Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

(Luận án tiến sĩ) Hàm ý và phương thức biểu thị hàm ý trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.61 KB, 166 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------------------

NGUYỄN THỊ TỐ NINH

HÀM Ý VÀ PHƢƠNG THỨC
BIỂU THỊ HÀM Ý TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2014


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------------------

NGUYỄN THỊ TỐ NINH

HÀM Ý VÀ PHƢƠNG THỨC
BIỂU THỊ HÀM Ý TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGƠN NGỮ HỌC

Chun ngành: Lý luận ngơn ngữ
Mã số: 62. 22. 01. 01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS.TS. NGUYỄN MINH THUYẾT
2. PGS.TS. PHẠM VĂN TÌNH



Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Tất cả
những vấn đề được trình bày và giải quyết; những kết luận trong luận án
đều chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận án

NGUYỄN THỊ TỐ NINH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
0.1. Lý do chọn đề tài ............................................................................... 1
0.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................... 2
0.2.1. Về khái niệm hàm ý ..................................................................... 2
0.2.2. Về phương thức biểu thị hàm ý .................................................... 6
0.3. Tính thời sự của đề tài ...................................................................... 7
0.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ........................................ 7
0.5. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ................................. 8
0.6. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu .................................... 8
0.6.1. Phương pháp nghiên cứu .............................................................. 8
0.6.2. Nguồn tư liệu .............................................................................. 10
0.7. Bố cục đề tài .................................................................................... 10
CHƢƠNG 1. CÁC KHÁI NIỆM XUẤT PHÁT..................................... 12
1.1. Phát ngôn ......................................................................................... 12
1.2. Cơ cấu nghĩa của phát ngơn .......................................................... 13
1.3. Nghĩa mệnh đề và nghĩa tình thái ................................................. 15

1.3.1. Nghĩa mệnh đề ........................................................................... 15
1.3.2. Nghĩa tình thái ............................................................................ 17
1.4. Nghĩa chủ đề .................................................................................... 18
1.5. Nghĩa tƣờng minh và nghĩa hàm ẩn.............................................. 19
1.5.1. Nghĩa tường minh ...................................................................... 19
1.5.2. Nghĩa hàm ẩn ............................................................................. 20
1.6. Hàm ý ............................................................................................... 22
1.6.1. Thuật ngữ hàm ý......................................................................... 22
1.6.2. Quan niệm về hàm ý................................................................... 24
1.6.3. Quan niệm về hàm ý trong luận án ............................................ 29
1.7. Điều kiện sử dụng hàm ý trong giao tiếp ...................................... 38
1.7.1. Hoàn cảnh giao tiếp .................................................................... 38


1.7.2. Nhân vật giao tiếp ..................................................................... 41
Tiểu kết ................................................................................................... 44
CHƢƠNG 2. CÁC LOẠI HÀM Ý ........................................................... 46
2.1. Vấn đề phân loại hàm ý trong các tài liệu ngữ dụng học............ 46
2.2. Các loại hàm ý đƣợc phân loại theo phƣơng tiện biểu hiện ....... 48
2.2.1. Hàm ý của từ .............................................................................. 48
2.2.2. Hàm ý của tồn phát ngơn .......................................................... 62
2.3. Các loại hàm ý đƣợc phân loại theo số lƣợng hàm ý của phát
ngôn (theo tầng nghĩa) ........................................................................... 70
2.3.1. Hàm ý đơn .................................................................................. 70
2.3.2. Hàm ý phức ................................................................................ 73
2.4. Các loại hàm ý phân loại theo quan hệ với nghĩa tƣờng minh ... 78
2.4.1. Hàm ý tăng tiến .......................................................................... 78
2.4.2. Hàm ý trái ngược ........................................................................ 80
2.5. Các loại hàm ý phân loại theo quan hệ với các nghĩa hàm ẩn
khác ......................................................................................................... 83

2.5.1. Hàm ý kiêm chức ....................................................................... 83
2.5.2. Hàm ý không kiêm chức ............................................................ 85
2.6. Các loại hàm ý phân loại theo mức độ phụ thuộc vào hoàn cảnh
giao tiếp ................................................................................................... 85
2.6.1. Hàm ý quy ước ........................................................................... 85
2.6.2. Hàm ý hội thoại ......................................................................... 90
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG THỨC BIỂU THỊ HÀM Ý TRONG TIẾNG
VIỆT ........................................................................................................... 93
3.1. Khái niệm “phƣơng thức biểu thị hàm ý” .................................... 93
3.2. Điểm lại danh sách các phƣơng thức biểu thị hàm ý .................. 96
3.2.1. Phương thức biểu thị hàm ý khái quát (generalized implication)
.............................................................................................................. 96
3.2.2. Phương thức biểu thị hàm ý hội thoại đặc thù (particular
implicature) .......................................................................................... 99


3.2.3. Nhận xét chung......................................................................... 100
3.3. Thử đề xuất một danh sách các phƣơng thức biểu thị hàm ý .. 107
3.3.1. Sử dụng các phương tiện ngôn ngữ đặc thù ............................. 108
3.3.2. Vi phạm phương châm hội thoại, quy tắc quan yếu ................ 114
3.4. Về hiện tƣợng “lệch pha” trong giao tiếp ................................... 137
3.4.1. Dấu hiệu của sự “lệch pha” trong giao tiếp.............................. 138
3.4.2. Một số nguyên nhân ................................................................. 140
3.4.3. Giải pháp khắc phục ................................................................. 141
Tiểu kết ................................................................................................. 142
KẾT LUẬN .............................................................................................. 145


MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài

Khái niệm hàm ý cùng lý thuyết hàm ngôn hội thoại của H.P. Grice
được đánh giá là một bước tiến quan trọng của ngôn ngữ học, mới ra đời
cách đây non nửa thế kỷ. Tuy nhiên, việc sử dụng hàm ý để chuyển tải
những thơng tin mà vì một số lý do nhất định, người ta khơng tiện hoặc
khơng nên nói thẳng ra là một hiện tượng bình thường trong thực tế, hẳn đã
có ngay từ những cuộc giao tiếp đầu tiên trong xã hội văn minh. Trong các
cơng trình của mình, H.P. Grice nhận xét: trong giao tiếp, nhiều khi chúng
ta “nói điều này nhưng thật ra muốn nói một điều khác”. Đồng tình với ý
kiến này, Hồng Phê – người đầu tiên giới thiệu và vận dụng lý thuyết của
H.P. Grice vào nghiên cứu tiếng Việt, bổ sung: “Hằng ngày sử dụng ngơn
ngữ, lắm khi chúng ta nói một điều này, nhưng lại muốn cho người nghe từ
đó hiểu ra một điều khác, hoặc hiểu thêm một điều khác nữa” [58, 93].
Thậm chí, ơng cho rằng: “Khi một lời nói có hàm ngơn thì ý hàm ngơn
thường là quan trọng, thậm chí, có khi hiển ngơn chỉ là dùng để nói hàm
ngơn, ý hàm ngơn là ý chính” [58, 93]. W.A. Davis (2005) cũng khẳng
định vai trò của việc nghiên cứu loại nghĩa hàm ẩn này trong ngôn ngữ học:
“Hàm ngôn hội thoại đã trở thành một trong những chủ đề chính của ngữ
dụng học.”
Khơng chỉ có tác dụng trong giao tiếp hằng ngày, hàm ý cịn có giá trị
sử dụng rất lớn trong các hoạt động chính trị, ngoại giao và sáng tác văn
học. Bởi vậy, từ khi có những phát hiện của H.P. Grice, đặc biệt là từ sau
khi ông hồn thiện và cơng bố chúng trong tập bài giảng ở Đại học Harvard
(1967), cuốn Logic và hội thoại (1975) và bài báo Ghi chú thêm về logic và
hội thoại (1978), giới nghiên cứu đã tập trung khai thác rất nhiều vấn đề
xung quanh khái niệm hàm ý, các loại hàm ý và phương thức biểu thị hàm
ý. Tuy nhiên, vấn đề phân loại hàm ý chưa đạt được sự thống nhất cao giữa
các nhà nghiên cứu, việc xem xét phương thức biểu thị hàm ý chủ yếu giới
hạn ở việc sử dụng một số biểu thức ngôn ngữ (tạo hàm ý ngôn ngữ) và
một số biện pháp vi phạm phương châm giao tiếp (tạo hàm ý hội thoại).
Đặc biệt, việc nghiên cứu hàm ý trong sáng tác văn học chưa được đầu tư

thỏa đáng nên kết quả chưa có chiều sâu. Phần lớn các nhà văn, nhà nghiên
1


cứu, phê bình văn học mới dừng ở việc khai thác các chi tiết, hình tượng
nghệ thuật từ kinh nghiệm cá nhân. Ngược lại, phần lớn các nhà ngôn ngữ
học tự bằng lịng giới hạn nghiên cứu của mình trong phạm vi ngôn ngữ
học đơn thuần, chưa làm rõ được mối quan hệ giữa những kiến giải của lý
thuyết hàm ngơn hội thoại với lĩnh vực văn học.
Tình hình trên đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề chưa có sự
thống nhất cao, chưa có điều kiện đi sâu để góp phần phát triển nhận thức
chung về hàm ý, phương thức biểu thị hàm ý và khả năng ứng dụng những
kiến giải này vào thực tế. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài
luận án Hàm ý và phương thúc biểu thị hàm ý trong tiếng Việt.
0.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
0.2.1. Về khái niệm hàm ý
Khái niệm “hàm ngôn hội thoại” được Herbert Paul Grice “thai
nghén” từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX rồi hoàn thiện trong phác thảo
thuyết hàm ngôn mà ông đưa vào tập bài giảng William James khi đang
giảng dạy tại Đại học Harvard năm 1967. Ngay từ đầu, các vấn đề về hàm
ngôn trong tập bài giảng William James đã có ảnh hưởng rất lớn nhưng có
lẽ phải một thời gian, sau khi cuốn Logic và hội thoại (1975) và bài báo
Ghi chú thêm về logic và hội thoại (1978) ra đời thì thuyết hàm ngôn hội
thoại của Grice mới thực sự trở thành “một trong những chuyên luận kinh
điển” của ngữ dụng học.
Phần lớn cơng trình Logic và hội thoại của Grice tập trung vào việc
làm rõ sự khác biệt (về mặt trực giác) giữa “cái được diễn tả bằng lời”
trong câu nói và “cái được gợi ý” (hoặc nói bóng gió) trong câu nói. Để chỉ
“cái được gợi ý” này, Grice (1975; 1978) đã sử dụng các thuật ngữ mới là
“hàm ý” (implicate) và “hàm ngôn” (implicature); đồng thời, ông xem phần

được mã hóa ngơn ngữ của phát ngơn là “cái được nói đến”. Ơng cho rằng,
tổng số “cái được nói đến trong câu” và “cái được hàm ý” trong cùng một
câu nói đó được gọi là “các ý nghĩa biểu hiện của một phát ngôn” [96].
Phát hiện của Grice đã mở ra một trào lưu mới trong nghiên cứu ngôn
ngữ. W.A. Davis (2005) khẳng định: “Hàm ngôn hội thoại đã trở thành một
trong những chủ đề chính của ngữ dụng học.”
Cho đến nay, có thể nói các cơng trình nghiên cứu ngữ dụng học đã
đạt được quan niệm thống nhất về hàm ý như sau:
2


(1) Hàm ý là phần nghĩa hàm ẩn (nghĩa hàm ngôn) không được thể
hiện trên bề mặt câu chữ của phát ngôn nhưng được suy ra từ nghĩa tường
minh (nghĩa hiển ngơn) và hồn cảnh giao tiếp.
Quan niệm này khơng chỉ được thể hiện trong các tác phẩm của Grice
mà còn được thể hiện rõ trong những tài liệu vận dụng lý thuyết của ơng
như các cơng trình của O. Ducrot (1972), G. Yule (1997), Hoàng Phê
(1989), Nguyễn Đức Dân (1996), Hồ Lê (1996), Cao Xuân Hạo (1998),
Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đỗ Hữu Châu (2005),… Chẳng hạn, O. Ducrot
quan niệm: “Thực chất của hàm ngơn là nói mà coi như khơng nói, nghĩa là
nói một cái gì đó mà khơng vì thế nhận trách nhiệm là đã có nói, có nghĩa
là vừa có hiệu lực nói năng vừa có sự vô can trong im lặng” (Dẫn theo [58;
98 – 100]); Hồ Lê (1996) viết: “Hàm ý là tất cả những ý nghĩa, tình thái
hàm ẩn mà người phát ngơn ký thác vào phát ngơn nhưng nằm ngồi ý
nghĩa hiển hiện của phát ngơn, trong đó có việc biểu thị những sở chỉ khác
với những sở chỉ mà hiển nghĩa của phát ngơn biểu thị” [44; 335]; Nguyễn
Thiện Giáp (2000) thì giải thích: “Hàm ý chính là những gì người nghe
phải tự suy ra qua phát ngôn, để hiểu đúng và đầy đủ ý nghĩa của phát ngơn
đó” [19; 136].
(2) Hàm ý là phần có giá trị thơng tin thuộc nghĩa hàm ẩn, đối lập với

tiền giả định (TGĐ) là phần khơng có giá trị thơng tin.
H.P.Grice (1975) phân biệt nghĩa hàm ẩn tự nhiên (natural meaning)
với nghĩa hàm ẩn không tự nhiên (non-natural meaning). O. Ducrot thống
nhất với quan niệm của Grice nhưng thể hiện sự phân biệt đó bằng các
thuật ngữ “hàm ngơn” và “tiền giả định” (TGĐ). Ơng coi TGĐ là một hình
thức hàm ngơn quan trọng, là hàm ngôn nằm trực tiếp trong bản thân
“nghĩa từ ngữ” của lời (Dẫn theo [58; 98]).
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều có chung quan niệm: TGĐ là
loại nghĩa hàm ẩn nhưng là nghĩa hàm ẩn khơng có giá trị thông báo [10];
[12]; [26]; [58]. Theo các tác giả, sự đối lập giữa “cái đã biết” và “cái mới”
theo phân đoạn thực tại câu sẽ cho phép vạch ra một sự đối lập khác, rộng
hơn, trong cấu trúc ngữ nghĩa của lời; đó là sự đối lập giữa phần khơng có
giá trị thơng báo (gồm có TGĐ và cái đã biết trong hiển ngơn) và phần có
giá trị thơng báo (gồm cái mới trong hiển ngôn cùng với hàm ngơn). Vì
vậy, nếu coi TGĐ là hàm ngơn (tức là phần có giá trị thơng báo) sẽ “khơng
3


thể thấy được mối quan hệ có tính quy luật hết sức quan trọng giữa TGĐ,
hiển ngôn và hàm ngôn, mối quan hệ chi phối nội dung của hàm ngôn” [58;
99].
Mặc dù đã đạt được sự thống nhất cơ bản như trên, giữa các nhà
nghiên cứu vẫn còn những khác biệt tương đối lớn và có thể coi đây là
những điểm chưa rõ trong lý thuyết hàm ngôn hội thoại, cần được tiếp tục
nghiên cứu thêm.
Sự khác nhau trước hết là cách dùng thuật ngữ. Khi nghiên cứu thuyết
hàm ngôn hội thoại của Grice cũng như vận dụng nó vào việc tìm hiểu một
vấn đề ngơn ngữ cụ thể, hầu hết các nhà nghiên cứu đều sử dụng thống nhất
thuật ngữ “hàm ý” (implicate) với tư cách động từ và thuật ngữ “hàm
ngơn” (implicature) với tư cách danh từ. Có thể thấy rõ điều này qua một

số phân tích, nhận xét, đánh giá và kết quả nghiên cứu của các nhà ngữ
dụng học như: Harnish (1976), Leech (1983), J. Lyons(1995) W.A. Davis
(1998), (2005), Kent Bach (2005),… Chẳng hạn, trong một nghiên cứu về
hàm ngôn, Harnish (1976) cho rằng câu Bill và Tom di chuyển cái đàn
“hàm ý” (implicates) một cách chung chung rằng “Bill và Tom chuyển cái
đàn cùng với nhau”. Tương tự, Leech (1983: 91) “lưu ý rằng John làm đứt
tay ai đó hàm ý “John khơng tự cắt vào tay mình” […] Nhưng một lời
khẳng định tương tự như John làm gãy tay thì khơng thể hàm ý sai (fails to
implicate) là “John khơng làm gãy tay mình”. Ngược lại, nó hàm ý rằng
“John đã làm gãy tay mình” (Dẫn theo[96]).
Ngồi các thuật ngữ trên, nhiều nhà nghiên cứu còn dùng động từ to
imply thay cho implicate (hàm ý). Chẳng hạn, Jenny Thomas (1995), đã
chứng minh phần nào “sự năng động” giữa hai động từ này: “Học thuyết
của Grice được xây dựng nhằm giải thích q trình mà bằng cách nào đó,
người nghe đi từ lớp ý 1 đến lớp ý 2, từ điều được nói tới điều được hàm ý
(what is implied)” [144; 60]; hay: “Có hai điều mà chúng ta cần ghi nhớ.
Thứ nhất là, người nói có thể hàm ý (imply) điều mà người ấy biết là khơng
đúng và người nghe có thể hiểu chính xác điều người nói hàm ý (what a
speaker has implied) mà khơng nhất thiết tin vào nó. Thứ hai là, thuyết của
Grice cố gắng lý giải quá trình người ta đi từ lớp ý được diễn đạt tới lớp ý
được hàm ý (implied). Nhiều người hiểu lầm cơng trình của Grice do thực
tế là người ta cứ cho rằng ông đang lý giải cách thức hình thành suy luận,
4


hơn là việc hàm ngôn được tạo ra và hiểu như thế nào” [144; 61). Khi đặt
vấn đề phân biệt các khái niệm “muốn nói”, “nói” và “hàm ý”, các tác giả
Adrian Akmajian, Richard A. Demers, Ann K. Farmer và Robert M.
Harnish (1997) đã viết: “Như chúng ta đã thấy, người nói có thể muốn
truyền đạt nhiều hơn cái mà họ nói. Một loại giao tiếp đặc biệt và thú vị đã

được khảo sát bởi Grice dưới tên gọi hàm ngôn hội thoại (conversational
implicature), gọi như thế là do cái được ám chỉ (what is implied) hay như
Grice thích nói là được hàm ý (implicated)) đã được hàm ý nhờ vào sự việc
người nói và người nghe đang hợp tác đóng góp vào cuộc đàm thoại...” [93;
381).
Trong một số cơng trình, kể cả cơng trình của Grice (1975), “hàm ý”
cịn được dùng như một danh từ, với hai biến thể “implicating” và
“implication”, trong đó “implication” được sử dụng nhiều hơn cả.
Ở Việt Nam, trong các cơng trình ngữ dụng học, có tình trạng cùng
một hiện tượng được gọi bằng những thuật ngữ khác nhau và ngược lại,
cùng một thuật ngữ lại được hiểu theo những nội dung khác nhau, phản ảnh
quan niệm rộng, hẹp khác nhau ở mỗi nhà nghiên cứu. Chẳng hạn, thuật
ngữ “hàm ý” được dịch và hiểu tương đương với thuật ngữ “hàm ngôn”
trong ngôn ngữ học nước ngoài nhưng trong nghiên cứu, mỗi tác giả lại đặt
cho loại nghĩa hàm ẩn này một tên gọi khác nhau như: “hàm ngôn”, “ẩn ý”,
“ngụ ý”, “dụng ý”, “hiểu ngầm”, “ám chỉ”,… Có thể thấy rõ điều này qua
các cơng trình của các tác giả tiên phong trong lĩnh vực ngữ dụng học ở
Việt Nam như Nguyễn Đức Dân (1987), Hoàng Phê (1989), Đỗ Hữu Châu
(2003),…
Cùng với những khác biệt trong sử dụng thuật ngữ, các nhà nghiên
cứu ngữ dụng học còn thể hiện quan niệm khác nhau về phạm vi của hàm
ý. Phần đơng các tác giả có xu hướng giới hạn hàm ý ở nghĩa miêu tả
(nghĩa mệnh đề) [10]; [12]; [19]; [26]; [58], chỉ có một số ít tác giả cho
rằng nghĩa tình thái cũng có thể là hàm ý ([31]; [44]).
H.P.Grice và nhiều tác giả nước ngồi theo học thuyết của ơng như
Horn (1989), Levinson (1983; 1987b; 2000), George Yule (1997),… hay
một số tác giả theo lý thuyết về tính quan yếu như D. Sperber& D. Wilson
(1995), Carston (2002) và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam như Hoàng Phê,
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân,… đều thống nhất dựa vào mức độ phụ
5



thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp để phân biệt hai loại hàm ý là hàm ý quy ước
và hàm ý hội thoại. Tuy nhiên, theo cách phân loại này, ranh giới giữa
TGĐ, dẫn ý với hàm ý quy ước cũng vẫn còn là vấn đề gây tranh luận trong
các thuyết giao tiếp Hậu Grice và Tân Grice [96]; [130]; [133],… Bên cạnh
đó, sự phân biệt hàm ý quy ước với hàm ý hội thoại tuy rất quan trọng
nhưng vẫn chưa phản ánh được đầy đủ các khía cạnh rất phong phú của
hiện tượng hàm ý trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ của con người. Một
tác giả Việt Nam là Hồ Lê đã đề xuất phân loại hàm ý theo khu vực tình
thái mà người nói ký gửi vào phát ngôn [44; 139 – 143], nhưng theo chúng
tôi, ranh giới của các loại hàm ý trong cách phân loại này rất mờ nhạt,
khiến người học khó nhận diện đối tượng.
0.2.2. Về phương thức biểu thị hàm ý
Theo nhiều cơng trình nghiên cứu ngữ dụng học, hàm ý được biểu thị
bằng hai phương thức sau:
a) Vi phạm quy tắc ngữ dụng hay quy tắc hội thoại
Hầu hết, các nhà nghiên cứu đều dựa vào các quy tắc ngữ dụng (quy
tắc chiếu vật, chỉ xuất, quy tắc chi phối các hành vi ngôn ngữ…) và các quy
tắc hội thoại – đặc biệt là nguyên tắc cộng tác (cooperative principle) của
H.P.Grice và lý thuyết quan yếu (relevance theory) của D. Sperber và D.
Wilson – làm cơ sở để khái quát phương thức biểu thị hàm ý. Các tác giả
cho rằng: sự vi phạm các nguyên tắc giao tiếp của H.P. Grice và lý thuyết
quan yếu của D. Sperber và D. Wilson là một phương thức hữu hiệu nhất
để tạo hàm ý hội thoại. Chẳng hạn, Đỗ Hữu Châu (2005) coi “hàm ý là các
hành vi ngôn ngữ không được điều khiển đúng quy tắc giao tiếp”; Cao
Xuân Hạo (1998) coi hàm ý là “sản phẩm” của “sự cố tình vi phạm các
nguyên tắc hội thoại”.
b) Sử dụng một số phương tiện từ ngữ và cấu trúc phát ngôn
Việc sử dụng một số phương tiện ngơn ngữ mang tính chất đặc thù

(như: liên từ, phó từ chỉ thời, thể, các động từ tình thái, các cấu trúc phát
ngôn đặc thù…) cũng được các tác giả coi là phương thức biểu thị hàm ý
(hàm ý quy ước). Chẳng hạn, dùng liên từ “và” để nối hai sự tình (mệnh đề)
trong phát ngơn sẽ mang lại cho phát ngôn hàm ý về quan hệ nhân - quả;
dùng phó từ “đi” trong một số trường hợp sẽ biểu thị hàm ý: sự thay đổi
trạng thái của sự vật nằm ngồi mong muốn của người nói [31; 267-272];
6


dùng một số động từ tình thái trong những điều kiện, hồn cảnh nhất định
có thể tạo cho câu nói hàm ý “các hành động hay q trình ấy có diễn ra
thật” hay “hành động hay q trình ấy khơng diễn ra” [26; 521 – 533] hay
“câu có chủ đề tương phản, nó có thể mang hàm ý phận cực đảo (reversed
polarity implicature)” (thuật ngữ của Chungmin Lee)” [31; 201].
Hai phương thức biểu thị hàm ý nói trên được khẳng định trong hầu
hết các cơng trình nghiên cứu về hàm ý. Tuy vậy, các tác giả mới dừng ở sự
trình bày khái quát với một số ví dụ đơn giản. Chắc chắn là nhận thức này
sẽ phải được phát triển với những phân tích sâu hơn, cụ thể hơn.
0.3. Tính thời sự của đề tài

Từ cuối thế kỷ XX, ngôn ngữ học đã chuyển hẳn sang nghiên cứu về
hoạt động của các đơn vị ngôn ngữ trong giao tiếp mà một trong những
trọng tâm là ngữ nghĩa ngữ dụng của các đơn vị này, vì nói như Whorf thì
“thực chất của ngơn ngữ học chính là tìm hiểu nghĩa”([Dẫn theo[58, 94]).
Đến bây giờ, hầu như khơng có cơng trình nào về nghĩa chỉ giới hạn phạm
vi nghiên cứu ở hệ thống tĩnh về nghĩa của từ như trước mà không bàn về
nghĩa của từ trong hoạt động giao tiếp, nghĩa của câu/phát ngôn và những
vấn đề ngữ dụng học khác như diễn ngôn, hành vi ngôn ngữ, phương châm
giao tiếp …
Nghiên cứu về hàm ý và các phương thức biểu thị hàm ý là đề tài nằm

trong xu hướng trên. Thực hiện đề tài này, người nghiên cứu có điều kiện
tìm hiểu mối quan hệ giữa hàm ý với các khái niệm khác về nghĩa của
câu/phát ngôn vốn được xác định trên những bình diện phân tích khác như
nghĩa mệnh đề/nghĩa tình thái, chủ đề/thuật đề,… Điều này nói lên tính thời
sự của đề tài.
0.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
0.4.1. Về phương diện lý luận, đề tài là cơ hội để làm sáng tỏ thêm
những đặc trưng cơ bản của hàm ý trên cả hai phương diện khái niệm và
phương thức biểu thị; góp phần vào việc nghiên cứu quy tắc chung của giao
tiếp – một trong những vấn đề mà ngữ dụng học đặc biệt quan tâm.
0.4.2. Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể
được sử dụng để bổ sung cho giáo trình ở bậc đại học, sách giáo khoa ở
trường phổ thơng, góp phần hướng dẫn người nói, người viết nâng cao chất
lượng sử dụng ngơn ngữ trong giao tiếp hằng ngày và giúp người đọc có
7


phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học một cách chắc chắn hơn, khoa
học hơn. Kết quả của đề tài cũng có thể là gợi ý cho cơng việc của những
người sáng tác.
0.5. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là hàm ý và phương thức biểu thị
hàm ý trong tiếng Việt. Phạm vi nghiên cứu là các hình thức diễn ngôn
khác nhau, từ những cuộc thoại (đối thoại, đơn thoại) đến văn bản, bao gồm
các văn bản báo chí và nghệ thuật. Vì vậy, đơn vị mà chúng tơi dựa vào đó
tìm hiểu đối tượng nghiên cứu khơng chỉ là đoạn thoại trực tiếp có chứa từ
hoặc phát ngơn thuộc kiểu được xét – phát ngơn có hàm ý, mà còn là các
chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:
- Hệ thống hóa và phát triển các vấn đề lý luận hữu quan về phát ngôn,

cơ cấu nghĩa của phát ngôn, khái niệm hàm ý, ranh giới và mối quan hệ của
hàm ý với các loại nghĩa khác của phát ngôn trong hoạt động giao tiếp trên
cơ sở tư liệu tiếng Việt và những kết quả nghiên cứu mới của giới nghiên
cứu.
- Phân loại hàm ý từ nhiều bình diện khác nhau.
- Hệ thống hóa và bổ sung các phương thức tạo hàm ý trực tiếp, hàm ý
gián tiếp trong tiếng Việt.
0.6. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
0.6.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng trong luận án này
là phương pháp phân tích ngữ cảnh.
Theo nhận thức chung, ngữ cảnh (hoàn cảnh giao tiếp) bao gồm văn
cảnh xuất hiện phát ngôn được xem xét (tức là những phát ngôn đứng trước
và đứng sau phát ngôn đó), những tri thức nền về ngơn ngữ, văn hóa và
những mảng hiện thực khách quan ngồi ngơn ngữ tạo điều kiện cho việc
tiếp nhận phát ngơn.
Bàn về vai trị của ngữ cảnh trong việc tạo lập và tiếp nhận nghĩa của
phát ngôn, M.A.K. Halliday cho rằng: „„Sự lựa chọn hình thức ngơn ngữ bị
chi phối bởi mơi trường văn hóa […]; nghĩa của từ và nghĩa của câu bị quy
định bởi ngôn cảnh.” (Dẫn theo [20, 45]). J.R. Firth viết: „„Tất cả các lời
nói đều bị hạn chế bởi phong tục xã hội, truyền thống văn hóa, giá trị đạo
8


đức‟‟ (Dẫn theo [20, 45]). Cịn Hymes thì khẳng định: ngữ cảnh đóng vai
trị quan trọng trong việc „„giới hạn cách hiểu có thể có được‟‟ và „„hỗ trợ
cho cách hiểu theo dự định‟‟ (Dẫn theo [23, 67]).
Bởi vậy, trong luận án này, để xác định hàm ý mà người phát ngôn
muốn gửi đến người nghe (người đọc), các phát ngơn đều được đặt trong
ngữ cảnh mà nó xuất hiện. Ví dụ, để hiểu người nói có hàm ý gì khi dẫn

câu thơ Trẻ em như búp trên cành, cần xem câu ấy xuất hiện trong hoàn
cảnh nào, với những từ ngữ kèm theo nó như thế nào. So sánh:
(1) (Thấy bạn đang đánh con, A nói:)
- Này ơng ơi, “trẻ em như búp trên cành” đấy!
(2) (Nghe B tâm sự về sự “đầu tư” cho con cái trong năm học mới:
Chẳng biết quan điểm của ông thế nào chứ với tôi, riêng việc đầu tư cho
học hành của con cái là tôi không tiếc, A đáp:)
- Ừ, “trẻ em như búp trên cành” mà!
(3) (Nghe B kêu ca, phàn nàn về sự tốn kém tiền nong khi con bắt đầu
vào năm học mới, A nói:)
- Trẻ em như búp trên cành đấy!
Ở (1), phát ngôn Trẻ em như búp trên cành có hàm ý nhắc nhở, phê bình
người bạn về cách giáo dục con cái; ở (2), phát ngôn này mang hàm ý đồng
tình với quan điểm của B về việc đầu tư cho chuyện học hành của con cái;
cịn ở (3), phát ngơn của A lại là sự chia sẻ và động viên đối với B.
Trong nhiều trường hợp, để hiểu đúng hàm ý của phát ngôn, ta khơng
chỉ dựa vào hồn cảnh cụ thể của cuộc giao tiếp mà còn phải dựa vào một
bối cảnh rộng lớn hơn. Ví dụ, để hiểu hàm ý trong lời nhân vật Mai nói với
người u cơ là Lộc ở trích đoạn dưới đây từ tiểu thuyết Nửa chừng xuân
của Khái Hưng, cần phải đặt phát ngôn của cô vào diễn biến câu chuyện
giữa hai người và bối cảnh xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám
1945 :
(4) Lộc: - Em cứ đùa! Anh xin em để anh nói chuyện việc nhà với em.
Mai: - Chuyện việc nhà cậu ư? [157, 151]
Chuyện tình giữa hai người tóm tắt như sau: Lộc là con quan Án sát,
yêu Mai – một cô gái nhà nghèo. Khi gặp sự phản đối của mẹ – bà Án, Lộc
hoang mang trước chữ “hiếu” và chữ “tình”. Là một người mang tư tưởng
Âu Tây, Lộc hy vọng sẽ thuyết phục được mẹ mình. Anh nhờ người đóng
9



giả vai bà Án để đến hỏi Mai làm vợ. Một thời gian sau, kế hoạch của Lộc
bị Huy – em trai Mai – phát hiện. Mai sống trong đau khổ, dằn vặt vì bị lừa
dối. Nhưng rồi tình cảm chân thành của Lộc dành cho cơ, tình u và sự
hàm ơn trong cơ đã giúp cơ có nghị lực để sống, để “trả ơn” Lộc. Về phần
Lộc, càng ngày anh càng ân hận, áy náy về việc làm của mình. Một hơm,
anh quyết định tổ chức đi chơi để nói hết sự thật với Mai. Dường như đốn
được ý định của Lộc và cũng muốn quên đi nỗi đau, Mai cố gắng cười thật
nhiều và nói chuyện thật nhiều. Nhưng rồi khi nghe câu nói của Lộc, nỗi
đau vì bị xúc phạm ùa về khiến Mai khơng kìm nổi lịng mình. Việc cơ
chuyển cách xưng hơ quen thuộc em - anh sang cậu trong hoàn cảnh này đã
tạo cho phát ngôn hàm ý xa cách và báo hiệu sự rạn nứt trong tình cảm của
hai người. Bởi nghĩa gốc của đại từ nhân xưng cậu trong hoàn cảnh cụ thể
này (chỉ người con trai những gia đình tầng lớp trên với ý coi trọng) đã hàm
ý khoảng cách giữa Mai và Lộc bị kéo ra xa (trên cả trục quan hệ và trục vị
thế). Có lẽ ý thức được điều này mà sau câu nói của Mai, vì là người có lỗi
nên Lộc chỉ biết “ứa nước mắt khơng trả lời” cịn Mai lại hối hận xin lỗi Lộc
vì đã “lỡ lời”.
Trong q trình phân tích ngữ cảnh, ở những chỗ thích hợp, chúng tơi sẽ
sử dụng phối hợp các phương pháp thống kê, phân loại, so sánh.
0.6.2. Nguồn tư liệu
Do gặp khó khăn trong việc tìm tư liệu bằng biện pháp ghi âm, ghi hình
nên ngồi một số tư liệu có được do quan sát thực tế trong giao tiếp hằng
ngày, chúng tôi chủ yếu sử dụng những đoạn thoại mơ phỏng đối thoại trực
tiếp ngồi đời thực, một số chi tiết của tác phẩm báo chí, văn chương. Tác
phẩm văn chương được chọn là tác phẩm của một số tác giả tiêu biểu, tác
phẩm được dạy trong nhà trường, tác phẩm được dư luận đánh giá là có văn
phong diễn đạt mới lạ. Trong một số trường hợp cần thiết (để so sánh, đối
chiếu hoặc minh chứng cho quan điểm của tác giả), chúng tơi có mượn lại
một số ví dụ đã dẫn trong các tài liệu nghiên cứu về ngữ dụng học trong,

ngoài nước. Tổng số 185/2.750 tư liệu được chọn để phân tích, miêu tả
trong luận án được lấy từ những nguồn trên.
0.7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận án gồm 3 chương:

10


Chƣơng 1 hệ thống hóa và phát triển một số khái niệm xuất phát làm
cơ sở để triển khai đề tài.
Chƣơng 2 tập trung miêu tả các loại hàm ý, làm chỗ dựa để phân tích
phương pháp biểu thị hàm ý trong chương tiếp theo.
Ở Chƣơng 3, trên cơ sở điểm lại danh sách các phương thức biểu thị đã
được tổng kết trong các cơng trình ngữ dụng học, chúng tôi mạnh dạn đề
xuất và miêu tả một số phương thức biểu thị hàm ý thường dùng trong
tiếng Việt, gắn với văn hóa Việt.

11


CHƢƠNG 1
CÁC KHÁI NIỆM XUẤT PHÁT
1.1. Phát ngôn
Theo John Lyons, thuật ngữ phát ngơn (tiếng Anh: utterance; tiếng
Pháp: enonce) có thể biểu thị một quá trình hoặc thành phẩm, tức là được
dùng để chỉ hoạt động phát ra câu nói hoặc chính sản phẩm của hoạt động
ấy. Nhưng trong trường hợp bình thường, có thể hiểu phát ngơn “là cái mà
một số nhà triết học ngôn ngữ gọi là thành phẩm (inscription), nghĩa là
chuỗi các ký hiệu được ghi lại trong một loại phương tiện vật chất nào đó.
Ví dụ, một phát ngơn nói thường được ghi lại […] bằng phương tiện âm

thanh; một phát ngơn viết thì được ghi lại bởi một phương tiện thích hợp
nào đó mà thị giác có thể xác định được […]. Phát ngơn có thể được coi
như là tín hiệu (signals) được truyền từ người nói sang người nghe – hay
khái quát hơn, là từ người phát sang người nhận – theo một kênh thích hợp
nào đó.” [40, 53].
Trong hệ thống của John Lyons, phát ngôn là một thành phẩm của hoạt
động giao tiếp tương đương với câu nhưng ở bình diện lời nói. Đây cũng là
quan điểm gặp ở nhiều nhà nghiên cứu khác. Chẳng hạn, các ý kiến của các
tác giả I. I. Kovtunova: “Câu xét về mặt giao tiếp được gọi là phát ngơn”
(Dẫn theo [5, 4 - 5]); Hồng Trọng Phiến: “Câu là cái trừu tượng cịn phát
ngơn là cái cụ thể, câu là bất biến thể, phát ngôn là biến thể, các phát ngơn
làm chức năng hiện thực hóa các mơ hình cú pháp của câu, đồng thời là
phương thức tồn tại của mơ hình đó.” [60, 13]; Đỗ Hữu Châu: “Khái niệm
phát ngôn không phủ định khái niệm câu. Nói chung, phát ngơn được xây
dựng trên câu. Khơng có câu thì khơng có phát ngơn. Tuy nhiên, câu khơng
trùng với phát ngơn. Một câu có thể ứng với một số phát ngôn” [8, 12];
Diệp Quang Ban: “Phát ngôn được hiểu là một hành động giao tiếp, một
đơn vị thơng báo mà người nghe có thể tiếp nhận được trong điều kiện giao
tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Câu là cái tương đối ổn định, nằm trong các
phát ngôn cụ thể và chỉ được rút ra từ các phát ngơn cụ thể qua việc nghiên
cứu chúng. Chính cái tính chất ổn định tương đối giúp ta giữ phát ngôn ở
thế đứng yên để mà nghiên cứu, để mà phân tích và phát hiện ra cái gọi là
câu.” [2, 11 - 12]; Nguyễn Minh Thuyết: “Câu là đơn vị ngôn ngữ, tức là
12


đơn vị trừu tượng chỉ có thể nhận thức được thơng qua các biến thể trong
lời nói. Các biến thể này gọi là phát ngơn. Một mơ hình trừu tượng của câu
ở bậc ngơn ngữ có thể ứng với một vài phát ngôn. Các phát ngôn này khác
nhau về thành phần từ vựng cụ thể, sự lấp đầy hay bỏ trống các vị trí trong

mơ hình, trật tự các thành tố” [22, 266 - 267].
Ngược lại, cũng có những tác giả như Skalicka, Harris,… tuy thống nhất
xếp phát ngôn vào cấp độ lời nói nhưng cho rằng kích thước của nó khơng
xác định: có thể tương đương với một từ hay cả một cuốn tiểu thuyết (Dẫn
theo [2, 14]). Đây cũng là quan điểm của tập thể tác giả cuốn Từ điển giải
thích thuật ngữ ngơn ngữ học. Theo các tác giả này, phát ngơn là “đơn vị
thơng báo có tính hồn chỉnh về ý và có thể được người nghe tiếp nhận trong
những điều kiện nhất định của giao tiếp ngôn ngữ. Một phát ngôn là một ngữ
đoạn, tương ứng với một xung động nào đấy. Do đó, khối lượng của một
phát ngơn có thể rất khác nhau. Đơi khi phát ngơn chỉ gồm một từ nhưng nó
cũng có thể là một cuốn tiểu thuyết, hay một luận cảo khoa học. Tính trọn
vẹn của phát ngơn đạt được khơng chỉ nhờ các ký hiệu ngơn ngữ mà cịn nhờ
sự kết hợp các ký hiệu ngôn ngữ với những ký hiệu khác có tính phi ngơn
ngữ” [92, 199].
Cuối cùng, có những nhà nghiên cứu quan niệm phát ngôn thuộc cấp độ
ngơn ngữ, có kích thước lớn hơn câu. Chẳng hạn, theo nhà ngôn ngữ học
Tiệp Khắc I. Danex, chúng ta không nên đồng nhất khái niệm phát ngôn
với các hành động lời nói cũng như với câu như là một cấu trúc cú pháp.
Phát ngôn và các sơ đồ của phát ngơn đều thuộc vào hình thức có tính hệ
thống của ngôn ngữ. Phát ngôn được xếp vào một cấp độ đặc biệt của hệ
thống ngôn ngữ đứng trên cấp độ câu (Dẫn theo [5, 5]).
Có thể nhận thấy khái niệm phát ngôn theo cách hiểu thứ 2 và thứ 3 đã
được ngôn ngữ học ngày nay biểu thị bằng một thuật ngữ khác là diễn
ngôn. Bởi vậy, trong công trình này, chúng tơi quan niệm phát ngơn là biến
thể của câu trong hoạt động giao tiếp, tức là một đơn vị thuộc cấp độ lời
nói, có kích thước bằng câu.
1.2. Cơ cấu nghĩa của phát ngôn
Theo Ch. Bally, nghĩa phát ngôn gồm hai thành phần cơ bản: phần ngôn
liệu (dictum) và phần tình thái (modus). Ngơn liệu là thành phần biểu thị
nội dung sự tình ở dạng tiềm năng, cịn tình thái là thành phần thể hiện

13


những nhân tố như ý chí, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với điều
được nói ra (xét trong quan hệ với thực tế, với người đối thoại và hoàn
cảnh giao tiếp). Tương tự, Fillmore quan niệm cơ cấu nghĩa của phát ngôn
bao gồm hai thành phần: “thành phần mệnh đề (được hiểu như tập hợp
những quan hệ có tính phi thời [tenseless] giữa các động từ và danh từ),
phân biệt với thành phần tình thái gồm các loại ý nghĩa có liên quan đến
tồn bộ câu [the sentence-a-whole] như phủ định, thì, thức và thể.” (Dẫn
theo [31, 88]).
Một số tác giả khác như F. R. Palmer dựa theo lý thuyết hành động lời
nói (theory of speech acts) phân tích cơ cấu nghĩa của phát ngơn thành
hành động tại lời (illocutionary acts) và hành động tạo lời (locutionary
acts). Cịn Hare quan niệm nghĩa của phát ngơn gồm 3 thành phần:
phrastic, tropic và neustic. Tuy nhiên, như chính Palmer giải thích, sự đối
lập giữa hành động tại lời với hành động tạo lời rất gần gũi với đối lập giữa
hai thành phần nội dung mệnh đề và tình thái của Ch. Bally: “Trong hành
động tại lời, chúng ta nói về một điều gì đó, cịn trong hành động tạo lời,
chúng ta làm một cái gì đó như trả lời câu hỏi, thông báo một phán quyết,
khuyến cáo hoặc hứa hẹn.” (Dẫn theo [31, 88]). Về các thuật ngữ của Hare
thì phrastic tương đương với nội dung mệnh đề hay nội dung sự tình, ngơn
liệu… theo cách gọi của tác giả khác; cịn tropic “trong khá nhiều ngơn ngữ
được ngữ pháp hóa (grammaticalization) ở cấp độ thức”, và neustic “thể
hiện sự cam kết, bảo đảm của người nói liên quan đến tính thực hữu, sự
mong muốn,…của nội dung mệnh đề được truyền đạt”, đúng như nhận xét
của J. Lyons (Dẫn theo [31, 89]).
Bên cạnh sự phân biệt nội dung mệnh đề (nghĩa mệnh đề) với tình thái
(nghĩa tình thái) hay hành động tại lời với hành động tạo lời, phrastic với
tropic và neustic, ngữ dụng học còn phát hiện nhiều cặp đối lập khác về

nghĩa, như: đối lập giữa nghĩa chủ đề với nghĩa thuật đề, giữa nghĩa tường
minh với nghĩa hàm ẩn. Trong cơng trình này, chúng tơi sẽ sử dụng cả ba
cặp đối lập với quan niệm đó là kết quả của những bình diện phân tích khác
nhau đối với nghĩa của phát ngôn, cụ thể là:
- Phân biệt nghĩa mệnh đề với nghĩa tình thái là phân biệt trên cơ sở đối
chiếu nội dung các bộ phận phát ngôn với hiện thực.

14



×