Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Skkn rèn luyện kỹ năng sống qua tiết sinh hoạt giúp nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh lớp 11b2 trường thpt thạch thành4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 27 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….2
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.........................................................................................2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.................................................................................3
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................4
4. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.......................................................4
NỘI DUNG..........................................................................................................5
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI ...............................................................5
1. Khái niệm Kỹ năng sống...........................................................................5
2. Vì sao phải rèn luyện KNS cho HS lớp 11B2 trường THPT TT4.............6
3.Vai trò của GVCN trong việc rèn luyện KNS cho Hs ................................7
II. 2. CƠ SỞ THƯC
̣ TIÊN
̃ ......................................................................................7
1. Một số nhận định về KNS của học sinh THPT hiện nay...........................7
2. Thực trạng KNS của học sinh lớp 11B2....................................................8
III. MỘT VÀI BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KNS Ở LỚP 11B2 QUA TIẾT SHL
………… 9
IV. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI ỨNG DỤNG SKKN............................................19
KẾT LUẬN.......................................................................................................20
1. Ý NGHĨA CỦA SKKN...................................................................................21
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM................................................................................21
3. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀ TRIỂN KHAI........................................................22
4. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT......................................................................23
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA LỚP CHỦ NHIỆM VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG
RÈN LUYỆN KNS............................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................31

1

skkn




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có thể thấy một trong những nguyên lí giáo dục cơ bản của Đất
nước chúng ta là giáo dục con người toàn diện. Nhiệm vụ của hệ thống
giáo dục Việt Nam là đào tạo, bồi dưỡng học sinh cả đức lẫn tài. Học
sinh đến trường khơng chỉ để học chữ, mà cịn để rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức, lối sống, và hình thành nên những phẩm chất tốt đẹp, tiêu
biểu cho con người Việt Nam. Như vậy, nhà trường phải thực hiện
nhiệm vụ kép vừa dạy chữ vừa dạy cách làm người cho học sinh, nghĩa
là vừa trang bị cho các em kiến thức để hịa nhập, để mưu sinh, vừa
hình thành nhân cách, đạo đức để các em trở thành người tốt, có ích
cho xã hội, cho Đất nước.
Trong thời kì đất nước hội nhập như hiện nay, đòi hỏi nguồn nhân lực
“tinh” không chỉ về kiến thức mà “tinh” cả về kĩ năng, có rất nhiều những kĩ
năng quan trọng cần được hình thành như kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng làm việc
nhóm, kĩ năng giải quyết vấn đề thực tiễn…Vì vậy, bên cạnh nhiệm vụ rèn
đức luyện tài, việc rèn luyện, bồi dưỡng cho các em những kĩ năng
sống cơ bản trở thành nhiệm vụ cấp thiết đối với ngành giáo dục.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh, cần có sự phối hợp hiệu quả giữa “Giáo dục nhà trường kết hợp
với gia đình và ngồi xã hội”. Trong “ba ngơi giáo dục” này, giáo dục
nhà trường đóng vai trị chủ đạo và vai trò của giáo viên chủ nhiệm
được coi là một khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến mức độ
thành công của việc giáo dục kĩ năng sốn cho học sinh, đặc biệt là học
sinh các trường miền núi. Do đặc thù các em ở các xã vùng sâu vùng xa
mới bắt đầu bước vào một môi trường giáo dục hoàn toàn mới, tập
trung học tập ở trung tâm huyện đang trên đà phát triển, nhiều học sinh
rời xa gia đình đi học trọ… các em rất cần được giáo dục thêm kĩ năng

sống để sẵn sang hội nhập. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm đã sử dụng hiệu
2

skkn


quả tối đa các tiết Sinh hoạt lớp để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
thông qua các hoạt động thảo luận chuyên đề tháng, tổ chức trò chơi…
Mặc dù giáo viên chủ nhiệm và tiết sinh hoạt lớp có vai trị hết
sức quan trọng trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, nhưng
thực tế hiệu quả giáo dục KNS cho các em trong các tiết SHL chưa đạt
như mong muốn. Phần lớn các tiết SHL hiện nay chủ yếu được thực
hiện dưới hình thức là tổng kết, đánh giá và đề ra phương hướng tuần
tới. Hình thức sinh hoạt này dễ gây cho học sinh sự nhàm chán, đặc
biệt là gây áp lực về các lỗi mà các em mắc phải trong tuần qua. Chính
vì lẽ đó nên mục tiêu giáo dục KNS cho học sinh mà giáo viên đặt ra
qua tiết SHL không đạt được như ý muốn.
Xuất phát từ thực tiễn trên, với những trăn trở băn khoăn của mình, tơi
mạnh dạn chọn đề tài “Rèn luyện kỹ năng sống qua tiết sinh hoạt giúp nâng
cao chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh lớp 11B2 trường THPT
Thạch Thành4” nhằm thể hiện một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân đã đúc
rút được từ thực tế giảng dạy và được phân công làm cơng tác chủ nhiệm những
năm qua.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Thấy được thực trạng Kĩ năng sống của học sinh lớp 11B2 trường THPT
Thạch Thành 4 nói riêng và học sinh THPT nói chung. Từ đó tìm ra một số giải
pháp giúp học sinh có kĩ năng sống tốt hơn .
- Xây dựng mơ hình để giáo dục rèn luyện kĩ năng sống giúp cho học
sinh có tinh thần và thái độ học tập tự giác, tích cực, sống có lý tưởng và hồi
bão, ứng xử, hành động mang tính nhân văn. Ngồi ra cịn giúp cho học sinh có

ý thức bảo vệ bản thân trước những khó khăn, thử thách mới mà cuộc sống đặt
ra, giúp các em vững tin hơn khi bước vào đời.
- Đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện; phù hợp với quan điểm giáo dục
của UNESCO đó là: Học để biết; học để làm; học để chung sống và học để tự
khẳng định mình.

3

skkn


3. Đối tượng và phạm vi, phương pháp nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Kĩ năng sống của học sinh lớp 11B2 và việc rèn
luyện kĩ năng sống cho học sinh qua tiết Sinh hoạt lớp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 11B2 – trường THPT Thạch Thành 4
- Thời gian nghiên cứu trong năm học 2021 - 2022 có so sánh kết quả nghiên
cứu với kết quả công tác chủ nhiệm năm học 2020 – 2021 và những năm học
trước. Trong các năm học tiếp theo tiếp tục triển khai và theo dõi kết quả thực
hiện.
3.3 Phương pháp nghiên cứu:
Đối với đề tài này tôi sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
- Phương pháp quan sát: nhằm tìm hiểu, đánh giá thực trạng có bao nhiêu học
sinh còn yếu, kém về kĩ năng sống và việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
qua các tiết học và các hoạt động tập thể.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: thông qua kết quả các hoạt
động, ứng xử… có thể đánh giá chất lượng và hiệu quả về rèn luyện của học
sinh
4. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.

- Trang bị cho Học sinh những kiến thức và kĩ năng sống cụ thể.
- Đưa ra các biện pháp cụ thể trong tiết sinh hoạt lớp nhằm rèn luyện Kĩ
năng sống cho học sinh từ đó giúp các em hình thành những giá trị đạo đức cho
bản thân.
- Tạo cho học sinh khả năng thích ứng, hịa nhập, xử lý tình huống, góp
phần hồn thiện nhân cách, từng bước làm thay đổi quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục rèn luyện của học sinh.
- Xây dựng tập thể lớp đồn kết, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình ,có
kỹ năng phối hợp cơng tác tốt, cùng nhau hỗ trợ trong hoạt động giáo dục.

4

skkn


PHẦN NỘI DUNG

I. Cơ sở lí luận chung của đề tài.
1. Khái niệm Kĩ năng sống.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống và mỗi quan
niệm lại được diễn đạt theo những cách khác nhau:
- Theo tổ chức Y tế thế giới: Kĩ năng sốn là khả năng để có hành vi thích
ứng và tích cực trong các tình huống xảy ra trong đời sống mỗi con người. Rèn
kĩ năng sống là giúp cho mỗi cá nhân có thể ứng xử có hiệu quả trước các nhu
cầu và thách thức cuộc sống hằng ngày.
- Theo UNICES thì cho rằng: Kĩ năng sống là khả năng tiếp cận với thay
đổi và hình thành những hành vi mới, tiếp cận này đã lưu ý đến sự cân bằng về
tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
- Có quan niệm cho rằng: Kĩ năng sống là năng lực ứng xử tích cực của
mỗi người đối với tự nhiên, xã hội và chính mình; là khả năng tâm lý xã hội của

mỗi cá nhân trong các hành vi tích cực, để xử lý hiệu quả những đòi hỏi, thách
thức cuộc sống.
- Cũng có quan niệm coi kĩ năng sống là khả năng thực hiện một hành
động hay hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức,
những kinh nghiệm để hành động trong sự thực hiện mục đích, trong hoàn cảnh
thực tế.
Tóm lại những quan niệm nêu trên đều chứa một nội hàm: Kỹ năng sống
là năng lực tâm lí- xã hội của mỗi cá nhân, giúp con người có khả năng làm
chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội,
khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.

5

skkn


2. Vì sao phải rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp 11B2 trường THPT
Thạch Thành 4?
- Rèn luyện kĩ năng sống là một trong những nhu cầu thiết thực đối với
học sinh, đặc biệt là học sinh Trung học phổ thông và cũng là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm được Bộ GD-ĐT hướng tới.
- Xác định kĩ năng sống có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển toàn diện của
mỗi học sinh, những năm qua nhà trường đã tiến hành, lồng ghép, tích hợp nội
dung giáo dục này vào các hoạt động, chương trình giảng dạy ở trường. Khi học
các môn Vật lý, Sinh học, học sinh sẽ có thêm nhận thức về vấn đề năng lượng
của cuộc sống, có kỹ năng sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; với môn Ngữ
văn, Lịch sử, Giáo dục công dân, học sinh được giáo dục sâu sắc về Lịch sử, về
tư tưởng, về đạo đức, Pháp luật… Mặt khác, Đoàn trường thường xuyên tổ chức
các hoạt động ngoại khóa như : Đố vui để học, Văn nghệ Mừng Đảng - Mừng
Xuân, Báo bảng theo chủ đề tháng, thi Âm vang xứ Thanh cấp trường… để giúp

học sinh rèn luyện các kỹ năng, nhằm hình thành cho các em cách tư duy linh
hoạt, phong thái tự tin, giúp các em sống nhân văn, biết yêu thương và có trách
nhiệm hơn với những người xung quanh và chính bản thân.
- Với những hoạt động tích cực như vậy đa phần các em học sinh lớp
11B2 trường THPT Thạch Thành 4 đã hình thành được những kĩ năng sống cơ
bản: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ứng xử, kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng
thuyết trình…. Nhưng vẫn cịn rất nhiều em chưa đáp ứng được những yêu cầu
đa linh hoạt các kĩ năng trong bối cảnh Đất nước ta đang hội nhập với các nước
trong khu vực và thế giới.
- Vì vậy, việc giáo dục đạo đức, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
THPT đóng vai trị quan trọng, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm, có
khả năng ứng phó tích cực để các em có cơ hội và điều kiện để trở thành người
có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

6

skkn


3. Vai trò của Giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh lớp 11B2 trường THPT Thạch Thành 4.
- Ở các trường phổ thơng nói chung và ở trường THPT Thạch Thành 4 nói riêng
vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp là rất quan trọng. Giáo viên chủ
nhiệm không chỉ truyền dạy tri thức cho học sinh mà thông qua các tiết học, đặc
biệt là tiết sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm cịn chính là những người thủ lĩnh
tinh thần, người giáo dục, hình thành và hồn thiện nhân cách cho các em học
sinh, rèn luyện những KNS cho các em khi bước vào đời.
- Khoa học giáo dục đã chứng minh, các em học sinh trong quá trình hình
thành nhân cách luôn luôn chịu tác động bởi 3 yếu tố: Gia đình – Nhà trường –
Xã hội. Mỗi yếu tố có chức năng riêng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ, bổ sung

hỗ trợ cho nhau. Giáo viên chủ nhiệm nằm trong yếu tố nhà trường. Ở trường
THPT Thạch Thành 4, GVCN là người được giao nhiệm vụ, theo dõi quản lý
học sinh của lớp mình. Nắm được điều này, ngay từ đầu năm học, Ban giám
hiệu đã xem xét, lựa chọn các giáo viên để đảm nhiệm các lớp chủ nhiệm. Mặt
khác trong khi phân công chủ nhiệm, Ban giám hiệu cũng tạo điều kiện cho
giáo viên đi theo lớp, chủ nhiệm xuyên suốt từ lớp 10 đến lớp 12. Các GVCN đi
theo lớp đã nắm bắt tình hình, học lực, sở thích, tính cách… của từng học sinh
để trang bị cho các em vốn sống để có thể ứng phó cho tích cực nhất khi phải
đối mặt trước những tình huống thử thách, hoặc sẽ dễ dàng bị sa ngã, bị ảnh
hưởng tiêu cực bởi mơi trường sống. 
- Có thể thấy, tại trường THPT Thạch Thành 4, GVCN ngoài việc truyền
dạy kiến thức, cịn chính là những người thầy dạy những kĩ năng sống cần thiết
để học sinh ứng phó trước tình huống, quản lý cảm xúc, học cách giao tiếp, ứng
xử với mọi người xung quanh, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ, để thể
hiện bản thân một cách tích cực, lành mạnh nhất.
II. Cơ sở thực tiễn.
1. Một số nhận định về Kĩ năng sống của học sinh THPT hiện nay.
- Hiện nay các trường THPT đã và đang chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng
sống cho học sinh thông qua các chương trình giáo dục lồng ghép, tích hợp
trong các tiết dạy chính khóa của các môn học và thông qua các hoạt động ngoại
7

skkn


khóa và các tiết học tập ngoài giờ trên lớp, các tiết học và bộ môn giáo dục công
dân ngày càng được quan tâm. Với yêu cầu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
phải đảm bảo các yếu tố: Giúp học sinh ý thức được các giá trị của bản thân
trong mối quan hệ xã hội, giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản
thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết, chấp hành và tôn

trọng pháp luật.
- Thực tế cho thấy những năm gần đây tình trạng thanh thiếu niên, đặc
biệt là các em ở độ tuổi trung học phổ thông, phạm pháp ngày càng gia tăng với
các mức độ ngày càng nghiêm trọng. Với độ tuổi từ 15 đến 18 về mặt phát triển
tâm, sinh lý các em dễ rơi vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật ảnh hưởng rất
xấu cho môi trường học đường và xã hội. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này, nhưng một trong những nguyên nhân chính là học sinh thiếu những kĩ
năng sống cần thiết để hòa nhập với sự phát triển của Đất nước.
2. Thực trạng kĩ năng sống của học sinh lớp 11B2 trường THPT Thạch
Thành 4.
- Lớp 11B2 có 47 học sinh, 15 học sinh nam, 32 học sinh nữ; có 37 học
sinh dân tộc thiểu số; lứa tuổi của học sinh là 17 tuổi, có 6 học sinh nhà xa phải
ở trọ học, có 2 học sinh mồ cơi cha, có 5 học sinh sống với ông bà do bố mẹ đi
làm ăn xa. Đa số các em đều có điều kiện kinh tế khó khăn, buổi đi học, buổi
giúp đỡ cha mẹ cơng việc đồng áng nên các em thường ít nói, khơng năng nổ
hoạt bát, các kĩ năng sống cơ bản còn non, ít va chạm, ít hoạt động tập thể.
- Tinh thần và thái độ học tập thụ động, phụ thuộc hồn tồn vào thầy cơ,
vì thế kết quả học tập chưa cao. Các em chưa có nhận thức đúng về ý thức tự
giác, tích cực trong học tập, chưa có ước mơ hoài bão, định hướng nghề nghiệp
trong tương lai còn rất mơ hồ.
- Đa số các em nhút nhát, rụt rè, kỹ năng diễn đạt trình bày trước đám
đơng còn rất kém. Một số học sinh nam ứng xử với nhau chưa thật sự có văn
hóa, tình trạng nói tục, chửi thề vẫn còn diễn ra.
- Tình trạng thiếu kĩ năng sống đang khiến học sinh gặp nhiều lúng túng
trong việc giải quyết các vấn đề của bản thân dẫn đến tình trạng thiếu tự tin,
8

skkn



khủng hoảng về tâm lý. Chính vì vậy, các em dễ trở thành nạn nhân của những
tệ nạn xã hội, thành những học sinh không ngoan, thành người con hư của gia
đình, thậm trí còn dẫn đến vi phạm pháp ḷt ở t̉i vị thành niên.
- Qua q trình chủ nhiệm từ lớp 10 đến lớp 11 tôi nhận thấy học sinh lớp
11B2 còn thiếu các kĩ năng sau: Kĩ năng tự nhận thức, Kĩ năng giao tiếp, Kĩ
năng thể hiện sự tự tin, Kĩ năng làm việc nhóm, Kĩ năng thể hiện sự cảm thông,
Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, Kĩ năng tư duy sáng
tạo, Kĩ năng điều khiển - đảm nhận trách nhiệm, Kĩ năng tìm kiếm và xử lý
thơng tin.
Với cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên tôi thấy rằng giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh lớp 11B2 trường THPT Thạch Thành 4 qua các tiết sinh hoạt lớp là
rất cần thiết, tạo ra môi trường học tập sinh động, hứng thú, tự giác hơn cho các
em. Giúp các em hình thành những phẩm chất, năng lực cần thiết cho cuộc sống.
III. Một vài biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp 11B2 trường
THPT Thạch Thành 4 qua tiết sinh hoạt lớp.
Từ thực tế trên, tôi xin được đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả các hoạt động giáo dục kĩ năng sống của học sinh lớp 11 B2 trường
THPT Thạch Thành 4 qua tiết sinh hoạt lớp như sau:
1. Đa dạng hố về nội dung và hình thức tổ chức tiết sinh hoạt lớp.
Như chúng ta đã biết, một tiết sinh hoạt lớp thường bắt đầu bằng những
tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện của cả lớp trong tuần của ban cán sự lớp.
Thông qua sổ đầu bài, sổ thi đua của Đoàn trường, giáo viên chủ nhiệm nhận
xét, đánh giá từng học sinh, sau đó phổ biến cơng việc tuần tới. Chính sự lặp lại
này sẽ gây ra sự nhàm chán cho học sinh, các em khơng có hứng thú với tiết
sinh hoạt lớp, thậm chí ác cảm với cả giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, sự thay đổi
nội dung và các hình thức tổ chức giờ sinh hoạt cho phù hợp với lứa tuổi học
sinh khác nhau là đòi hỏi tất yếu đối với nhà trường. Sức hấp dẫn học sinh, sự
lôi cuốn các em tham gia tích cực vào hoạt động phụ thuộc nhiều vào sự thay
đổi nội dung và các hình thức tổ chức. Do đó, nội dung tiết sinh hoạt lớp hàng
9


skkn


tuần phải cụ thể, bổ ích, phải gắn với nhu cầu và hứng thú của học sinh và chúng
phải phù hợp với kinh nghiệm và trình độ hiểu biết của các em, huy động đến
mức cao nhất trí tuệ và tình cảm tập thể . Để làm được điều này, đòi hỏi giáo
viên chủ nhiệm cần:
- Thu hút tối đa sự tham gia của mọi học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ,
cố vấn của giáo viên nhằm tăng cường vai trị tự quản của học sinh. Sự tham gia
đơng đảo của học sinh vào các hoạt động, công việc của lớp, của trường vừa là
nhu cầu, vừa là quyền của mỗi học sinh. Sự cùng tham gia ấy sẽ tạo ra môi
trường chung để các em cùng trải nghiệm những xúc cảm tích cực, tăng cường
giao lưu giữa học sinh, tạo ra môi trường lớp học mang bầu không khí tin tưởng,
thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ và lắng nghe ý kiến của nhau. Từ đó tình
cảm gắn bó, chia sẻ giữa các em được hình thành và củng cố. Nói cách khác,
học sinh phải là chủ thể của tiết sinh hoạt, phải được tham gia vào tiết sinh hoạt
từ những vai trò và nhiệm vụ khác nhau như người thực thi nhiệm vụ được giao,
người tổ chức, người khám phá và đánh giá hoạt động của chính các em, của
tập thể mà các em tham gia.
- Tăng cường những nội dung sinh hoạt có liên quan đến các công việc
chung của lớp, phù hợp với nhu cầu và sở thích của học sinh: Mỗi lớp, mỗi tập
thể đều có những cơng việc chung cần giải quyết, ví dụ như xây dựng các quy
định riêng của lớp, xác định chỉ tiêu thi đua, xử lí các tình huống nảy sinh trong
tập thể lớp…., vì thế cần để cho học sinh tự thảo luận, trao đổi và quyết định.
Mục đích là nhằm nâng cao bầu khơng khí đồn kết, tinh thần trách nhiệm ….
của mỗi học sinh trong lớp. Một tập thể lớp đoàn kết với từng thành viên có tinh
thần trách nhiệm cao sẽ là mơi trường giáo dục tốt nhất cho từng học sinh.
Ngoài ra việc thường xuyên thu hút các em vào quá trình bàn bạc chung sẽ dần
dần tạo ra ở các em lòng tin vững chắc rằng chúng có vị trí nhất định trong lớp

và chúng sẽ cố gắng nỗ lực và hợp tác với mọi thành viên để hồn thành cơng
việc được giao.
- Đảm bảo giao lưu dưới hình thức đối thoại: Giao lưu giữa giáo viên và
học sinh, giữa học sinh với học sinh có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình
10

skkn


giáo dục. Chính thơng qua giao lưu mà năng lực hiểu người khác của mỗi học
sinh được xây dựng và do đó năng lực hiểu bản thân mình được hình thành và
năng lực tự ý thức, cơ sở của tự giáo dục được phát triển. Trong quá trình giao
lưu, các em trao đổi với nhau, với giáo viên những quan điểm, tư tưởng, hứng
thú, tâm trạng, xúc cảm...và từ đó có tác động lẫn nhau. Trên cơ sở của những
hiểu biết đó, học sinh sẽ dễ dàng cảm thơng, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau, tạo nên
bầu khơng khí lớp học đoàn kết, cởi mở và thân thiện… Bản thân giáo viên chủ
nhiêm, qua hình thức giao lưu - đối thoại này cũng có những sự hiểu biết nhất
định về học sinh và sẽ đề ra những biện pháp rèn luyện những kĩ năng cần thiết
cho các em. Mặt khác, trong q trình bàn bạc các cơng việc chung của lớp
trong tiết sinh hoạt dưới hình thức giao lưu - đối thoại sẽ phát triển được bầu
khơng khí thuận lợi cần thiết cho giáo dục, giúp mọi học sinh tin tưởng và
khơng sợ hãi về mặt tâm lí. Các em sẵn sàng đưa ra những quan điểm, chính
kiến của mình, sẵn sàng nghe và tiếp nhận những ý kiến của người khác một
cách tôn trọng... Giao lưu - đối thoại sẽ phát triển ở mọi học sinh lòng tin vào
sức lực cá nhân, phát triển thái độ phê bình đối với bản thân, sự tôn trọng đối
với các bạn, tính sẵn sàng giải quyết có sáng tạo các vấn đề đặt ra và niềm tin
vào khả năng giải quyết chúng.
* Lưu ý:
+ Tiết sinh hoạt lớp cần đảm bảo tính dân chủ, sơi nổi. Do vậy , nội dung
hoạt động phải gợi mở được tâm tư, nhu cầu, kích thích được tính tích cực, khơi

dậy được tiềm năng của mỗi thành vên, nâng cao kỹ năng điều khiển, năng giao
tiếp…của mỗi học sinh.
+ Sau mỗi tiết sinh hoạt, giáo viên chủ nhiệm nên tổ chức rút kinh nghiệm
cùng đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ chức năng về từng  bước của quy trình. Đây
cũng là cơ hội để học sinh tập dượt và tự đánh giá kết quả hoạt động của mình.
2. Thảo luận chuyên đề theo chủ điểm hàng tháng.
* Mục đích thảo luận:
- Giúp học sinh có cơ hội được cùng  nhau chia sẻ, trao đổi thông tin, hợp
11

skkn


tác để  giải quyết các vấn đề, thơng qua đó giúp  nhau hiểu một cách đúng đắn
những vấn đề  được thảo luận.
- Giúp học sinh có cơ hội được bày  tỏ những ý kiến, những quan điểm
của mình  một cách dân chủ, tự tin để kiểm chứng hay  để tự khẳng định và tự
điều chỉnh.
- Hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng trình bày trước tập thể,
biết thuyết  phục người khác, biết bảo vệ chính kiến của  mình, biết lắng nghe
và chia sẻ, biết hợp tác.
* Khi tiến hành thảo luận chuyên đề cần lưu ý: Nên giao lần lượt cho
các tổ chủ trì, các tổ khác hỗ trợ, tham gia. Khi tiến hành thảo luận chuyên đề
cần lưu ý:
- Vấn đề hay chủ đề thảo luận phải phù hợp với hứng thú, nhu cầu và
trình độ nhận thức chung của học sinh, có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau.
- Vấn đề đưa ra thảo luận đòi hỏi sử dụng nhiều kiến thức và kinh nghiệm
để đánh giá, kết luận, hay sáng tạo ý tưởng mới.
- Mơi trường thảo luận phải thuận lợi, an tồn, thoải mái để tất cả học sinh
đều có cơ hội bày tỏ những ý kiến, quan điểm và chính kiến của mình.

- Giáo viên trong vai trị người dẫn chương trình phải khéo léo dẫn dắt,
khêu gợi sự mạnh dạn, tự tin, tích cực của mọi học sinh trong lớp để thảo luận
sơi nổi và có hiệu quả.
- Các chun đề thảo luận được nêu trong kế hoạch hoạt động hàng tháng
của nhà trường hoặc các chủ điểm mang tính thời sự, phát sinh trong thời gian
hàng tháng...
- Trên cơ sở đó, đưa ra những chuyên đề về giá trị sống, kĩ năng sống
và kỹ năng hoạt động xã hội để học sinh thảo luận, bàn bạc; bày tỏ ý kiến,
đưa ra những biện pháp thực hiện. Giáo viên giải đáp câu hỏi, thắc mắc và
nêu các phương án giải quyết để học sinh vận dụng tuỳ vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể.
- Cuối cùng, giáo viên chủ nhiệm có nhiệm vụ chốt lại các vấn đề đã
thảo luận và định hướng chung cho học sinh nhận thức được vấn đề.
12

skkn


Mặt tích cực của việc thảo luận là học sinh tự thể hiện ý kiến, cách hiểu
của bản thân trước các vấn đề. Do đó, cần có sự chuẩn bị chu đáo của giáo
viên và học sinh.Tùy theo thời điểm, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận
các chuyên đề theo từng tháng. Để các chuyên đề thảo luận đạt hiệu quả cao,
giáo viên có thể thơng qua kế hoạch thảo luận các chuyên đề vào đầu năm học
để các em biết và có sự chuẩn bị tốt nhất. Trong năm học vừa qua tôi đã áp
dụng một số chủ đề tháng như sau:
- Chuyên đề thảo luận tháng 9: Đoàn kết là sức mạnh.
- Chuyên đề thảo luận tháng 10: Mẹ
- Chuyên đề thảo luận tháng 11: Lòng biết ơn.
- Chuyên đề thảo luận tháng 12 : An tồn giao thơng.
- Chun đề thảo luận tháng 01: Bạn sẽ làm gì với tiền lì xì?

- Chuyên đề thảo luận tháng 2: Lí tưởng, ước mơ của Tơi
- Chun đề thảo luận tháng 3: Sống là cho
- Chuyên đề thảo luận tháng 4: Tình bạn, tình u học trị
- Chuyên đề thảo luận tháng 5: Thời gian cho bạn những gì?
Qua việc đưa ra các chuyên đề và thảo luận theo chuyên đề sẽ giúp giáo
viên chủ nhiệm thấy được quan niệm, cách sống, sở thích…của học sinh và từ
đó có sự uốn nắn, định hướng, giúp các em tự tin hơn trong cuộc sống.
Bản thân tôi khi cho học sinh thảo luận các chuyên đề, các em hưởng ứng
rất tích cực. Ví dụ như ở chuyên đề “Thế nào là hạnh phúc?”, đầu tiên tôi đặt ra
cho các em câu hỏi: “Em cảm thấy hạnh phúc khi nào?”. Có bạn phát biểu đơn
giản rằng “Em cảm thấy hạnh phúc khi em vui vẻ”. Có bạn tình cảm cho rằng
“Em thấy hạnh phúc khi được đi chơi với bạn bè, được sum vầy bên gia đình”.
Có rất nhiều ý kiến được đưa ra, nhưng chung quy lại, đối với các em, hạnh
phúc là khi ta có yêu thương. Sau đó, tơi tiếp tục đặt câu hỏi “Các em biết khi
nào mình cảm thấy hạnh phúc, vậy theo các em, thế nào là hạnh phúc?”. Các em
vẫn hăng hái phát biểu, nhưng với những suy nghĩ kĩ càng, cẩn thận hơn. Mỗi
13

skkn


người bí mật viết những khái niệm về hạnh phúc của chính mình vào trong mẩu
giấy. Khi tơi gợi ý các em có thể đứng lên chia sẻ với cả lớp, lúc đầu các em khá
ngại ngùng nhưng được tôi khuyến khích, các em đã mạnh dạn bày tỏ quan
niệm của mình. Có những hạnh phúc bé nhỏ, dễ thương; có những hạnh phúc
đơn giản, quen thuộc; có những hạnh phúc là ước mơ; và có cả những hạnh phúc
khơng lời… Những hạnh phúc ấy thể hiện tính cách của các bạn: bạn độc lập,
mạnh mẽ; bạn súc tích, rõ ràng; bạn tình cảm, lãng mạn…
Sau khi nghe các em trình bày, cuối cùng tơi chốt lại vấn đề bằng cách
tổng hợp ý kiến của các em và định hướng chung cho học sinh nhận thức được

vấn đề. Các em đều cảm thấy rất hào hứng và bản thân là giáo vên chủ nhiệm,
tơi cũng thấy rất hài lịng về sự thể hiện của các em.
3. Hoạt động nhóm.
- Nhu cầu được là thành viên của một nhóm đối với lứa tuổi học sinh
trung học là rất quan trọng. Khi các em có lịng tin vững chắc rằng chúng là
thành viên của lớp và có vị trí nhất định trong đó, các em sẽ nỗ lực cố gắng và
hợp tác vì một mục đích chung. Chính vì thế, giáo viên cần phải làm thế nào để
mọi học sinh trong lớp đều có một vị trí nhất định, được tham gia vào các hoạt
động chung của lớp, được bạn bè thừa nhận, đặc biệt là đối với những học sinh
ít nổi bật trong tập thể lớp.
- Đây là phương pháp tối ưu nhằm huy động trí tuệ tập thể nhóm để giải
quyết vấn đề. Hoạt động nhóm thường gắn liền với các chuyên đề mà lớp sẽ tiến
hành trong tiết sinh hoạt lớp.
- Hình thức thực hiện:lớp chia làm 4 nhóm , tương đương với 4 tổ, mỗi tổ
11-12 học sinh, cử một nhóm trưởng, một thư ký để điều hành nhóm hoạt động.
- Các chuyên đề cho các nhóm chuẩn bị trước từ 2 – 3 tuần. Các nhóm
chuẩn bị nội dung trên giấy A0 để trình bày, minh hoạ ý tưởng, phương án, các
biện pháp giải quyết vấn đề mà chuyên đề đặt ra.
- Nhóm có thể cử ra một đại diện trình bày, các thành viên khác bổ sung,
hồn chỉnh đề tài hoặc mỗi thành viên trình bày một ý chính. Sau đó nhóm
14

skkn


trưởng rút lại vấn đề và kết luận chung.
- Mặt tích cực của hoạt động nhóm là tất cả các thành viên đều động não
làm việc. Qua đó củng cố tinh thần đồn kết, tương trợ; sự cảm thơng, chia sẽ
giữa các thành viên trong nhóm trong q trình thực hiện chuyên đề.
* Lưu ý đối với giáo viên chủ nhiệm khi phân nhóm: Phân chia các tổ,

nhóm học tập trên lớp giáo viên cần nắm chắc sở trường, sở đoàn cũng như địa
bàn cư trú của từng học sinh để làm cơ sở cho việc chia lớp thành các tổ, nhóm
học tập. Chú ý chia tổ nhóm học tập theo địa bàn cư trú, gồm đầy đủ các đối
tượng học lực giỏi, khá, trung bình, yếu, kém, học sinh ngoan và chưa ngoan, để
các em giúp nhau học tập, rèn luyện.
4. Tổ chức trò chơi. 
Tùy vào nội dung đưa ra trong tiết sinh hoạt mà giáo viên có sự chuẩn bị
về giáo án, trò chơi và một số vật dụng cần thiết. Giờ sinh hoạt chỉ gói gọn trong
45 phút nên lựa chọn những trị chơi nhỏ, ít thời gian mà vẫn đảm bảo được giờ
giấc, đó là kinh nghiệm của bản thân tơi trong q trình được phân công công
tác chủ nhiệm lớp. Là một giáo viên Văn và cũng là một giáo viên chủ nhiệm
nên trong tiết sinh hoạt, sau khi nhận xét, đánh giá chung về tình hình hoạt động
của lớp trong tuần, phổ biến kế hoạch tuần tới…thì tơi lồng vào đó một vài trị
chơi đơn giản để tạo tâm lí thoải mái, rèn luyện kỹ năng giao tiếp, tự tin, sáng
tạo…cho học sinh. Cụ thể tơi đã tổ chức một số trị chơi như:
* Trị chơi: Làm thơ đối đáp.
- Mục đích: Thể hiện sự hiểu biết về thơ ca, tạo khơng khí vui vẻ cho tiết sinh
hoạt.
- Số lượng: mỗi nhóm có từ 5 đến 10 em.
- Vật dụng: Trang bị giấy A4, bút cho các nhóm.
- Thời gian: từ 10- 20 phút.
- Địa điểm: Tại phòng học của lớp.
- Cách chơi: Chia làm 2 nhóm. Lần lượt mỗi nhóm sẽ đọc một câu thơ theo cấu
trúc có sẵn.
15

skkn


Ví dụ: 

Bên A: Thân em như giếng giữa đàng
Bên B: Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân
Cứ thế, hai bên phải chọn cho mình những từ có vần để ráp vào hợp lý.
Hoặc có thể đối như thế này:
Bên A: Thương em chẳng biết để đâu
Để trong cây chổi lâu lâu anh quét nhà
Bên B: Thương em chẳng biết để đâu
Để trong lỗ mũi lâu lâu anh dòm…
Lần lượt như thế các bạn sẽ có những câu thơ hay và độc đáo. Nếu nhóm nào
khơng ứng khẩu kịp thời sẽ thua. Hình phạt sẽ do nhóm thắng quyết định. Trị
chơi sẽ vui hơn nếu có những kiểu phạt độc đáo, hài hước và đem đến những
tiếng cười vui vẻ.
* Trò chơi: Địa danh Việt Nam.
- Mục đích: Sự hiểu biết về địa danh của đất nước.
- Số lượng: mỗi nhóm có từ 5 đến 10 học viên.
- Vật dụng: Trang bị giấy A4, bút cho các nhóm.
- Thời gian: từ 5-10 phút.
- Địa điểm: Tại phòng học của lớp.
- Cách chơi: Các nhóm sẽ ghi lên bảng tên các tỉnh, thành phố, huyện, thị
xã (thuộc tỉnh) trong cả nước.
- Quy định: “Các địa danh trong tỉnh Thanh Hóa có chữ Th” Ví dụ :
Thạch Thành, Như Thanh, Thiệu Hóa, Bá Thước, …. Các nhóm ghi tên địa danh
khơng được lặp lại, nếu lặp lại sẽ bị trừ 1 điểm địa danh đó nhưng tiếp theo vẫn
được tính, sau khoảng thời gian quy định, đội nào có nhiều địa danh đúng, đội
đó sẽ chiến thắng. Phần thưởng của đội thắng có thể là những phong kẹo hoặc
những món quà đơn giản, dễ thương mà giáo viên trao cho các em học sinh
nhưng các em sẽ nhớ mãi những khoảnh khắc như vậy và sẽ nhớ mãi về thầy cô,
về những tiết sinh hoạt lớp rất ý nghĩa.

16


skkn


5. Hoạt động thi kể chuyện.
Hoạt động này là một hình thức tổ chức họat động giáo dục, trong đó tạo
ra sân chơi hấp dẫn, mang tính thi đua, cạnh tranh giữa học sinh hoặc các nhóm
học sinh để các em có cơ hội thể hiện sự hiểu biết, cách xử lí tình huống, cách
nhìn nhận cuộc sống, đối nhân xử thế…và các em có cơ hội cùng nhau chia sẻ,
tiếp nhận những kiến thức có liên quan đến chủ đề đã được lựa chọn. Đây là dịp
để học sinh làm quen với nhiều loại hình hoạt động khác nhau, giúp các em phát
triển các kĩ năng cơ bản và cần thiết cho bản thân. Các em phải được vừa học
vừa chơi, thi tài với nhau.... Từ đây các em sẽ lĩnh hội được rất nhiều, góp phần
phát triển nhân cách toàn diện của học sinh, tức là phát triển mọi mặt cả trí tuệ,
tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ và sức khoẻ, thể chất … của học sinh. Vì đây là hình
thức tổ chức họat động tổng hợp nhiều loại hình, địi hỏi thời gian chuẩn bị cơng
phu...
- Cuộc thi cần có sự chuẩn bị về nội dung thi, hình thức thi, cách chấm
điểm bài thi kể chuyện (diễn đạt, giọng nói, điệu bộ, truyền cảm…).
- Cho học sinh tự chọn chuyện để kể hoặc chọn một trong những câu
chuyện mà giáo viên đưa ra từ tiết sinh hoạt tuần trước để học sinh chuẩn bị.
- Những câu chuyện về lòng hiếu thảo, về đối nhân xử thế, về xử lý các
tình huống trong cuộc sống, về chủ đề An tồn giao thơng, phịng chống các tệ
nạn xã hội…sẽ được các em thể hiện trong cuộc thi nhỏ này. Thơng qua các câu
chuyện các em sẽ có được những hiểu biết về cuộc sống xung quanh; tự điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với đạo đức truyền thống cũng như tự điều chỉnh
việc đối nhân xử thế trong tình bạn (lịng thơng cảm, chia sẻ, thương u
giúp đỡ lẫn nhau, tơn trọng pháp luật, phịng chống các tệ nạn xã hội…).
* Một số điều lưu ý:
- Công tác chuẩn bị phải tiến hành trước khi diễn ra cuộc thi từ 10 - 15

ngày
- Tạo khơng khí sơi nổi, phấn khởi cho hội thi thông qua chỉnh trang lớp
học, âm nhạc và các phương tiện khác để hỗ trợ cuộc thi…

17

skkn


Giáo viên chủ nhiệm sẽ là giám khảo nên phổ biến quy cách chấm và tính
điểm là vơ cùng quan trọng. Và để đạt được hiệu quả của cuộc thi qua tiết sinh
hoạt, giáo viên cần thực sự công bằng khi chấm điểm. Mặt khác, giáo viên chủ
nhiệm nên tổ chức dưới hình thức thi đua sẽ góp phần phát huy được tính tự
giác, tích cực, lòng say mê và hứng thú của học sinh qua tiết sinh hoạt. Cuối
cùng, thông qua các câu chuyện mà các em đã kể, GVCN nên tổng kết lại những
giá trị đạo đức đó để HV nắm được và có thể có sự liên hệ, đối chiếu với bản
thân.
6. Hoạt động tư vấn tâm lý - hướng nghiệp.
Trong tiết sinh hoạt, giáo viên chủ nhiệm nên dành khoảng 15 - 20 phút
để tư vấn tâm lí, hướng nghiệp cho học sinh của mình. Mục đích của hoạt động
này nhằm giúp các em giải toả, hoá giải những thắc mắc, bức xúc để học sinh
lấy lại cân bằng tâm lý; ổn định tâm lý để học tập hay giúp các em có những
định hướng nghề nghiệp cho mình.
- Với hoạt động tư vấn tâm lí: Giáo viên nên tổ chức tư vấn tâm lý cho
học sinh; giải đáp, trả lời những thắc mắc, bức xúc của tuổi mới lớn về các mối
quan hệ gia đình, xã hội. Qua quá trình quan sát, tư vấn, giáo dục, giáo viên có
thể tìm ra các kĩ năng còn thiếu hoặc sai lệch của học sinh. Từ đó giúp các em
điều chỉnh lại hành vi sửa chữa thói quen không tốt, giải quyết các tình huống
nảy sinh một cách đúng đắn. Với phương pháp này các thầy, cô phải tạo ra được
uy tín, tình cảm thân thiện với học sinh, tạo cho em niềm tin, và trở thành người

tư vấn tin cậy của các em. Qua đó giúp các em khẳng định bản thân dám nghĩ,
dám làm dám đấu tranh với sai trái của các bạn và có kỹ năng chia sẻ niềm vui,
nỗi buồn, sự thành công của mình và của bạn.
- Với hoạt động tư vấn hướng nghiệp: Đối với học sinh lớp cuối cấp nên
học như thế nào, học khối gì là rất quan trọng quyết định cho ngành nghề tương
lai các em. Giáo viên chủ nhiệm phải thật sự gắn bó, quan tâm tới lớp mới nắm
rõ đặc điểm tâm sinh lý và tình hình học tập của từng em. Từ kết quả học tập,
năng khiếu, tính cách của mỗi học sinh mà  giáo viên góp ý kiến với từng em về
việc lựa chọn nghề nghiệp cho mình thật phù hợp.
18

skkn


Để làm tốt chức năng tư vấn, bản thân người giáo viên phải không ngừng
học hỏi, trau dồi những kiến thức, kỹ năng cần thiết, học hỏi kinh nghiệm từ các
giáo viên khác, từ sách báo…để có thể đưa ra những lời tư vấn tốt nhất cho học
sinh, những em đã gửi gắm trọn vẹn niềm tin cho thầy cô - những giáo viên chủ
nhiệm lớp.
IV. Hiệu quả đạt được khi ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Tinh thần và thái độ học tập của lớp chủ nhiệm nâng lên rõ rệt qua các
tiết học, vui chơi, học sinh tự tin hơn, năng động hơn, mạnh dạn phát biểu ý kiến
hơn và điểm thi đua hàng tuần của các lớp được nâng lên từng bước một cách
rõ rệt.
- Các em học sinh lớp chủ nhiệm biết cách giải quyết mâu thuẫn và các
xung đột phát sinh trong và ngoài nhà trường làm cho tình trạng các em gây gổ
với nhau khơng cịn xảy ra.
- Khả năng diễn đạt trước đám đông của một bộ phận học sinh trước đây
rất nhút nhát, rụt rè nay tự tin hơn, dạn dĩ hơn, đã dám phát biểu nhận xét một
cách khá đầy đủ, lưu lốt suy nghĩ của mình khi được u cầu phát biểu ý kiến.

- Kết quả rèn luyện 100% học sinh hạnh kiểm Tốt, chấp hành nghiêm
chỉnh luật giao thông, khơng có học sinh vi phạm tệ nạn xã hội. Có thể nói học
sinh lớp 11B2 đã có nhiều tiến bộ, đã trang bị được những kĩ năng sống cần thiết
trong cuộc sống.
* Minh chứng:
- Điểm thi đua hàng tuần năm học 2021 – 2022 là 18,8 và đứng vị thứ
4/18 lớp. Tăng 5 bậc so với năm học 2020 – 2021.
- 100% học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa do Đồn trường tổ
chức, các em tích cực đóng góp làm báo Bảng theo chủ đề của đồn trường với
thái độ hợp tác, trách nhiệm.
- Hoạt động chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/2021) tập thể lớp
đạt giải Nhì với bộ sưu tập ảnh về Nhà trường với chủ đề “Thạch Thành 4 trong
tôi”.

19

skkn


- Các em đồn kết, hịa đồng, biết giúp đỡ, cảm thơng với nhau. Khơng có
hiện tượng chia bè phái, nói xấu lẫn nhau dù lớp rất đơng học sinh nữ.
- Khơng cịn hiện tượng học sinh vi phạm quy chế thi, vô lễ với giáo viên.
Các em đều ngoan ngỗn, lễ phép, Kính thầy mến bạn.
- 100 % học sinh tham gia lao động dọn dẹp khuôn viên trường, trồng hoa
để tạo khuôn viên xanh, sạch, đẹp.
- Kết quả học tập và xếp loại Hạnh kiểm của lớp chủ nhiệm tăng rõ rệt so
với năm lớp 10. Cụ thể
* Kết quả học tập: so sánh năm học 2021 – 2022 với năm học 2020 - 2021
Học lực


Giỏi

Khá

TB

Yếu

Năm học
2020 – 2021

2

4,3%

32

68,1%

13

27,6%

0

8

17,1 %

33


72,3%

5

10,6%

0

Sĩ số 47
2021 – 2022
Sĩ số 47
* Kết quả rèn luyện: so sánh năm học 2021 – 2022 với năm học 2020 - 2021
Hạnh kiểm

Tốt

Khá

TB

Yếu

0

0

0

0


Năm học
2020 – 2021

38

80,1 %

11

47

100%

0

19,9%

Sĩ số 47
2021 – 2022

0

Sĩ số 47

20

skkn



PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của SKKN.
Sáng kiến kinh nghiệm về giải pháp “Rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh qua tiết sinh hoạt lớp giúp nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của
học sinh lớp 11B2 trường THPT Thạch Thành4” là công việc hết sức cần
thiết, không thể thiếu đối với mỗi giáo viên chủ nhiệm. Bởi lẽ trong hồn cảnh
đất nước bước vào thời kì hội nhập thì ngồi việc trang bị cho các học sinh
những kiến thức cần thiết thì các giáo viên cần trang bị cho các em những kĩ
năng sống bởi có được kĩ năng sống sẽ giúp các em học sinh tự tin bước vào
cuộc sống tương lai. Tăng cường rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh chính là
nâng chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay.
Hiện nay ngành giáo dục đang đẩy mạnh phong trào thi đua: “Xây dựng
trường học thân thiện - Học sinh tích cực” thì việc rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh nói chung và Hs lớp 11B2 trường THPT Thạch Thành 4 nói riêng có
một ý nghĩa to lớn. Qua đó, giúp học sinh nhìn lại những việc làm của mình từ
trong hành động, trong suy nghĩ, lời nói việc làm. Nó cịn giúp các em hồn
thiện hơn về nhân cách, về lối sống, các em sẽ tích cực hơn, có kỹ năng giao tiếp
tốt khi tham gia các hoạt động mang ý nghĩa cộng đồng, đoàn kết, yêu thương,
trách nhiệm, hợp tác, hòa đồng, thân ái, đồng cảm chia sẻ với mọi người chung
quanh và hơn hết là sống tốt, sống có ý nghĩa và có một niềm tin thiết tha hơn về
cuộc sống hiện tại và tương lai.
2. Bài học kinh nghiệm.
Là một giáo viên trẻ, trong quá trình giảng dạy và thực hiện cơng tác chủ
nhiệm, bản thân tôi luôn học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước để hồn
thiện kỹ năng chủ nhiệm của mình. Tôi luôn tâm niệm là Giáo viên, mà đặc biệt
là Giáo viên chủ nhiệm, bản thân mình ln phải học hỏi và công việc này phải
tiến hành suốt đời. Với tâm huyết và lịng u nghề, tơi ln cố gắng để hồn
thiện các kỹ năng của mình. Trong q trình chủ nhiệm, bản thân tơi cũng có
những vấp váp và sau những vấp váp đó, tơi cũng học được rất nhiều điều. Mặt
21


skkn


khác, trong quá trình thực hiện và áp dụng SKKN, tôi đã rút ra được những bài
học quý giá để bổ sung kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm học như
sau:
- Thực hiện đúng theo các văn bản chỉ đạo của Ngành, bám sát chủ đề kế
hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh cụ thể của từng HS
trong trường.
- Có bước chủ động trong công việc, nắm bắt kết quả qua các bước thực
hiện một cách nhanh nhất để đưa vào việc điều chỉnh kế hoạch đúng lúc, đúng
thời điểm.
- Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công tác chủ nhiệm để tăng sự thu
hút từ phía học sinh, để các HS tham gia tích cực vào tiết sinh hoạt lớp.
- Phối hợp nhịp nhàng với giáo viên bộ môn, các đoàn thể trong nhà
trường, tổ chức các hoạt động ngoại khóa để rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh.
3. Khả năng ứng dụng và triển khai.
SKKN “Rèn luyện kỹ năng sống qua tiết sinh hoạt giúp nâng cao chất
lượng học tập và rèn luyện của học sinh lớp 11B2 trường THPT Thạch
Thành4” là mơ hình hoạt động mang tính lâu dài và bền vững, bởi hoạt động
giáo dục giá trị sống rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường hiện
nay là một hoạt động thiết thực nhằm xây dựng nguồn nhân lực phục vụ cho q
trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Với tư cách là GVCN, tôi đã triển khai SKKN tại lớp chủ nhiệm và đã tạo
được bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong toàn thể HS
trong lớp, đã phần nào cùng với nhà trường hình thành nhân cách, đạo đức, lối
sống, cách ứng xử, cách quan tâm, chia sẻ và những kỹ năng cần thiết của Hs
trong học tập, sinh hoạt tại gia đình và cộng đồng.

Qua đó bản thân người thực hiện đề tài này đánh giá khả năng ứng dụng
của nó là rất tốt, có thể áp dụng rộng rãi trong các trường THPT trên phạm vi
tồn tỉnh. Mặt khác, sáng kiến này có thể làm tài liệu để thầy, cô tham khảo
trong công tác chủ nhiệm của mình.
22

skkn


4. Những kiến nghị, đề xuất.
- Đối với cấp quản lý: cần mở các chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên
những phương pháp, kiến thức để thực hiện rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
- Đối với giáo viên bộ mơn: tích hợp dạy kĩ năng sống cho học sinh qua
các môn học như: Ngữ Văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân…
- Đối với nhà trường - BCH Đồn Trường: tạo cho học sinh có những
sân chơi mang tính tập thể như: Văn nghệ, thể thao, các cuộc thi tài năng cấp
trường… cùng các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Qua đó
các HS sẽ rèn luyện được các kĩ năng sống cần thiết cho mình.
- Đối với gia đình học sinh: quan tâm đến các học sinh nhiều hơn, phối
hợp với nhà trường trong việc rèn luyện, nâng cao kĩ năng sống cho các em.

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị.

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Bùi Thị Linh


23

skkn


MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA LỚP CHỦ NHIỆM VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỐNG CỦA LỚP 11B2

Học sinh tham gia thi Âm vang xứ Thanh cấp Tỉnh

Học sinh tham gia cắm hoa, diễn văn nghệ kỉ niệm 26/3
24

skkn


Học sinh tham gia làm báo bảng, tập san Chào mừng ngày Nhà Giáo Việt
Nam 20/11
25

skkn


×