớn của dân tộc.
2.3.4.Sử dụng các câu chuyện lịch sử kết hợp ảnh chân dung để tạo biểu
tượng về nhân vật lịch sử.
Xuyên suốt trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 là quá trình kháng

chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Ở đó đã xuất hiện khơng ít
những anh hùng dân tộc như: Nguyễn Tri Phương, Tơn Thất Thuyết, Phan Đình
Phùng, Hồng Hoa Thám... và đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Những
nhân vật này có vai trị rất lớn với lịch sử dân tộc do vậy trong dạy học giáo viên
không thể lướt qua, bỏ qua mà phải khắc hoạ, tạo biểu tượng về các nhân vật đó, sử
dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử một
cách sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học sinh kính trọng, noi gương các anh
hùng dân tộc. Giáo viên có thể kể chuyện kết hợp với tranh ảnh để tạo biểu tượng.
Ví dụ 1: Với chủ đề : “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược( 1858 – 1884) ”. Để học sinh hiểu về Hoàng Diệu - một người trung
quân ái quốc, có chính khí cao, sống mãi cùng đất nước. Giáo viên kể: về cuộc đời
của Hoàng Diệu cũng như tinh thần yêu nước và sự hi sinh của ông trong cuộc
kháng chiến chống Pháp xâm lược.

skkn


Tổng đốc Hoàng Diệu
Tổng đốc Hoàng Diệu tên thật là Hồng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu
Tĩnh Trai. Ơng sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (1829) trong một gia đình có
truyền thống Nho giáo tại làng Xn Đài (Diên Phước, Quảng Nam).
Từ năm 1879 đến 1882, Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh, quản lý vùng
trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và vùng phụ cận. Ông đã lãnh đạo quân dân
Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu
hàng. Ngày 25/4 năm ấy (1882), thực dân Pháp cho quân tấn công thành Hà Nội
lần thứ hai. Trước sự uy hiếp bằng tàu to súng lớn của qn Pháp, Tổng đốc Hồng
Diệu khơng hề nao núng, vẫn quyết tâm giữ thành Hà Nội. Sự kháng cự quyết liệ t
của quân dân thành Hà Nội khiến giặc thiệt hại nặng nề. Chúng phải lui binh ra
ngoài tầm bắn của quân ta để bảo toàn lực lượng. Lúc này kho thuốc súng trong
thành bất ngờ nổ sung do nội gián đốt phá, khiến khói bụi mịt mù bao phủ khắp

thành. Quân Pháp thừa cơ tấn công mạnh mẽ. Chỉ trong chốc lát, cổng Tây thành
Hà Nội bị phá tan tành. Biết khơng thể chống cự, tổng đốc Hồng Diệu một mình
quay về Hành cung soạn di biểu tạ tội với triều đình, rồi ra Võ Miếu dùng dây quấn
đầu tuẫn tiết, hy sinh theo thành. Trong bức di biểu gửi nhà vua, tổng đốc Hồng
Diệu viết: “Thành mất khơng sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh
tiền. Thân ch ết có q uản gì, nguyện theo Nguyễn Tri Phương xu ổng đất. Quân
vương muôn dặm, huyết lệ đơi hàng...”.
Ví dụ 2: Bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam
trong những năm cuối thế kỷ XIX”, mục II “Các giai đoạn phát triển của phong
trào Cần Vương”. Ví dụ giáo viên tạo biểu tượng về Tôn Thất Thuyết và vua Hàm
Nghi. “Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29/3/1839 tại thôn Phú Mộng xã Luân Long nay

skkn


thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông chủ trương loại bỏ tất cả những
ông vua và bọn quan lại có tư tưởng thân Pháp, đồng thời chuẩn bị các điều kiện
cần thiết cho cuộc kháng chiến trong triều đình mà ơng dự đốn sẽ bùng nổ. Triều
thần, người nào chủ hoà đều bị coi là kẻ thù chung của nước Nam và thù riêng của
Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất Thuyết là 1 tử tù của nước Pháp. Nhưng đối với người
Pháp chỉ có ốn với trọng mà khơng có khinh”.

Tơn Thất Thuyết
Để giúp học sinh hiểu về vua Hàm Nghi - Một vị vua yêu nước đã ban chiếu
Cần Vương. Giáo viên kể đoạn:
“Vua Hàm Nghi tên thậy là Ưng Lịch lên ngôi 13 tuổi. Khi cuộc tấn công
quân Pháp của Tôn Thất Thuyết bị thất bại, ông cùng Tơn Thất Thuyết chạy lên
Sơn Phịng - Tân Sở (Quảng Trị) thảo chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân Phị Vua
cứu nước. Thực dân Pháp vơ cùng lúng túng trước phong trào Cần Vương, đãm tìm
cách bắt cho được Vua Hàm Nghi để dẹp phong trào từ đầu não. Pháp đã mua

chuộc tên hầu cận vua là Trương Quang Ngọc bắt vua Hàm Nghi đưa xuống thuyền
về Huế. Ngày 14/11/1888, lúc đó vua Hàm Nghi mới 17 tuổi. Pháp tìm mọi cách
thuyết phục Hàm Nghi cơng tác, làm bù nhìn song đều bị nhà vua thẳng thắn khước
từ. Ơng nói “Tơi thân đã tù, nước đã mất, cịn giám nghĩ đến cha mẹ, anh chị em
ruột”. Không mua chuộc nổi, thực dân Pháp đẩy nhà vua đi an trí tại Angieri
(Thuộc đia của Pháp). Về sau người mới học và làm chủ được ngôn ngữ Pháp. Trở

skkn


thành một hoạ sĩ có tài. Dù vậy Vua vẫn giữ nguyên tập tục dân tộc: Đầu búi bó,
quần the áo dài Việt Nam. ông sống ở Angiêri 47 năm.

Vua Hàm Nghi
Ví dụ 3: Bài 24 Lịch sử 11: “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914-1918)” Mục 2: “Buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Tất
Thành (1911-1918)”. Cho học sinh thấy được quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước
của Nguyễn Ái Quốc, giáo viên kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh và kể đoạn
chuyện sau:
“....Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên anh mới nếm mùi
kem. Sau ít hơm anh đột nhiêu hỏi: “Anh Lê, anh có yêu nước không? Tôi ngạc
nhiên và đáp “Tất nhiên là có chứ”.
- Anh có thể giữ bí mật khơng?
- Có.
- Tơi muốn đi ra nước ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem
xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một
mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví khi đau ốm... Anh muốn đi với tơi không?
- Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
- Đây, tiền đây - Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay.
- Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi.

- Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành xuống tàu buôn Pháp mang tên La - tu sơ - Tơ - rê- vin.

skkn


Tàu La - tu - sơ - Tơ - rê- vin.

Giáo viên lại tường thuật về ngày lao động trên tàu của Người để thấy một phần
gian khổ trong quá trình đi tìm đường cứu nước.
“Hằng ngày, Nguyễn Tất Thành phải cọ rửa gian bếp lớn trên tàu, sau đó
nhóm lị, rồi khn than, kéo những sọt rau quả, thịt cá, nước đá... từ dưới hầm lên.
Có lần trong lúc giông bão, anh đang kéo một sọt nặng trên boong thì 1 đợt sóng
lớn chồm tới, cuốn lấy thân thể mảnh dẻ của anh, và xuýt lôi anh xuống biển. Thật
may mắn vào khoẳnh khắc cuối cùng thi anh bám được vào dây cáp và nhờ đó
thốt chết”.

skkn


Nguyễn Ái Quốc
Tóm lại, trên đây là một số phương pháp kể chuyện lịch sử trong dạy học
lịch sử tôi đưa ra nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao hiệu quả bài học,
truyền đạt kiến thức mới. Trong q trình vận dụng địi hỏi giáo viên phải có sự
sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết
học....
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Với sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong
chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử” năm
học 2021 - 2022 tôi đã đạt được một số kết quả như sau:

- Học sinh hứng thú hơn trong mỗi giờ học lịch sử, khơng khí của lớp học
sơi nổi, thoải mái.
- Học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức, các
em đã biết chủ động khai thác kiến thức trong SGK, vận dụng những kiến thức đã
học vào thực tế để giải quyết những câu hỏi, bài tập mà giáo viên đưa ra.
Làm thay đổi cơ bản quan niệm và cách học bộ môn lịch sử của học sinh trước đây
là lệ thuộc vào sự truyền giảng kiến thức của giáo viên sang phương pháp học mới
lấy người học làm trung tâm.Qua đó, phát huy được tư duy độc lập, khả năng quan
sát, óc sáng tạo cũng như hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ xảo đặc thù
cần thiết khi học bộ môn.
Kết quả môn học lịch sử của ba lớp học sinh khối 11 trong học kì II khi tơi thực
hiện “phương pháp kể chuyện lịch sử" đã đạt được kết quả khả quan sau:

skkn


GIỎI
SLHS [ỏi
Sl %
11B4
38
4 10,5
11B5
42
2 4,7
11B14
36
1 2,7
LỚP


KHÁ
TB
YỂU
Sl
%
Sl
%
Sl
16 42,1
17 44,7
01
01
17 40,4
22 52,3
12 33,3
21 58,3
02

%
2,6
2,3
5,5

KÉM
Sl %
0
0
0

Tuy kết quả trên đây còn khiêm tốn nhưng nó phần nào khẳng định hiệu quả của

việc áp dụng giải pháp vào quá trình giảng dạy. Đồng thời tơi cũng rút ra một số
kinh nghiệm để góp phần sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử vào dạy học lịch
sử có hiệu quả hơn
- Để phát huy tác dụng của hình thức kể chuyện trong các giờ học Lịch sử, địi
hỏi người giáo viên phải tìm tịi, tích lũy tư liệu Lịch sử
- Những câu chuyện được kể cần có sự lựa chọn kĩ lưỡng, phục vụ yêu cầu
của bài học, có thể lựa chọn các tình tiết cho phù hợp, lược bớt những chi tiết
không cần thiết. Những câu chuyện đó phải phản ánh nội dung lịch sử có liên quan
đến bài học, tránh lạm dụng và phải phù hợp với quĩ thời gian trên lớp.
- Người giáo viên phải rèn luyện cho mình một ngơn ngữ kể chuyện sao cho
sinh động, hấp dẫn, có tác dụng lôi cuốn học sinh.
- Trong bài giảng, phương pháp kể chuyện phải sử dụng kết hợp với các phương
pháp dạy học lịch sử khác một cách đồng bộ và nhuần nhuyễn như phương pháp sử
dụng đồ dùng trực quan... để nâng cao tính tích cực của học sinh, làm bài giảng
sinh động có hiệu quả.
Trên đây là một số giải pháp chủ quan của cá nhân tôi được đúc rút trong quá
trình dạy học lịch sử, tuy nhiên trong quá trình cơng tác, do hiểu biết của bản thân
cịn hạn chế, vẫn cịn nhiều thiếu sót trong việc áp dụng và thực hiện giải pháp này,
rất mong sự đóng góp, bổ sung của các đồng nghiệp để giải pháp của bản thân được
hoàn thiện hơn, áp dụng trong các tiết dạy ngày càng có hiệu quả hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
- Kết luận:
Tóm lại, “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương trình lịch sử
Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử” với tôi nhận thấy đã đạt
được những mục tiêu cơ bản yêu cầu đề ra của bộ môn là nhiệm vụ giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển. Với phương pháp dạy - học này, học sinh đã hứng thú hơn,
say mê hơn trong giờ học, phát huy được tính tích cực, chủ động trong q trình
học tập. Qua đó, giúp các em nhận thức sâu sắc hơn về vị trí và tầm quan trọng của
bộ môn lịch sử trong trường THPT mà lâu nay các em chưa thực sự quan tâm.
Có thể nói, đây là giải pháp khơng mới, khơng đặc biệt nhưng đơi khi chúng

ta có thể khơng để ý và khơng thấy hết tác dụng của nó khi áp dụng vào bài dạy.

skkn


Với kinh nghiệm bản thân tôi mạnh dạn đưa ra đây để đồng nghiệp cùng tham
khảo. Tôi hy vọng sẽ góp phần tích cực hơn nữa trong việc đổi mới phương pháp
dạy - học bộ môn lịch sử hiện nay ở Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng, hạn chế
số lượng học sinh yếu kém hằng năm, nâng cao chất lượng đại trà, để học sinh
hứng thú say mê hơn nữa với bộ mơn lịch sử. Với bản thân mình, tôi sẽ tiếp tục
phát huy những kết quả đạt được của việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, đồng
thời không ngừng đúc rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn để đề tài này được
triển khai rộng rãi trong các khối lớp một cách hiệu quả và có chất lượng.
- Kiến nghị
Qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao hứng thú học tập của học
sinh trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch
sử” tôi thấy rằng: Sử dụng các câu chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử là điều
thực sự cần thiết, có ý nghĩa lớn trên cả ba phương diện giáo dục, giáo dưỡng và
phát triển toàn diện học sinh. Đồng thời tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
* Đối với sở GD&ĐT
Cần quan tâm nhiều hơn đến bộ môn lịch sử ở trường THPT. Mua sắm nhiều
hơn nữa tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học phù hợp với yêu cầu của bộ môn để
cung cấp cho các nhà trường trong tỉnh.
*Đối với THPT Thiệu Hóa
- Nhà trường nên tổ chức các cuộc thi mang tính chất vừa chơi, vừa học,
vừa thể hiện sự hiểu biết, vừa tạo điều kiện để học sinh bộc lộ năng khiếu khác của
mình.
*Đối với giáo viên
Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.

Phải thực sự tâm huyết, tận tình với cơng việc, u nghề, có tinh thần trách
nhiệm cao trước học sinh.
Trên đây là một vài đề xuất của bản thân tôi trong sáng kiến giáo dục này.
Rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của nhà trường, đồng nghiệp để sáng
kiến đạt hiệu quả.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯƠNG ĐƠN VỊ

Thiệu Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2022
Người viết SKKN

Nguyễn Thăng Xuyên

skkn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các triều đại phong kiến Việt Nam , Quỳnh Cư, Đỗ Đức Huy, NXB Thanh

niên, 2017.
1. Cao su thiên nhiên hôm qua hôm nay và ngày mai, tập san cao su Việt Nam
số 58-59 tháng 9,10 -1977, Đặng Văn Vinh.
2. Giai cấp công nhân Việt Nam , Trần Văn Giàu, NXB Sự thật, Hà Nội,
1979
3. Giới thiệu giáo án lịch sử 11, Nguyễn Hải Châu (chủ biên), NXB Hà Nội,
2007.
4. Giáo trình Phương pháp dạy học Lịch sử - Phan Ngọc Liên chủ biên ,NXB
Giáo dục, 2005.
5. Hồ Chí Minh những tên gọi đi cùng năm tháng - Bá Ngọc, NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2003.

6. Thiết kế bài giảng lịch sử trung học phổ thông , Giáo sư Phan Ngọc Liên
(chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Tình hình cơng nhân Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, trong sách “Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam” ,
Dương Kinh Quốc, NXB Lao động, Hà Nội, 1974.

skkn


PHỤ LỤC
Giới thiệu những câu chuyện lịch sử trong chương trình lịch sử Việt Nam
lớp 11 THPT.
1. Tinh thẩn yêu nước và sự hi sinh anh dũng của Nguyễn Tri Phương
Nguyễn Tri Phương (1800-1873) là một đại danh thần thời nhà Nguyễn. Ông là vị
Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở
các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).
Đêm ngày 19, rạng sáng 20/11/1873, quân Pháp đánh úp thành Hà Nội.
Chúng chiếm vòng phòng thủ bên ngồi của hai cửa phía Nam, vượt qua cầu trước
khi quân trú phòng kịp bắn xuống.
Pháo từ các thuyền cũng bắn lên, binh lính phịng thủ nhà Nguyễn khơng quen với
đạn pháo, bỏ chạy tán loạn khỏi thành theo cửa Tây. Cùng lúc đó, quân Pháp cũng
bắn vỡ cửa Nam. Chỉ trong một giờ, quân Pháp đã treo cờ tam tài lên vọng lâu
thành Hà Nội.
Trong trận chiến chớp nhoáng này, phò mã Nguyễn Lâm (con trai Nguyễn Tri
Phương) đã chiến đấu anh dũng đến khi hy sinh ngay trên chiến trường. Nguyễn
Tri Phương bị thương nặng và rơi vào tay giặc.
Qn Pháp tìm cách mua chuộc ơng. Chúng biết rằng nếu Nguyễn Tri Phương
quy hàng, người Pháp sẽ dễ dàng đạt được mục đích chiếm nước Nam, sớm hồn
thành âm mưu biến nước ta thành thuộc địa.
Nguyễn Tri Phương không màng đến mạng sống, đã từ chối thẳng thừng yêu

cầu chữa trị vết thương, tuyệt thực tuẫn tiết để khẳng định tinh thần bất khuất của
người Việt.
Trước khi qua đời, ơng để lại câu nói đi vào sử sách: "Bây giờ nếu ta chỉ lay
lắt mà sống, sao bằng ung dung chết vì việc nghĩa".

Danh tướng Nguyễn Tri Phương qua nét vẽ của người Pháp

skkn


2.Trận Cầu Giấy Lần 1 Năm 1873
Trận Cầu Giấy diễn ra ngày 21 tháng 12 năm 1873 là một trận đánh giữa Quân cờ
đen và quân đội viễn chinh Đệ tam Cộng hòa Pháp do Đại úy Francis
Garnier chỉ huy. Theo lệnh của Hoàng Tá Viêm, Thống đốc quân thứ Tam Tun
(Sơn Tây, Hưng Hóa, Tun Quang) và của Tơn Thất Thuyết, Tham tán quân
thứ Tam Tuyên, Lưu Vĩnh Phúc đem quân đến mai phục ở khu Cầu Giấy cách
thành Hà Nội gần 2 dặm về phía nam và cho một nhóm đến sát thành Hà Nội khiêu
chiến. Bấy giờ Francis Garnier đang hội đàm buổi thứ hai với phái đồn của Trần
Đình Túc ở trong thành Hà Nội. Thấy ngồi thành có biến, Francis Garnier bỏ
họp, đem qn ra ngồi thành nghênh chiến rồi bị phục kích. [1] Francis Garnier
cùng một số sĩ quan bị giết chết tại trận. Tàn quân của Francis Garnier rút vội
vàng rút vào trong thành cố thủ.
3.Chuyện kể về Phan Đình Phùng “Hồng Cao Khải trao thư khun hàng
cho Phan Đình Phùng”
Cuối tháng 10 năm Giáp Ngọ, Hồng Cao Khải viết thư rồi sai chính người
nội đệ (em vợ) mình vừa là ơng anh con nhà bác của cụ Phan là Phan Văn Mân
đem lên núi Vụ Quang. Không ai khác hơn ông này mà dám lĩnh mệnh đi sứ, nhất
là đi sứ chiêu hàng, vì nếu người khác chắc là nghĩa binh làm thịt.
Mặc lòng là bà con thân quyến, Phan Văn Mân phải trải nhiều lớn gian nan nguy
hiểm mới vô đến đại doanh. Mới thấy ông đường huynh thò mặt vô, cụ Phan cả

cười và nói:
- Anh đi làm thuyết khách cho Hồng Cao Khải khó nhọc lắm hè!
Vì cụ đã được tin báo trước cho biết.
Cụ xem thư rồi thở dài:
- Không dè người khun nhủ tơi ra hàng là cố nhân Hồng Cao. Tôi thề
quyết làm việc tôi làm đây tới cùng, dầu sấm sét búa rìu cũng khơng làm sao cho
tơi thay lịng đổi chí được, anh về nói giùm cho Hồng Cao biết như thế. Nếu tôi
không làm xong được công việc vua uỷ thác, dân trông mong và không rửa hận cho
khơ cốt của tổ tiên ở dưới đất, thì chỉ có một cách là chết theo hồi bão tâm chí
mình mà thơi.
Rồi tức thời, cụ cầm bút viết thư trả lời, trao cho ông Phan Văn Mân đem về.
Lúc anh em từ biệt, cụ ân cần dặn với:
- Cũng may phước cho người đem thư chiêu hàng chính là anh, nếu là ai
khác thì bộ hạ của tơi chắc làm tương mắm để gửi biếu Hoàng Cao nếm thử. Lần
sau y có sai đi, anh đừng lãnh mệnh nữa nghe!
4.Câu chuyện về phan Bội Châu và cậu bé đạp xích lơ.
Trong một lần tới Nhật Bản, Phan Bội Châu phải th xích lơ để tới thăm
một người bạn cũ. Giá cả đã thỏa thuận từ đầu nhưng do địa chỉ người bạn đó khá
khó tìm nên cậu bé đạp xích lơ phải chạy lịng vịng mất cả buổi mới có thể đưa
Phan Bội Châu tới được nhà người bạn. Phan Bội Châu thấy rất thương cậu bé và
ngỏ ý trả thêm tiền nhưng cậu bé đã từ chối và nói rằng: “Tơi khơng thể nhận thêm
tiền của ơng được, vì ơng là người ngoại quốc, nếu tơi nhận thêm tiền của ơng thì

skkn


×