Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

SKKN Nâng cao hứng thú học tập môn lịch sử Việt Nam giai đoạn 1946 - 1954 bằng phương pháp lồng ghép...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.48 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
01

A. Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài

01

II. Mục đích nghiên cứu

02

III. Đối tượng nghiên cứu

02

IV. Phương pháp nghiên cứu

02

B. Nội dung

03

I. Cơ sở lý luận của vấn đề

03

II. Thực trạng của vấn đề


04

III. Giải pháp thực hiện

05

1. Phương pháp lồng ghép kể chuyện nhân vật lịch sử trong
giảng dạy lịch sử

05

2. Phương pháp sử dụng âm nhạc trong dạy học lịch sử 12, phần lịch
sử Việt Nam (1946 - 1954)

13

3. Hiệu quả

19

C. Kết luận, kiến nghị

19

1. Bài học kinh nghiệm

19

2. Kiến nghị, đề xuất


20

Phụ lục

21

Tài liệu tham khảo

1
SangKienKinhNghiem.net


A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thơng phải đào
tạo những con người phát triển tồn diện, phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Mỗi mơn học ở nhà trường phổ thơng với đặc trưng của mình đều phải góp
phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó có mơn Lịch sử.
Đối với bất cứ nước nào, mơn Lịch sử đều có chức năng quan trọng trong
đào tạo năng lực của học sinh, đào tạo con người có bản sắc dân tộc, có tư duy
độc lập sáng tạo. Riêng đối với Việt nam, lịch sử càng giữ vai trị cực kì quan
trọng gắn với sự tồn vong của quốc gia - dân tộc. Năm 1941, khi về nước trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biên soạn quyển
"Lịch sử nước ta" bằng thơ lục bát và mở đầu bằng 2 câu:
"...Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam..."
Biết để tường tận nguồn gốc mình mà đấu tranh giành độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội. Có thể khẳng định rằng, tác dụng của môn lịch sử không chỉ cung
cấp kiến thức về quá khứ ("giáo dưỡng") mà cịn có tác dụng về tình cảm phẩm
chất, đạo đức, quan điểm chính trị ("giáo dục") nhận thức tư tưởng và khả năng

hành động ("phát triển").
Thế nhưng, trong nhiều năm qua, do những nguyên nhân khách quan và
chủ quan, chất lượng học tập lịch sử ngày càng giảm sút, đến mức báo động.
Những năm gần đây nhiều báo, tạp chí, ở Trung ương và địa phương đã lên tiếng
về tình trạng giảm sút chất lượng một cách nghiêm trọng về môn lịch sử. Một
cuộc điều tra với chủ đề: "Thanh niên Hồ Chí Minh trong sự nghiệp bảo tồn và
phát huy văn hóa dân tộc" đã thu được những số liệu đáng buồn như sau: Trong
số 1800 người được hỏi thì có 39% khơng biết Hùng Vương là ai, 65% khơng
biết Trương Định; 49% nói sai về Trần Quốc Toản; 64% trong số 468 sinh viên
của một số trường học hỏi khơng biết gì về Lương Thế Vinh, về anh hùng Tơ
Vĩnh Diện, Phan Đình Dót, Bế Văn Đàn...; 83% học sinh, sinh viên, thanh thiếu
niên không biết về các nhân vật, sự kiện lịch sử đặt tên cho các đường phố, mà
họ đang sống hay rất quen thuộc.
Vì vậy, trong dạy học mục đích của các mơn học nói chung và của mơn
lịch sử nói riêng ở phổ thơng đều góp phần đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo
dục chung của Đảng và Nhà nước trên cơ sở nội dung của môn học. Vậy nên
cũng như các mơn học khác, bộ mơn lịch sử có nhiệm vụ “Hồn chỉnh vốn kiến
thức ở trình độ kiến thức phổ thông của học sinh về lịch sử để làm cơ sở cho sự
hình thành thế giới quan khoa học và đạo đức công dân xã hội chủ nghĩa của lao
động mới trên đất nước ta”. Để hoàn thành nhiệm vụ này, bộ môn lịch sử phải
cung cấp đầy đủ cho học sinh những tri thức cần thiết về quá trình phát triển hợp
quy luật của lịch sử dân tộc và thế giới. Nhưng do đặc điểm của bộ môn lịch sử
học sinh không thể trực tiếp “Trực quan sinh động” với sự kiện đã qua, cho nên
trong giai đoạn nhận thức cảm tính của các em khơng thể có cảm giác và tri giác

2
SangKienKinhNghiem.net


về sự kiện. Vì vậy giáo viên phải tìm cách dạy như thế nào để cho học sinh cảm

thấy thích học lịch sử và có như vậy học lịch sử mới đạt được hiệu quả cao.
Qua nhiều năm giảng dạy, qua kết quả khảo sát tôi rút ra những nhận xét sau:
- Phần đơng số học sinh khơng thích học mơn lịch sử.
- Tình trạng xem nhẹ bộ mơn, coi đây là bộ mơn phụ nên trong giờ học có
học sinh lén làm việc riêng hoặc nói chuyện riêng
- Giáo viên tự độc diễn trên bảng (giảng, đọc, học trò chép). Giáo viên đặt
câu hỏi, học sinh nhìn sách giáo khoa trả lời.
- Giáo viên trình bày bài giảng học sinh khơng hiểu, chóng qn, khơng
khơi dậy niềm đam mê, tìm tịi tính độc lập suy nghĩ của học sinh
- Kì kiểm tra thì ít học bài, chủ yếu là quay cóp, chép bài bạn...
Để cho học sinh hiểu và hứng thú hơn trong việc học lịch sử thì tơi đã sử
dụng phương pháp "Nâng cao hứng thú học tập môn lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1946 - 1954 bằng phương pháp lồng ghép âm nhạc và kể chuyện nhân
vật lịch sử trong giảng dạy lịch sử 12" giúp học sinh nắm được nhân vật, sự
kiện lịch sử một cách cụ thể hơn qua đó để bồi dưỡng nhân cách đạo đức, lí
tưởng tốt đẹp cho học sinh. Nhất là những nhân vật lịch sử, những bài hát cách
mạng ở giai đoạn 1946 - 1954 phần lịch sử Việt Nam lịch sử 12, đây là giai đoạn
có rất nhiều anh hùng, những tấm gương đã góp vào chiến thắng của lịch sử dân
tộc. Trong đó, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu chấn động
địa cầu" làm cho cả thế giới phải khen ngợi.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với những lý do trên và qua nhiều năm dạy học Lịch sử 12 tôi xin nêu kết
quả học tập bằng thống kê kết quả học sinh ở năm học 2013 - 2014 với số lượng
học sinh yếu kém còn nhiều, số lượng học sinh khá, giỏi ít. Cụ thể như sau: học
sinh yếu kém là 11 em chiếm 11%, TB là 55 em chiếm 61%, khá là 20 em chiếm
22%, giỏi là 3 em chiếm 3%.
Nhằm góp một phần giúp các em học sinh có những kiến thức lịch sử nhất
định để trang bị cho kỳ thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi tỉnh; Khắc phục tình
trạng “học vẹt” lịch sử. Mục đích chuyển từ “giáo viên là trung tâm” sang “lấy
học sinh làm trung tâm”.

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài là học sinh khối 12
Trung Tâm GDTX
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Giáo viên chịu tìm tịi nghiên cứu sách tham khảo, nắm kiến thức cơ bản
sách giáo khoa.
- Kết hợp các phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp, tích
hợp là cần thiết và phải có tính sáng tạo.
- Khảo sát, thảo luận, sưu tầm những bài ca đi cùng năm tháng, tranh ảnh
các nhân vật lịch sử. Cuối cùng là kiểm tra đánh giá kết quả.

3
SangKienKinhNghiem.net


Việc sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật và sử dụng âm nhạc cho
học sinh sẽ:
+ Giúp các em chú tâm vào bài học.
+ Huy động được vốn kiến thức, những hiểu biết sẵn có của học sinh.
+ Thu hút học sinh hăng say tìm hiểu, kích thích học sinh tranh luận, phản
biện ý kiến.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Trong chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QQĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã
nêu: "phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tích cực tự giác, chủ động
sáng tạo của học sinh, điều kiện của từng lớp học. Bồi dưỡng cho học sinh
phương pháp tự học, khả năng hợp tác rèn luyện, kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tế, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm
học tập cho học sinh".

Lịch sử là một dòng chảy không bao giờ ngừng nghỉ. Học quá khứ để
nhận thức hiện tại và phán đốn tương lai, đó là đặc thù của môn lịch sử. Muốn
học tốt lịch sử phải tường minh ba vấn đề: Thời gian, không gian và con người.
Đặc trưng nổi bật của nhận thức lịch sử là con người khơng thể tri giác trực tiếp
những gì thuộc về quá khứ. Lịch sử không phải là một bộ mơn chính trị, nhưng
lịch sử gần với chính trị.
Hướng dẫn học sinh tự học, tự tiếp cận vấn đề là một trong những đặc trưng
của phương pháp dạy học tích cực. Mỗi một tiết dạy, giáo viên có một phương
pháp riêng, tìm ra những con đường để học sinh tiếp nhận nội dung bài học một
cách thoải mái, tự giác. Trong chương trình lịch sử lớp 12 rất nhiều bài học giáo
viên có thể vận dụng phương pháp kể chuyện và ứng dụng âm nhạc để dạy học
thu hút học sinh, tạo xúc cảm học tập lịch sử cho học sinh thơng qua trình bày
miệng của giáo viên. Vì lời nói là phương tiện dạy học quan trọng nhất, lời giảng
của giáo viên là nguồn kiến thức sinh động nhất, tác động mạnh mẽ đến tư duy
và tình cảm, khơi dậy những xúc cảm tích cực của học sinh. Ngơn ngữ sẽ giúp
cho người giáo viên hồn thành tốt các nhiệm vụ dạy học lịch sử về cả ba mặt:
kiến thức, kĩ năng, tư tưởng thái độ học sinh, khơi dậy trong các em những xúc
cảm lịch sử. Bởi vậy, "ngơn ngữ rõ ràng, giàu hình ảnh, hấp dẫn của giáo viên
có ảnh hưởng rất lớn tới trí tuệ và trái tim học sinh". Bên cạnh lời nói thì có thể
ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào dạy đó là máy chiếu vì nhân vật lịch sử, đặc
biệt là âm nhạc có nhiều vai trị trong đời sống xã hội, có sức ảnh hưởng lớn, là
chứng nhân lịch sử, nhiều bài hát ra đời ghi lại các sự kiện lịch sử, nhiều bài hát
là vũ khí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, là nguồn động viên khích lệ tinh thần
cho bộ đội ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Hiện nay học sinh trường Trung Tâm GDTX tuyệt đại đa số không muốn
tiếp xúc với môn học này. Khi học một giờ lịch sử, nhiều học sinh xem đó là

4
SangKienKinhNghiem.net



một giờ “tra tấn tinh thần và thể xác”. Nào là “chủ trương”, nào là “chính sách”,
nào là “đường lối” nó chẳng khác gì cán bộ đi học Nghị quyết.
Năm học 2012 - 2013, khi nghe tin Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố sáu
môn thi tốt nghiệp, trong đó khơng có mơn Lịch sử, các học sinh trường THPT
Nguyễn Hiền ở Thành phố Hồ Chí Minh đã reo mừng và xé đề cương ôn thi
môn Sử. Đây là một hành động phản cảm nhưng cũng nói lên thực trạng rất báo
động của bộ môn Lịch sử trong hệ thống giáo dục của nước ta hiện nay.
Theo qui chế thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo từ năm học 2014 - 2015 đối
với học sinh Trung tâm GDTX ngồi hai mơn thi bắt buộc là Văn và Tốn các
em có quyền lựa chọn hai mơn thi trong số năm mơn là: Sử, Địa, Lý , Hóa, Sinh
thì mơn Lịch sử rất ít học sinh chọn thi.
Vậy làm sao để môn học Lịch sử hấp dẫn, làm sao để học sinh u thích
mơn Lịch sử?
Mặc dù đội ngũ giáo viên dạy sử ở các trường phổ thông đang rất cố gắng
đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả của bài học nhưng kết quả khơng có
mấy chuyển biến. Khi hỏi về một nhân vật lịch sử Việt Nam, một bộ phim lịch
sử Việt Nam học sinh trở nên “mù tịt”, nhưng khi nói về một bộ phim lịch sử
Trung Quốc thì có nhiều học sinh kể vanh vách. Học xong bài học là trả lại cho
thầy cô. Thật là một thực trạng đáng báo động.
Một hiện tượng phổ biến bây giờ của học lịch sử là chủ yếu học thuộc lịng,
ghi nhớ một cách máy móc, đối phó với thi cử: thiếu kỹ năng miêu tả, phân tích,
tổng hợp, đánh giá về một sự kiện lịch sử.
Bên cạnh đó vấn đề thực tế vẫn cịn tồn đọng nhiều năm nay ở các trường
THPT giáo viên chú trọng giành nhiều thời gian hơn cho việc đầu tư giảng dạy
mà ít tìm tịi sáng tạo trong đổi mới phương pháp dạy học. Trong công tác này
giáo viên phần lớn lại chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức hơn là tập và dẫn
cho học sinh tự học - tự tìm tòi nghiên cứu về một sự kiện vấn đề mới của tiết
sau học để bài học có hiệu quả tốt nhất, kích thích sự say mê tìm tịi của các em.

Với kinh nghiệm của tôi đứng trên bục giảng, tôi thấy rằng một phương
pháp làm cho học sinh hứng thú và say mê học mơn lịch sử đó là sử dụng âm
nhạc và kể chuyện nhân vật lịch sử. Vì âm nhạc và nhân vật lịch sử có khắp các
bài học, tức là lịch sử phải có khơng khí, phải hấp dẫn, có dấu ấn trong bài học.
Bởi học sinh ham thích mơn lịch sử là thành cơng lớn của người dạy.
Để hồn thành nhiệm vụ đó địi hỏi giáo viên phải tìm hiểu bài hát có giá
trị, có ý nghĩa và nhân vật lịch sử điển hình để vận dụng vào bài giảng lịch sử
làm phong phú và hấp dẫn thêm.
Trước thực trạng trên, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang có rất
nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách để khắc phục. Cịn những người trực tiếp
dạy lịch sử như chúng tôi cũng đang cố gắng gạt qua sự “mặc cảm” để cố gắng
tìm ra phương pháp dạy học đưa lại hiệu quả tốt nhất, làm cho học sinh phát huy
được tính chủ động, sự hứng thú, nhất là đối với lịch sử dân tộc ta. Cho nên, tôi
quyết định chọn đề tài “Nâng cao hứng thú học tập môn lịch sử Việt Nam giai

5
SangKienKinhNghiem.net


đoạn 1946 - 1954 bằng phương pháp lồng ghép âm nhạc và kể chuyện nhân
vật lịch sử trong giảng dạy lịch sử 12”.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Phương pháp lồng ghép kể chuyện nhân vật lịch sử trong giảng dạy
lịch sử
Để giờ học có hiệu quả cao khi sử phương pháp kể chuyện nhân vật trong
dạy học lịch sử, giáo viên yêu cầu các em về nhà tự tìm hiểu trước qua sách báo,
qua mạng Internet, qua Tivi, qua những lời kể lại của ông bà, cha mẹ… cộng
thêm sự cung cấp của giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn và cảm thấy thích
học lịch sử hơn.
Việc sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học sẽ

giúp các em hiểu vấn đề một cách tập trung nhất mà khơng rơi vào tình trạng
chán nãn khi phải học bộ môn này. Các em sẽ cảm thấy thoải mái với sự tìm
hiểu của mình mà được thầy cơ cơng nhận kết quả và có sự ganh đua trong học
tập tạo khí thế sơi nổi trong mỗi tiết học mơn lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy bài 18 (Lịch sử 12): NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC
KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1950)
- Ở mục III.1: “Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947”. Khi trình bày
diễn biến về chiến dịch xong, giáo viên lồng ghép kể chuyện về đại tướng Võ
Nguyên Giáp để học sinh thấy được rõ một vị tướng tài ba của dân tộc trong thế
kỉ XX. Riêng đại tướng giáo viên có thể lồng nghép kể chuyện nhân vật lịch sử
ở bất cứ chiến dịch nào, bởi Võ Nguyên Giáp đã tham gia 9 chiến dịch lớn từ
1947 - 1954:
Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947); Chiến dịch Biên giới (tháng 9 - 10,
năm 1950); Chiến dịch Trung Du (tháng 12/1950); Chiến dịch Đông Bắc (năm
1951); Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5/1951); Chiến dịch Hịa Bình (tháng 12
năm 1951); Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9/1952); Chiến dịch Thượng Lào (tháng
4 năm 1953); Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 - 5 năm 1954)
Các chiến dịch này Võ Nguyên Giáp đã tham gia với tư cách là Tư lệnh
chiến dịch - Bí thư Đảng ủy trong kháng chiến chống Pháp cùng với Thiếu
tướng Hoàng Văn Thái làm tham mưu trưởng chiến dịch.
Bắt đầu sự nghiệp quân sự năm 1940 Võ Nguyên Giáp với bí danh là
Dương Hồi Nam cùng Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung
Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Ơng gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong
năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh
Hội. Ơng tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho
Việt Minh ở Cao Bằng.

6
SangKienKinhNghiem.net



Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911- 2013)
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo hướng dẫn của Hồ Chí Minh, ơng thành
lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo
với 34 người. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sau
Cách mạng Tháng Tám, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và
Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phịng trong Chính phủ lâm
thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc
gia và Dân quân tự vệ. Trong Chính phủ Liên hiệp, ơng là Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi).
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đơng Dương chính thức bùng
nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo
cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp
(1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên
gọi là Tổng tư lệnh qn đội kiêm Bí thư Tổng Qn uỷ.
Khơng được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, khơng phải
trải qua các cấp bậc qn hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp thụ phong quân
hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20
tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân Đội Quốc gia
Việt Nam khi 37 tuổi. Sau này, trả lời phóng viên nước ngồi về tiêu chí phong
tướng, Hồ Chí Minh đã nói: “người nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh
thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung
tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng”.
Ngày 4 tháng 10 năm 2013, trái tim của Đại tướng ngừng đập đã làm cho
hàng triệu, hàng triệu những trái tim khác đau xót, thổn thức, hụt hẫng, tiếc
thương vô hạn, nhưng lễ Quốc tang Đại tướng lại cho chúng ta thấy một điều
không thể phủ nhận rằng: dù Đại tướng có đi xa thì ơng vẫn sẽ mãi là vị Đại
tướng của nhân dân.
- Ở mục IV.2: “Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950”. Khi trình bày
diễn biến về trận Đơng Khê (16 - 18/9/1950), giáo viên lồng ghép kể chuyện

nhân vật lịch sử: anh hùng La Văn Cầu để học sinh thấy được sự dũng cảm trong
chiến đấu của các anh hùng thời chống Pháp, họ không quản ngại hy sinh tuổi
trẻ và thân thể của mình để đất nước được hịa bình độc lập.
Anh hùng La Văn Cầu sinh năm 1932 trong một gia đình nghèo, dân tộc
Tày, tỉnh Cao Bằng. Với khát khao được cầm súng giết giặc giải phóng đất
nước, La Văn Cầu mới 16 tuổi đã khai tăng lên 18 tuổi để được vào bộ đội. Lúc

7
SangKienKinhNghiem.net


đó là năm 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp vô
cùng gian khổ, thiếu thốn. Nhưng niềm vui và ý chí đã giúp anh vượt qua khó
khăn, vươn lên rèn luyện thành một chiến sĩ gương mẫu, giàu lòng nhân ái, nên
được anh em đồng đội rất quí mến. Anh đã tham gia chiến đấu nhiều trận và lập
được nhiều chiến công. Một trong những chiến cơng mà từ đó tên tuổi của anh
đã đi vào sử sách là Trận đánh đồn Đông Khê lần thứ hai (từ 16 - 18/9/1950).
Trong trận đánh này, anh được phân công chỉ huy tổ bộc phá làm nhiệm vụ phá
hàng rào và đánh lô cốt đầu cầu (cửa mở trận đánh). Trong trận đánh, anh bị
thương nát tay phải và đã nhờ đồng đội chặt đứt cánh tay ấy cho khỏi vướng rồi
tiếp tục đánh bộc phá mở đường cho đơn vị xung phong. Nếu chỉ đọc những
dòng chữ ghi tóm tắt chiến cơng đó thì chúng ta chưa thể hình dung hết được sự
ác liệt của trận đánh và chúng ta cũng không thể hiểu hết được khí thế hừng hực
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã được hun đúc trong con người anh, người
chiến sĩ mới mười tám tuổi đời và hai tuổi quân. Để thế hệ trẻ hơm nay hiểu
được trí thơng minh, lịng dũng cảm và ý chí quyết tâm hồn thành nhiệm vụ,
sẵn sàng hi sinh tất cả để giành lại độc lập tự do cho dân tộc của thế hệ cha anh
nói chung và của Anh hùng La Văn Cầu nói riêng.

Anh hùng La Văn Cầu sinh năm 1932.

- Giáo viên cho học sinh xem ảnh và trích giới thiệu một phần bản tự thuật
của anh La Văn Cầu về trận đánh đồn Đông Khê lần thứ hai được ghi trong
“Biên bản Đại hội Toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu” diễn ra
tại Việt Bắc từ ngày 01 tháng 5 đến ngày 06/5/1952, hiện đang được bảo quản
tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Phòng Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 467: "…Tiếp
đến Chiến dịch Biên giới. Tôi tham gia trận Đông Khê. Trận này là trận đánh
Đông Khê lần thứ hai, tôi làm nhiệm vụ bộc phá viên của đơn vị Đại độ.
Đạn bắn trúng cánh tay phải của tôi và trúng vào má bên phải của tôi. Tôi
bị ngã và ngất đi trong mấy phút. Tôi tưởng chết, cố hô Hồ Chủ tịch muôn năm,
Việt Nam độc lập muôn năm. Khi tỉnh lại, tôi kiểm điểm lại người tơi, thì thấy
một bên mình đã tê đi, sờ đến cánh tay phải thì lủng lẳng, má bên phải thì mất.
Lúc đó tơi lại nghĩ đến nhiệm vụ của tơi. Tơi vùng dậy, tìm gói bộc phá thì thấy
gói đó bị văng đi cách chỗ tơi mấy thước. Quả bộc phá nằm trên miệng giao
thông hào chưa rơi xuống. Tơi nghĩ may q, nếu nó rơi xuống hào thì nổ mất
cịn gì - tơi đến lấy tay trái nhặt quả bộc phá ôm vào người và tiến vào lô cốt nhưng trong lúc đi lại tôi thấy cánh tay phải lủng lẳng khó đi q. Tơi liền nghĩ
là phải quay giở xuống tìm một anh bạn nhờ chặt tay đi thì mới làm được nhiệm
vụ. Rồi tôi quay xuống ngay. Đến nửa đường tôi gặp anh tiểu đội trưởng tiểu đội

8
SangKienKinhNghiem.net


xung kích đang tiến lên. Tơi bảo anh chặt hộ tay cho tôi. Anh ngạc nhiên và bảo
tôi quay xuống cho y tá băng bó. Tơi nói cho anh rõ ý định của tôi và nhất định
yêu cầu anh cứ chặt tay cho tôi để tôi làm xong nhiệm vụ. Anh tiểu đội trưởng
lúc đó mới hiểu, bèn lấy mác chặt cái tay bị thương đã gãy. Xong anh xé áo
buộc cho tôi. Nhưng anh quên làm ga-rô, nên đi được một quãng tôi thấy máu ở
cánh tay phải cứ chảy ra ròng ròng làm ướt đẫm một miếng vải buộc. Về sau
miếng vải đó cũng bị tuột ra. Nhưng tôi không để ý đến cánh tay nữa, tôi cũng
không biết đau nữa cứ chạy lên con đường cũ. Tôi đến chỗ giấu bộc phá nhặt

lấy rồi tiếp tục lên phá lô cốt. Quả bộc phá nặng 12 ki lô nhưng tay trái tơi vẫn
đủ sức xách lấy nó. Tơi lại vượt qua mấy giao thông hào(...) Tôi tiến đến gần
chân lô cốt. Tôi lấy quả lựu đạn giắt ở bên người, lấy răng rút chốt an tồn, ném
vào phía có lỗ châu mai để uy hiếp tinh thần địch. Lựu đạn trúng lỗ châu mai,
nổ, nhưng súng liên thanh của địch vẫn nhả đạn ra. Tôi men lại lỗ châu mai,
chờ cho địch thay băng đạn. Khi súng địch tạm im không bắn, tôi xông lại, đút
quả bộc lôi vào lỗ châu mai. Địch ở trong trông thấy lấy báng súng đẩy ra hai
lần. Lần đầu tôi lấy tay đẩy vào nhưng tay tôi yếu không đẩy vào sâu được nên
địch lại đẩy ra. Tôi thấy thế nảy ra sáng kiến lấy chân đẩy quả bộc phá vào. Lần
này, nhờ có sức mạnh chân, tơi đẩy được quả bộc phá vào sâu, quả bộc phá bịt
chặt lấy lỗ châu mai, địch không đẩy ra được nữa. Ngay lúc đấy tơi giật nụ xịe
rồi chạy ra xa lơ cốt độ mươi mười lăm thước. Quả bộc lôi nổ rất to. Tôi bị sức
ép của quả bộc phá làm ngất đi mấy phút..."
Tấm gương chiến đấu của anh La Văn Cầu đã cổ vũ phong trào thi đua
giết giặc lập công trong toàn quân và trở thành lá cờ đầu trong phong trào thi
đua sử dụng bộc phá công đồn, một hình thức chiến thuật mới của quân đội ta
mở ra từ chiến dịch Biên Giới năm 1950. Với những chiến cơng của mình, anh
La Văn Cầu được tặng thưởng một Huân chương Quân công hạng ba (năm
1950), Huân chương Kháng chiến hạng nhất và được phong tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân đợt đầu (năm 1952). Từ gương anh hùng cách
mạng này học sinh hiểu rõ hơn về sự hy sinh gian khổ của các chiến sĩ khi tham
gia cuộc chiến một mất, một còn của ta và địch lúc bấy giờ, để các em biết nâng
niu quý trọng hai chữ "Độc lập" mà chúng ta đang có.
* Khi dạy bài 19 (Lịch sử 12): BƯỚC PHÁT TRIỂN CỦA CUỘC
KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1951-1953)
- Ở mục III: “Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt”. Khi trình bày
về Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất (1-51952) đã tổng kết, biểu dương thành tích của phong trào thi đua yêu nước và
chọn 7 anh hùng, đó là: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn
Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hồng Hanh. Giáo viên có thể kể về
thành tích của các anh hùng đó bằng cách kể chuyện. Ví dụ: Anh hùng Cù Chính

Lan và Nguyễn Thị Chiên.
Cù Chính Lan (1930 - 1951) sinh nǎm 1930 tại làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được
tuyên dương Anh hùng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 13 tháng 12 năm
1951, trong trận tấn công cứ điểm Giang Mở, cách thị xã Hịa Bình 8 km về phía

9
SangKienKinhNghiem.net


Nam, Cù Chính Lan đã một mình đuổi xe tǎng Pháp, nhảy lên thành xe, ném lựu
đạn vào buồng lái để tiêu diệt địch. Sinh ra trong một gia đình nơng dân nghèo,
mẹ chết sớm, nhà đơng em, Cù Chính Lan phải lao động vất vả ngay từ bé dưới
chế độ bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến để cùng cha ni sống đàn em
dại. Hồn cảnh đó đã tạo cho Cù Chính Lan những đức tính tốt như: cần cù,
nhẫn nại, thương người cùng cảnh khổ, căm thù sâu sắc giai cấp địa chủ bóc lột
và bọn thực dân cướp nước.
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, thực dân Pháp trở lại xâm
lược nước ta, Cù Chính Lan xung phong tình nguyện nhập ngũ năm 1946.
Chẳng bao lâu đồng chí đã nổi bật trong học tập và công tác. Khi được đề bạt
làm tiểu đội trưởng bản thân đồng chí ln ln gương mẫu, khiêm tốn: giản dị,
thương yêu đồng đội, được anh em mến phục, tin u. Đặc biệt trong chiến đấu,
Cù Chính Lan ln luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, táo bạo, mưu trí, hồn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Trận Giang Mỗ lần thứ nhất ngày 7 tháng 12 năm 1951: khi bố trí trận địa
bị lộ, địch bắn dữ dội, trên ra lệnh tạm thời rút lui. Đồng chí dũng cảm đi sau
cùng, dùng súng máy bắn kiềm chế địch cho đơn vị rút, rồi quay lại tìm anh em
bị thương, đưa được ba đồng chí trở về đơn vị an tồn.
Trận Giang Mỗ lần thứ hai ngày 13 tháng 12 năm 1951, khi địch lọt vào
trận địa, cả đơn vị nổ súng quyết liệt, diệt gọn một đại đội địch. Lúc chuẩn bị rút

thì một xe tăng địch tiếp viện tới, bắn dữ dội vào đội hình ta, chặn đường rút và
làm nhiều anh em thương vong. Cù Chính Lan căm giận xông lên. Anh nhảy lên
xe tăng kề tiểu liên vào khe hở trên tháp xe bóp cị. Nhưng khơng may tiểu liên bị
hóc. Chiếc xe vẫn vừa chạy vừa bắn. Cù Chính Lan hơ anh em tập trung lựu đạn
đến cho mình, rồi lại nhanh nhẹn nhảy lên xe, giật nắp, quẳng lựu đạn vào. Giặc
nhặt lựu đạn ném ra và hốt hoảng lái xe tăng, chuyển hướng vội vàng chạy về vị
trí. Thời cơ diệt xe tăng địch ngay trước mắt, khơng thể để nó chạy thốt, Cù
Chính Lan dũng cảm táo bạo mở chốt lựu đạn, chờ cho khói thuốc xì ra được vài
giây rồi mới ném vào buồng lái. Lựu đạn nổ. Những tên giặc trong xe chết đè lên
nhau. Chiếc xe dừng tại chỗ. Trận đánh kết thúc thắng lợi. Tấm gương của đồng
chí đã có tác dụng cổ vũ tồn qn thi đua diệt xe tăng và xe cơ giới địch.
Ngày 29 tháng 12 năm 1951, tham gia đánh đồn Cô Tô, bị thương hai lần,
Cù Chính Lan vẫn dũng cảm xơng lên phá tiếp hai lớp rào mở đường cho đơn vị
tiến vào. Lần thứ ba, bị thương nặng, đồng chí vẫn khơng chịu rời trận địa, nằm
tại chỗ chỉ hướng tiến và động viên anh em vào sau diệt địch. Cù Chính Lan đã
anh dũng hy sinh khi trận đánh đồn Cô Tơ vừa kết thúc thắng lợi. Khi hy sinh
đồng chí là tiểu đội trưởng bộ binh, thuộc đại đoàn 304, đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Cù Chính Lan đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng hai.
Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua tồn quốc lần thứ nhất
tháng 5 năm 1952, Cù Chính Lan được Chính phủ và Hồ Chủ tịch truy tặng
Huân chương Quân công hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

10
SangKienKinhNghiem.net


Ngày 19 tháng 5 năm 1952, Cù Chính Lan được Chủ tịch nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Người thứ hai nhắc đến đó là một phụ nữ - anh hùng Ngô Thị Chiên

Anh hùng Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930, được trao tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân ngày 19 tháng 5 năm 1952. Huân
chương Quân công hạng ba, Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 Huân
chương Kháng chiến hạng nhất. Năm 1952, cô được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng
thưởng khẩu súng ngắn của Người. Nguyễn Thị Chiên quê ở Xã Tán Thuật,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1946
đến năm 1952, cô tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và
chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật đánh địch chống càn, phá giao thông đường
39, phá tề, diệt và bắt nhiều địch. Cô đã diệt, làm bị thương và bắt 15 địch.
Tháng 4 năm 1950, khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, cô bị địch bắt, dụ dỗ, tra
tấn suốt 3 tháng rưỡi vẫn kiên trung bất khuất. Tháng 10/1951, trong trận phục
kích đánh đich trên đường 39, cô bắn bị thương 1 tên địch, bắt sống 6 tên địch,
thu 4 súng. Tháng 12/1951, khi địch lùng sục vào làng, cơ chỉ huy du kích bất
ngờ xơng ra bắt sống 4 địch có một tên trung uý. Ngày 19/5/1952, cơ được bầu
là chiến sỹ thi đua tồn quốc, được Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên
dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguyễn Thị Chiên là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được Nhà nước ta
được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Thị Chiên công tác tại Tổng cục
Chính trị, Qn khu Thủ đơ, được phong quân hàm trung tá năm 1984.
* Khi dạy bài 20 (Lịch sử 12): CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN
QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953 - 1954)
- Ở mục II.1: “Cuộc tiến công chiến lược Đông - xuân 1953 - 1954”. Khi
trình bày diễn biến giáo viên lồng ghép kể chuyện nhân vật lịch sử: Bế Văn Đàn
Ngày tháng năm sinh: Sinh năm 1930 - Hy sinh ngày 12/12/1953
Quê quán: Xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hoà (nay là huyện Quảng Hồ), tỉnh
Cao Bằng.
Q trình tham gia cách mạng:
- Bế Văn Đàn khi hy sinh là Tiểu đội phó thuộc Đại đội 674, Tiểu đoàn
251, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316.

- Đông Xuân 1953 - 1954, Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn cùng đơn vị
hành quân đi chiến dịch. Một đại đội của Tiểu đoàn 251 được giao nhiệm vụ bao
vây địch ở Mường Pồn (Lai Châu). Thấy lực lượng ta ít, địch tập trung hai đại
đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai đợt chúng đều bị quân
ta đánh bật lại. Tình hình chiến đấu hết sức căng thẳng. Địch liều chết nóng ra.
Ta kiên quyết ngăn chặn.
- Bế Văn Đàn vừa đi công tác về đã xung phong làm nhiệm vụ. Đồng chí
vượt qua lưới đạn dày đặc của địch truyền mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chu

11
SangKienKinhNghiem.net


đáo. Tình hình chiến đấu ngày càng ác liệt, khi quân địch phản kích đợt ba, địch
điên cuồng mở đường tiến. Đại đội thương vong chỉ có 17 người, bản thân Bế
Văn Đàn cũng bị thương nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung
liên không bắn được do xạ thủ hy sinh, còn khẩu trung liên của Chu Văn Pù
khơng bắn được vì chưa tìm được chỗ đặt súng. Không do dự, Bế Văn Đàn rời
khỏi công sự, lao đến cầm hai chân trung liên đặt lên vai mình nói như ra lệnh:
"Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tơi thì bắn chết chúng nó đi". Khẩu trung
liên nhả đạn về phía quân địch, đẩy lùi đợt phản kích. Bế Văn Đàn mình đầy
thương tích, đồng chí đã anh dũng hy sinh, hai tay cịn ghì chặt chân súng trên
vai. Đồng chí được kết nạp Đảng tại trận địa.
- Phần thưởng được nhà nước trao tặng:
+ Hn chương Qn cơng hạng nhì.
+ Hn chương Chiến cơng hạng nhất.
+ Truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày
31/5/1955.
- Ở mục II.2: “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ”. Đây là thắng lợi
quân sự lớn nhất và là thắng lợi quyết định buộc thực dân Pháp phải chấm

dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương.
Khi giảng về phần công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, giáo
viên lùng ghép hình ảnh hy sinh của chiến sĩ Tô Vĩnh Diện khi đang làm nhiệm
vụ bằng cách kể chuyện:
Tô Vĩnh Diện (1924 - 1953), Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng Vũ Trang
Nhân dân (Truy phong 7/5/1955), khi hy sinh, anh là Tiểu đội trưởng pháo cao
xạ 37 ly thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đồn 367. Hn chương Qn
cơng hạng Nhì, Hn chương Chiến công hạng Nhất
Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, ở xã Nơng Trường,
huyện Nơng Cống, tỉnh Thanh Hố. Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ đội.
Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn
bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao
xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí
tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu làm
mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an tồn.
Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh
xung phong lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như
lúc nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và
tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng
cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xảy ra.
Kéo pháo vào đã gian khổ, hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt, anh
đã đi sát từng người, động viên giải thích nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết
tâm cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.
Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp và cong rất nguy hiểm.
Tô Vĩnh Diện cùng đồng đội Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt,

12
SangKienKinhNghiem.net



pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo thẳng
đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, anh
Ty bị hất xuống suối. Trong hồn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô đồng
đội: “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và anh bng tay lái xơng lên phía trước,
lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ pháo dừng lại.
Tấm gương hy sinh vơ cùng anh dũng của đồng chí Tơ Vĩnh Diện đã cổ
vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu
và chiến đấu thắng lợi.
Khi trình bày về diễn biến đợt 1 của chiến dịch Điện Biên Phủ. Giáo
viên có thể lùng ghép hình ảnh hy sinh của chiến sĩ Phan Đình Giót khi đang
làm nhiệm vụ bằng cách kể chuyện:
Phan Đình Giót (1922 - 1954), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân
(truy phong 31/3/1955), khi hy sinh anh là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu
đồn 428, Trung đồn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hn chương Qn cơng hạng Nhì.
Phan Đình Giót Anh sinh nǎm 1920 ở làng Tam Quang, huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình rất nghèo. Năm 1950, anh xung phong
đi bộ đội. Trong cuộc sống tập thể quân đội, Phan Đình Giót ln tự giác gương
mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận khó khăn
về mình nên được đồng đội mến phục. Phan Đình Giót tham gia nhiều chiến
dịch lớn như: Trung Du, Hồ Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.
Mùa đơng năm 1953, đơn vị anh được lệnh tham gia chiến dịch lịch sử
Điện Biên Phủ. Hành quân gần 500 km, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng
nhưng đồng chí vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích. Trong nhiệm vụ xẻ núi,
mở đường, kéo pháo lên đèo xuống dốc vào trận địa rất gay go gian khổ, anh đã
nêu cao tinh thần gương mẫu, bền bỉ và động viên anh em kiên quyết chấp hành
nghiêm mệnh lệnh của cấp trên.
Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tiêu diệt Him Lam. Cả
trận địa rung chuyển mù mịt sau nhiều loạt pháo ta bắn chuẩn bị. Các chiến sỹ
đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ tám. Phan

Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung phong đánh
tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hoả lực trút đạn như mưa xuống trận địa
ta. Đồng đội bị thương vong nhiều. Lửa căm thù bốc cao, anh lao lên đánh liên
tiếp hai quả nữa phá toang hàng rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên
đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi dụng thời cơ địch đang hoang mang, Phan Đình
Giót vọt lên bám chắc lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến
lên. Anh lại bị thương vào vai, máu chẩy đầm đìa. Nhưng bất ngờ từ hoả điểm lơ
cốt số 3 của lính Pháp bắn rất mạnh vào đội hình ta. Lực lượng xung kích bị ùn
lại, Phan Đình Giót cố gắng lê lên nhích dần đến gần lô cốt số 3 với ý nghĩ cháy
bỏng, duy nhất là dập tắt ngay lô cốt này. Anh đã dùng hết sức mình cịn lại
nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng hô to: "Quyết hy sinh…vì
Đảng…vì dân..." rồi rướn người lấy đà, lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai
địch. Hoả điểm lợi hại nhất của quân Pháp đã bị dập tắt, tồn đơn vị ào ạt xơng

13
SangKienKinhNghiem.net


lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi trong trận đánh
mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi hy sinh, Phan Đình Giót đã được
Tiểu đồn, Đại đồn khen thưởng 4 lần.
Với lịng dũng cảm, tinh thần chiến đấu anh dũng, những anh hùng của
dân tộc đã từ khắp mọi miền đất nước, những người con yêu nước hội tụ với
nhau trong cuộc sống gian khổ vì tình đồng chí, tình đồng đội thiêng liêng, cao
cả trong cuộc chiến một mất, một còn với địch.
Những hình ảnh đẹp nhất về anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống
Pháp, tất cả tình cảm gắn bó máu thịt đó đã theo các anh trên các nẻo đường ra
trận. Dẩu ở vào thời điểm nào của lịch sử đi nữa thì hình ảnh của người lính cách
mạng - Anh bộ đội Cụ Hồ mãi là tượng đài bất hủ của lòng yêu nước và bản lĩnh
đấu tranh của dân tộc Việt Nam.

2. Phương pháp sử dụng âm nhạc trong dạy học lịch sử 12, phần lịch
sử Việt Nam (1946 - 1954)
Khi sử dụng âm nhạc trong các giờ lên lớp thì giáo viên cần phải lập kế
hoạch tìm hiểu bài hát, cần đưa âm nhạc vào lúc nào? Thời gian sử dụng và hình
thức sử dụng như thế nào? Phương tiện sử dụng chủ yếu phải là máy chiếu.
a/ Phạm vi thực hiện:
Bài 17: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến
trước ngày 19/12/1946
Bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1946 - 1950)
Bài 19: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1951 - 1953)
Bài 20: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc (1953 - 1954)
b/ Kế hoạch giảng dạy sử dụng âm nhạc:
Tuần
14

Tiết
CT
27

15

28
29
30

16

31

32

Tên bài dạy
Bài 17: Nước Việt nam dân
chủ cộng hòa sau ngày 2-9 1945 đến trước ngày 19-121946
Bài 18:Những năm đầu của
cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946
- 1950)
Bài 19: Bước phát triển cuộc
kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp(1951-1953)
Bài 20: Cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân
Pháp kết thúc (1953 - 1954)

Bài hát sử dụng
"Vệ quốc quân"/Phan Huỳnh
Điểu
"Lá xanh" và "Nhạc
rừng"/Hoàng Việt
"Ngày mùa"/Văn Cao
"Hành quân xa"/Đỗ Nhuận
"Hát mừng anh hùng Núp"
/Nguyễn Văn Quý
Giải phóng Điện biên/Đỗ Nhuận
"Bế Văn Đàn sống mãi"/Huy Du
"Tướng quân Võ Nguyên Giáp"

14

SangKienKinhNghiem.net


/Bùi Hoàng Yến
Hiện nay âm nhạc là bạn đồng hành thân thiết với thế hệ trẻ, âm nhạc sẽ
hỗ trợ đắc lực cho việc tìm hiểu và học tập mơn lịch sử của học sinh. Nhưng vấn
đề là chúng ta phải sử dụng như thế nào cho có hiệu quả.
c/ Các biện pháp sử dụng âm nhạc trong dạy học lịch sử ở lớp 12
Giáo viên là người tổ chức hướng dẫn học sinh siêu tầm chọn lọc những bài
hát có ý nghĩa phản ánh giai đoạn lịch sử 1919 - 1954: chọn những bài hát nhạc
tiền chiến, cách mạng (trước 1954) với yêu cầu cụ thể (tên bài hát, tác giả, hoàn
cảnh sáng tác, ý nghĩa bài hát). Bản thân giáo viên có kiến thức nhất định cụ thể,
phải có đĩa hát và cơng cụ cắt đoạn bài hát cho phù hợp với bài dạy. Vì thời gian
xen kẽ khơng nhiều. Tơi có thể lấy ví dụ cụ thể từng giai đoạn dạy học như sau:
Giai
đoạn

1919 - 1930

1930 - 1945

1945 - 1954

1. "Lá xanh" của
Hoàng Việt
2. "Ngày mùa" của
Văn Cao
3. "Hát mừng anh
hùng Núp" (Khơng có
tác giả)

4. "Giải phóng Điện
Biên" của Đỗ Nhuận
5. "Qua miền
TâyBắc" của Nguyễn
Thành
6. "Hành quân xa"/Đỗ
Nhuận
7. "Bế Văn Đàn sống
mãi " của Huy Du
8. "Tướng quân Võ
Nguyên Giáp" của
Bùi Hoàng Yến...
Nhưng tại đề tài này, vì lượng thời gian nhất định nên tơi chỉ áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm trong một giai đoạn cụ thể 1946 - 1954 mà thơi.
Vì âm nhạc là hơi thở cuộc sống, cần thiết cho cuộc sống, âm nhạc là
người bạn đồng hành của mọi thế hệ. Vậy tại sao chúng ta lại không mạnh dạn
đưa âm nhạc - những bài hát cách mạng lồng vào tiết dạy môn lịch sử để hỗ trợ
bài học? Thực tế những lớp 12 tơi dạy, kiểm tra bài cũ rất ít em thuộc bài, thuộc
thì chỉ mang tính chất lấy điểm, tơi nảy ra sáng kiến, đến những bài học mà có
các bài hát có tác dụng hỗ trợ cho bài học, tơi giao bài tập cho HS sưu tầm và
thuộc bài hát đó, rõ ràng các em rất tích cực, hồ hỡi, tìm và thuộc lời các bài hát
dài…Từ đó bản thân tôi thấy âm nhạc là cầu nối để các em đến với mơn Lịch sử
tự nguyện khơng gị ép…
1. "Ánh sáng Lênin"
của Nguyễn Văn Quý
2. "Dấu chân phía
trước" của Phan Minh
Tuấn
Tên bài 3. "Chào mừng Đảng
hát/sáng Cộng sản Việt Nam"

tác
của Phạm Tuyên
4. "Kể chuyện người
Cộng sản" của Trần
Hoàn
5. "Đảng đã cho ta
một mùa xuân của
"Nguyễn Đình Thi
6. "Cùng nhau đi
hùng binh" của
Nguyễn Đình Thi

1. "Trên q hương
Xơ Viết Nghệ tĩnh"
của Dân Huyền
2. "Nhớ về Pác bó"
Sáng tác của Phan
Nhân
3."Diệt phát xít" của
Nguyễn Đình Thi
4. "Lên Đàng" của
Lưu Hữu Phước
5. "Tiếng gọi thanh
niên" của Lưu Hữu
Phước
6. "Mười chín tháng
tám" của Xuân
Oanh....

15

SangKienKinhNghiem.net


* Ví dụ khi dạy Bài 17: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau ngày
2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946, SGK trang 125, tiết 2. III. Kháng chiến
chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ.
Khi giảng phần này tôi thường lồng sự kiện 23/10/1945 Nha Trang kháng
chiến, đoàn quân “Nam tiến” vào Nam chiến đấu, kết hợp hình ảnh SGK tơi có
thể hỏi học sinh: Em hãy nêu những bài hát được ra đời trong thời kì 1945 1946? Học sinh có thể nêu những tác phẩm mà các em đã sưu tầm ở nhà và giáo
viên chỉ ra tác phẩm nào là tác phẩm phù hợp và đúng với giai đoạn lịch sử đang
học. Sau đó giáo viên có thể mở một trong hai đoạn nhạc đã chuẩn bị phù hợp
với bài dạy và nêu ý nghĩa của từng bài hát.
- Mở đoạn bài hát “Lá xanh" của Hoàng Việt:…Đi đầu quân! Đi trong
mùa xuân mới gió lá reo gió lá reo. Kìa bảng treo cùng trong làng. Đi đầu quân.
Đi đầu quân. Tất cả cho tiền tuyến mau lên đi. Hỡi các anh trai làng. Lá còn
xanh như bao anh còn trẻ. Sức oai hùng đang căng trong tồn thân. Ngó lên cây
màu lá tươi đầy trời xanh. Anh trai làng vấn vương gia đình làm chi. Ra tuyền
tuyến thi tài cùng nhau giết Tây. Em chờ anh với bao chiến công lẫy lừng…
- Hoặc đoạn bài hát "Đoàn vệ quốc quân" của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết không lui
Cờ bay phất phới ngời màu Lạc Hồng
Kèn reo vang tiếng gọi dòng Lạc Hồng
Cùng Vệ quốc quân
Ra đi ra đi theo hồn sơng núi
Thù bao năm xưa có bao giờ ngi
Dưới cờ oai nghiêm sao vàng bay
Đồn qn Việt Nam có hay

Ngày xưa biết bao vị hùng anh
Quyết vì non sơng ra tay bao lần
Ngày nay đồn qn ta gắng làm sao
Giành quyền tự do hạnh phúc cho dân
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi
Dù có gian nguy nhưng lịng khơng nề
Ra đi ra đi bảo tồn sơng núi
Ra đi ra đi thà chết khơng lui.
Đồn Vệ quốc qn, tên ban đầu là Đồn Giải phóng qn, là bài hát do
nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sáng tác năm 1945, một trong những bài hát nổi tiếng
nhất của ông.
Bài hát được sáng tác vào năm mà Việt Nam vừa giành được độc lập sau
gần một thế kỷ là thuộc địa của Pháp, và là khi cả nước đang rừng rực khơng khí
quyết bảo vệ nền độc lập non trẻ trước nguy cơ Pháp tái chiếm. Trong hoàn cảnh

16
SangKienKinhNghiem.net


đó, "Đồn giải phóng qn" ra đời như là lời thề của thế hệ thanh niên lên
đường ra trận: Ra đi ra đi bảo tồn sông núi. Ra đi ra đi thà chết không lui…. Bài
hát được phổ biến đầu tiên ở Đà Nẵng. Trên các đoàn tàu hỏa chở những đoàn
quân Nam tiến dừng ở ga Đà Nẵng, đội văn nghệ tuyên truyền Việt Minh (trong
đó có tác giả) đã ca vang giai điệu hừng hực đầy quyết tâm này của những thanh
niên đang lên đường cứu nước.
Hai bài hát này của hai nhạc sĩ Hoàng Việt và Phan Huỳnh Điểu thể hiện
những phẩm chất tuyệt vời của người lính - anh bộ đội Cụ Hồ đã được đến được
với cơng chúng, in đậm trong lịng dân thì khơng gì nhanh và hiệu quả bằng
những ca khúc. Hai ca khúc viết về đề tài người lính điểm nổi bật mà chúng ta
bắt gặp đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của anh bộ đội Cụ Hồ. Tinh thần lạc quan

yêu đời, chất lãng mạn trong tâm hồn người lính đã được rất nhiều nhạc sĩ thể
hiện thành công và tiêu biểu là bài hát Lá xanh của nhạc sĩ Hoàng Việt và Đoàn
vệ quốc quân của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu.
Bài 18: Những năm đầu toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1950),
SGK trang 133, mục 2. IV Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, khi giảng
phần này, với hồn cảnh mới những khó khăn, Đảng và Chính phủ chủ trương
mở chiến dịch Biên giới. Cuộc kháng chiến toàn dân, thanh niên trai làng ra
chiến trận…
Do bài này dạy trong hai tiết học nên giáo có thể lựa chọn những bài hát
có màu sắc khác nhau để các em nhận biết được khung cảnh không chỉ các anh
bộ đội cụ Hồ mà có cả những người nơng dân, phụ nữ thanh niên xung phong,
cụ già.... cũng góp sức khơng kém cho tiền tuyến khi ở lại hậu phương
- Mở đoạn bài hát “Ngày mùa” của Văn Cao
Ngày mùa vui thôn trang, lúa reo như hát mừng.
Lúa không lo giặc về, khi mùa vàng thơn q.
Ngày mùa vui thơn xóm, đầy đồng giáo với gươm,
súng tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang.
Lúa lúa vàng, đồng lúa bát ngát trời.
Bao tay liềm từng nhánh lúa thơm rơi.
Ngày vui quân du kích đứng im trơng lúa dập dờn.
Người người qua gánh lúa, nón nghiêng nghiêng cười ai...
... Rồi rời sang xóm khác, nhớ lúc ai nhìn theo
Đã hơn nửa thế kỷ từ khi bài hát “Ngày mùa” ra đời. Mỗi khi nghe lại,
lòng ta vẫn nao nao nhớ về vùng quê nơi cất giấu tuổi thơ êm đềm. Tác phẩm
này trở thành một trong những bài hát hay nhất trong số những bài hát viết về
nông thôn Việt Nam. Tác phẩm “Ngày mùa” tỏ rõ Văn Cao rất “hiện đại”, rất
“mô-đen” mà cũng rất dân tộc.
.

- Mở đoạn bài hát “Hát mừng anh hùng Núp” (Khơng có tác giả)

Đây bất khuất Tây Nguyên cao cao Núi mây điệp trùng gió ào ào.
Đây sóng nước sơng ba dâng trào Người Ba-na như đàn chim Đrao.
Anh dũng nhất đánh Tây Pha-lang. Có anh hùng là chim đầu đàn.
Gương anh Núp đánh Tây giữ làng. Rạng soi vinh quang trời Việt Nam...

17
SangKienKinhNghiem.net


Trong tiểu thuyết "Đất nước đứng lên" của nhà văn Ngun Ngọc,
Núp từng nói: "Nếu khơng có Ngun Ngọc thì khơng có Núp". Vâng! Khiêm
tốn mà nói thế chứ Ngun Ngọc là người đã phát hiện ra người anh hùng từ
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, từ cái làng Kông Hoa xa xơi. Núp nổi tiếng
khắp tồn cầu. Có cả một bài hát hát mừng Anh hùng Núp. Bài hát mừng Anh
hùng Núp cho đến bây giờ không biết tác giả là ai. Nhưng nó phổ biến trong
lịng người Việt mấy mươi năm qua đến bây giờ người trẻ vẫn còn tiếp tục hát:
"Gương trung dũng đánh tây Pha lăng, có anh hùng là chim đầu đàn. Gương anh
Núp đánh Tây giữ làng, rạng soi vinh quang người Việt Nam".
Bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp kết thúc (1953-1954)
tiết, SGK trang 149-150, mục 2. II. Chiến dịch Điện Biên Phủ.
- Mở đoạn bài hát “Hị kéo pháo” (Hồng Vân)
Hị dzơ ta nào…kéo pháo ta vượt qua đèo…
Hị dzơ ta nào…kéo pháo ta vượt qua núi…
Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi.
Vực sâu thăm thẳm vực nào sâu bằng chí căm thù.
Kéo pháo ta lên trận địa đây vùi xác quân thù...
Ca khúc “Hò kéo pháo” ra đời trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Khi đó, nhạc
sĩ Hồng Vân là một chàng trai Hà Nội ngoài 20 tuổi, được lên Điện Biên tham
gia kháng chiến với công việc viết bài cho bản tin của trung đoàn, sư đoàn, dẫn
các văn nghệ sĩ đi thực tế sáng tác… Trong chuyến đi thực tế, Hoàng Vân quan

sát, tiếp cận với cuộc sống và chiến đấu của nhân dân ta ở Điện Biên. Lúc đó,
việc kéo pháo phải thực hiện trong hồn cảnh bí mật để đưa pháo vào vị trí chiến
thuật nhằm tấn cơng gây bất ngờ cho kẻ địch. Pháo thì to và nặng. Đẩy pháo lên
đã khó, kéo pháo ra lại càng khó và đầy vất vả, gian khổ. Khó khăn là vậy,
nhưng ý chí quyết tâm và tinh thần đồn kết đã tạo nên nghị lực phi thường đối
với các chiến sĩ pháo binh, giúp họ hoàn thành nhiệm vụ. Trở về Sư đồn, hình
ảnh người lính pháo binh ln ẩn hiện tâm trí Hồng Vân. Trong một đêm rất
lạnh đầu năm 1954, nằm trong hầm cá nhân với “lá cây làm chiếu, manh áo phủ
làm chăn”, ông thao thức không thể chợp mắt. Khoảng 2 giờ sáng, ơng ra khỏi
hầm. Khi đó, sương phủ mờ mịt, bỗng ông nghe thấy tiếng gà rừng gáy sáng.
Âm vang tiếng gà trong buổi sớm ban mai chính là chất xúc tác tạo cảm hứng để
ơng gợi nhớ về những đêm ngày hành quân khắp miền Tây Bắc. Cảm xúc về
những người chiến sĩ pháo binh bấy lâu chất chứa trong lịng đã thơi thúc ơng
cầm bút viết lời ca, nốt nhạc. Bắt đầu với tiếng hị dơ… phảng phất âm điệu dân
ca Thái: “Hị dơ ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo. Hị dơ ta nào! Kéo pháo ta
vượt qua núi. Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi, vực sâu
thăm thẳm vực nào sâu bằng chí căm thù. Kéo pháo ta lên trận địa đây vùi xác
quân thù…”. Mỗi lời ca tựa như từng đợt, từng đợt các chiến sĩ bộ đội đang
chung sức, chung lịng cùng khích lệ, động viên nhau đẩy pháo. Hai hôm sau, bài
hát được in trên bích báo, từ đó khắp mặt trận đều vang lên câu hát: “Hị dơ ta
nào kéo pháo ta vượt qua đèo. Hị dơ ta nào kéo pháo ta vượt qua núi...”. Tại Đại
hội liên hoan toàn quân năm 1954, ca khúc “Hò kéo pháo” được trao giải nhất và

18
SangKienKinhNghiem.net


với ca khúc này nhạc sĩ Hoàng Vân đã được tặng thưởng Huân chương Chiến
công.
- Mở đoạn bài hát “Giải phóng Điện Biên” của Đỗ Nhuận

…Giải phóng Điện Biên bộ đội ta tiến quân trở về giữa mùa này hoa nở
miền Tây Bắc tưng bừng vui. Bản mường xưa nương lúa mới trồng kìa đàn em
bé giữa đồng nắm tay xịe hoa. Dọc đường chiến thắng ta tiến về đồn dân công
tiền tuyến vẫy chào pháo binh vượt qua. Súng đại bác quấn lá ngụy trang từng
đàn bươm bướm trắng rỡn lá ngụy trang. Xiết bao sướng vui từ ngày lên Tây
Bắc đồng bào nao nức mong đón ta trở về. Giờ chiến thắng ta đã về vui mừng
đón chúng ta tiến về. Núi sông bừng lên. Đất nước ta sáng ngời cánh đồng Điện
Biên cờ chiến thắng tưng bừng trên trời.
Chiến thắng Điện Biên được sáng tác ngay trong đêm ngày 7/5/1954.
Buổi chiều ngày 7/5, khi đồn văn cơng đang cuốc đất, rải đá làm đường thì
bỗng một đồng chí liên lạc từ mặt trận đạp xe qua, reo to: “Mường Thanh địch
hàng rồi! Giải phóng Điện Biên rồi!”. Tất cả đồn văn cơng ngừng tay cuốc, ơm
nhau nhảy, khơng cần đệm nhạc. Đỗ Nhuận thì khơng ơm ai cả, nhảy một mình,
nhảy tít thị lị, và trong đầu phảng phất câu “Giải phóng Điện Biên”… Thế rồi,
đêm hơm đó, trong túp lều, bên ánh đèn dầu le lói, tay ông búng chiếc violon,
miệng cứ hát lẩm nhẩm, sợ làm ồn anh em mất ngủ. Và Chiến thắng Điện Biên
ra đời với cảm xúc tn trào: “Giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở
về/Giữa mùa hoa nở, miền Tây Bắc tưng bừng vui…”
Tôi sử dụng đoạn nhạc này để HS hứng khởi tìm hiểu diễn biến chiến
dịch... Những tiết học có kết hợp âm nhạc thật sự có sức lơi cuốn, thu hút học
sinh. Qua tiết học, học sinh có cơ hội hiểu rõ hơn giá trị âm nhạc đối với lịch sử
dân tộc, học sinh được hát hoặc nghe hát về những bài hát cách mạng làm cho
khơng khí lớp học sơi động, giúp học sinh hiểu lịch sử qua âm nhạc một cách
nhẹ nhàng và sảng khối tinh thần. Từ đó góp phần cải thiện được thái độ học
tập môn lịch sử của học sinh và có hiệu quả ngồi mong muốn, định hướng sở
trường thưởng thức âm nhạc truyền thống, thậm chí có những học sinh đã thuộc
và hát theo bài hát. Đây chính là niềm vui phấn khởi, một tín hiệu đáng mừng
trong tiết dạy học lịch sử ở Trung tâm.
Trong quá trình tiến hành sử dụng âm nhạc vào giảng dạy bản thân tơi
thấy số học sinh có hứng thú tìm hiểu lịch sử ngày càng nhiều hơn, dễ nhớ các

sự kiện, địa danh, nhân vật hơn… Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp dạy
học sử dụng âm nhạc cũng gặp phải những khó khăn nhất định như lượng kiến
thức nhiều song thời gian cho môn lịch sử không nhiều; đời sống của giáo viên
cịn thấp. Để nắm được tình hình cụ thể tôi đã tiến hành khảo sát học sinh để
xem phương pháp áp dụng có hiệu quả như thế nào?
3. Hiệu quả:
Tôi đã áp dụng vào dạy ở hai lớp 12A1, 12A2 năm học 2015 - 2016, nhận
thấy học sinh học hứng thú và hình ảnh nhân vật, sự kiện lịch sử đặc biệt là Sử
dụng bài hát tạo hứng thú cho học sinh, giúp học sinh dễ hình dung và nắm bắt
sự kiện hơn. Qua thời gian áp dụng sáng kiến này, kết quả học tập của học sinh

19
SangKienKinhNghiem.net


lớp tơi giảng dạy có nhiều tiến bộ rõ rệt, nhất là trong tiết học lịch sử các em rất
sôi động, gần 90% số học sinh trong lớp tham gia cùng cô giáo khai thác kiến
thức trong bài giảng, kết quả thống kê so sánh như sau:
Năm học

Giỏi

Khá

TB

Yếu - kém

Số
Tỉ lệ

Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lượng
%
lượng
% lượng
%
lượng %
2013 - 2014
3
3.0
20
22
55
61
11
14
2015 - 2016
10
13
33
45
30
42
0
0
Kết quả trên cho thấy, việc áp dụng sáng kiến trên đã đem lại kết quả học

tập của học sinh năm học 2015 - 2016 so với năm 2013 - 2014, có nhiều khả
quan hơn, số lượng học sinh giỏi, khá tăng, số lượng học sinh yếu kém khơng
cịn.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Bài học kinh nghiệm
Qua thực tế giảng dạy, tơi nhận thấy muốn có một tiết học thành công và
chất lượng học tập của học sinh được nâng cao cần có những điều kiện sau:
- Giáo viên: đầu tư cơng sức và cả sự kiên trì, bền bĩ nâng cao kiến thức
và kỹ năng dạy học; Kế hoạch sử dụng phương pháp cụ thể theo bài, theo
chương, bám sát mục tiêu bài học, bảo đảm thời gian, không lạm dụng giờ học
thành giờ thưởng thức âm nhạc hay bàn về một nhân vật lịch sử nào đó để tránh
phản tác dụng. Tạo sự đoàn kết yêu thương nhau giữa các em học sinh trong lớp.
Có kế hoạch kiểm tra khen thưởng động viên kịp thời. Nhất là phát hiện học sinh
có năng khiếu âm nhạc.
- Học sinh: Có thái độ tự giác cao, phối hợp với giáo viên nhất là khi được
hướng dẫn tìm hiểu bài học, lựa chọn nhân vật hay bài hát áp dụng cho từng bài.
Đây chính là một trong biện pháp cách thức gây hứng thú học tập bộ môn
lịch sử đối với học sinh bậc Trung Tâm GDTX nói riêng và ở nhà trường THPT
nói chung, nó đã góp phần làm cho hoạt động giáo dục theo hướng tích cực hố
trong dạy và học hiện nay.
2. Kiến nghị, đề xuất
Để nâng cao chất lượng dạy và học, đáp ứng yêu cầu của giáo dục trong
giai đoạn hiện nay, mỗi giáo viên phải sử dụng triệt để đồ dùng dạy học, nắm bắt
tâm lý học sinh trong thời đại bùng nổ thông tin Intenet, không ngừng trau dồi
chuyên môn, học hỏi đồng nghiệp, đặc biệt là áp dụng công nghệ hiện đại trong
dạy học... Trước u cầu và nhiệm vụ trên tơi kính mong các cấp lãnh đạo ngành
đầu tư cơ sở vật chất tạo điều kiện giáo viên, học sinh dạy và học tốt hơn. Tạo
điều kiện cho chúng tôi được học hỏi, tập huấn về sử dụng công nghệ hiện đại nhất là đưa công nghệ thông tin vào dạy học là cần thiết và liên tục được phát
huy trong môi trường học tập ngày nay. Riêng nhà trường tăng thêm phòng máy
chiếu, loa dài phục vụ cho dạy học; Tổ chức các trị chơi mang tính vừa chơi,

vừa học, vừa thể hiện sự hiểu biết, vừa để học sinh thể hiện khả năng tuy duy, sự
tự tin của mình.
20
SangKienKinhNghiem.net



×