Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Hcmute tư tưởng hồ chí minh về dân chủ và việc thực hiện dân chủ cơ sở trong sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật tp hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.48 MB, 46 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ VIỆC
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG SINH VIÊN
TRUỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
S

K

C

0

0

3

9

5

9

MÃ SỐ: T2013-170

S KC 0 0 5 4 2 7


Tp. Hồ Chí Minh, 2013

Luan van


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ VIỆC THỰC HIỆN
DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM

Mã số: T2013-170

Chủ nhiệm đề tài: TS Thái Ngọc Tăng

TP. HCM, 11/2013

Luan van


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐƠN VỊ: KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ VIỆC THỰC HIỆN
DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM

Mã số: T2013-170

Chủ nhiệm đề tài: TS Thái Ngọc Tăng

TP. HCM, 11/2013

Luan van


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chƣơng I: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1 Cơ sở lý luận .................................................................................................... 9
1.1.1 Cở sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ ........................... … 9
1.1.2 Khái niệm dân chủ ................................................................................... 13
1.1.3 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ ........................................... 13
1.2 Tư tưởng dân chủ trong các thời kỳ lịch sử .................................................. 13
1.3 Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về dân chủ .................................. 17
Chƣơng 2: PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG SINH VIÊN
ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về dận chủ trong sinh viên trường đại học
Sư Phạm Kỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh ....................................................... 27

2.1.1 Chủ trương của Đảng ủy trường, Ban giám hiệu, các tổ chức Đoàn thể .27
2.1.1.1 Đối với cấp ủy ........................................................................................ 27
2.1.1.2 Đối với ban giám hiệu nhà trường ......................................................... 28
2.1.1.3 Đối với các tổ chức đoàn thể: Đoàn thanh niên, hội sinh viên .............. 29
2.1.2 Các hoạt động của trường nhằm phát huy dân chủ trong sinh viên đại học Sư
phạm Kỹ thuật TP. HCM .................................................................................... 29
2.2 Thực trạng sinh viện đại học sư phạm kỹ thuật thực hiện dân chủ hiện nay. 34
KẾT LUẬN TỪ THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ ............................................ 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Luan van


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
- Dân chủ là một giá trị mang tính tồn cầu, chính vì thế mà hầu hết các
quốc gia đều có từ “dân chủ” hay “cộng hòa” trong quốc hiệu. Tuy nhiên,
cách thức thực hành mỗi nơi mỗi khác, tuỳ theo dân trí, văn hóa và thể chế
chính trị của mỗi nước. Nhưng dù khác nhau thế nào cũng tuân theo
nguyên tắc căn bản là phải có sự tham gia của dân chúng và dân chúng phải
là người thụ hưởng thành quả từ sự tham gia của mình.
- Trong nếp nghĩ của người Việt, hai cách diễn đạt sau đây về dân chủ
thường được đa số đồng tình: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do... Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến, góp phần
tìm ra chân lý”.Dân chủ là “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”.
Nhiều người đồng tình ủng hộ cụm từ “dân thụ hưởng thành quả”. Như
vậy, theo họ, dân chủ nghĩa là mọi việc đều được “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng thành quả”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về nhà nước của dân, do dân, vì
dân có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc xây

dựng và hoàn thiện nền dân chủ, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học tập
và quán triệt tư tưởng này để xây dựng nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của
giai đoạn cách mạng mới là hết sức cần thiết.
- Hiện nay, tồn Đảng, tồn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam để quân và dân xích lại gần nhau,
trở thành một khối đại đoàn kết vững mạnh. Nhà nước đó được xây dựng
trên nền tảng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những điều
kiện thực tế hiện nay của thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, thời kì mở cửa, hội nhập kinh tế. Thế nên
trước những yêu cầu của thời kì đổi mới như hiện nay nghiên cứu vấn đề

1

Luan van


dân chủ và thực hiện dân chủ cơ sở trong sinh viên trường đại học sư phạm
kỹ thuật Tp.HCM là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc Việt
Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa lớn của thế giới. Tại
Đại hội đại biểu lần thứ VII, Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hành động”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lí luận bao
gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và vô cùng phong phú cho nên việc nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đang ngày càng trở thành yêu cầu bức thiết
không chỉ đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn mà cả đối với sự
nghiệp đổi mới của đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

Ở nước ta trong 15 năm đổi mới vừa qua, thành tựu nghiên cứu những
vấn đề lý luận về dân chủ và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
được thể hiện ở những cơng trình của nhiều tác giả và các tập thể tác giả.
Ví dụ:
Những lực cản đối với q trình dân chủ hóa ở Việt Nam – Báo Nhân
Dân, số ra ngày 22/4/1998 của Hồng Chí Bảo.
- Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, tạp chí TTLL số 7/1989 của
Hồng Chí Bảo.
- Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nxb Sự thật, 1991 của
Thái Ninh – Hồng Chí Bảo.
- Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận
và phương pháp nghiên cứu, tạp chí TTLL số 9/1992 của Hồng Chí Bảo.
- Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tạp chí Cộng sản số 2/1999 của
Trần Quang
- Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ. Tạp
chí QLNN, số 1/1999 của Lê Minh Châu.
2

Luan van


- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới: Sự hình thành và phát
triển,Nxb CTQG, 1995 của Hồng Văn Hảo.
- Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh, sự thật, 1997 của Nguyễn
Khắc
- Về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tạp chí Lịch sử Đảng, số
6/1998 của Hồng Trang.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, CTQG
1988 của Nguyễn Đình Lộc.
Ngồi ra, cịn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa

học, các luận án phó tiến sĩ, thạc sĩ về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và
vấn đề dân chủ, dân chủ hóa ở nước ta (xem danh mục tài liệu tham khảo ở
phần sau).
Các cơng trình nghiên cứu đó từ những hướng tiếp cận và phạm vi
nghiên cứu khác nhau đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ
chế thực hiện dân chủ.
Tuy nhiên, dân chủ ở cơ sở và vận dụng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh vào việcxây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở vẫn đang còn là vấn
đề mới mẻ, dường như chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống. Đề tài này là một cố gắng bước đầu của tác giả góp phần nghiên cứu
bổ sung vào chỗ cịn thiếu hụt đó.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Làm rõ cơ sở lý luận thực tiễn những nội dung cơ bản tư tưởng hồ chí
minh về dân chủ.
Những quan điểm của đảng nhà nước, của Đảng ủy ban giám hiệu
trường Đại học sư phạm kỹ thuật về thực hành dân chủ cơ sở hiện nay. Từ
đó hướng tới xây dựng phát triển dân chủ rộng rãi trong sinh viên trường
Đại học sư phạm kỹ thuật TP.HCM.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

3

Luan van


4.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
-Tư tưởng dân chủ cho nhân dân Việt Nam của Hồ Chí Minh qua lời chỉ
dạy sâu sắc và những hành động thực tiễn mẫu mực của đề tài. Trong đó,
sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. HCM là đối tượng ngiên cứu
cụ thể của đề tài này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài tập trung đi nghiên cứu tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
chứ khơng nghiên cứu tồn bộ tư tưởng của Người.
- Nghiên cứu tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh từ đó hướng đến việc
vận dụng , phát huy dân chủ trong trường đại học sư phạm kỹ thuật thành
phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận:
- Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về dân chủ.
- Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ.
5.2/Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Đề tài này chọn phương pháp chung là phương pháp luận của triết học
Mac-Lênin.
- Đồng thời đề tài sử dụng phương pháp cụ thể như: phân tích và tổng
hợp, so sánh, logic – lịch sử, quy nạp và diễn dịch, điều tra, thống nhất giữa
lý luận với thực tiễn, phương pháp chuyên gia, …
6. Đóng góp mới của đề tài:
- Nghiên cứu tư tưởng về dân chủ của Hồ Chí Minh một cách có hệ
thống, góp phần vào công tác tuyên truyền, lý luận trong giai đoạn hiện nay.
- Đề tài chỉ ra khái niệm dân chủ, các quan niệm dân chủ trong lịch sử,
thực trạng dân chủ…Từ đó đề xuất ra biện pháp tách động tích cực nhằm

4

Luan van


nâng cao nhận thức và ý thức dân chủ cho sinh viên trường đại học sư phạm
kỹ thuật TP.HCM.

- Ngoài ra đề tài còn là nguồn tài liệu tham khảo cho những người quan
tâm nghiên cứu, vân dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giai đoạn
hiện nay.

5

Luan van


CHƢƠNG I
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1 Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ
1.1.1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các tác phẩm của
Người thường là những tư tưởng khi Người bàn về vấn đề nhà nước và
nhất là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là những vấn đề được Hồ Chí
Minh đặt ra và trả lời một cách ngắn gọn, xúc tích và dễ hiểu nhất quan
điểm của Người khái niệm dân chủ và vấn đề dân chủ. Đó là những vấn đề
thường được Người nêu ra những câu hỏi và cũng tự mình trả lời dưới các
hình thức khác nhau trong quan hệ với vấn đề nhà nước. Ví dụ như: “Dân
chủ là như thế nào?” và Người lại tự trả lời: “Là dân làm chủ” Do đó, Hồ
Chí Minh thường nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do dân
làm chủ”, chế độ ta là chế độ dân chủ. Theo nghĩa chung nhất, tức là nhân
dân làm chủ Người còn nói : “Nước ta là nước dân chủ , địa vị cao nhất là
dân, vì dân làm chủ”.
Quan niệm về dân chủ được diễn đạt qua hai mệnh đề: “Dân là chủ” và
“Dân làm chủ”.
Dân là chủ: nói đến vị thế của dân. Dân làm chủ: đề cập đến năng lực
và trách nhiệm của dân. Cả hai đi đơi với nhau, thể hiện vị trí, vai trị,
quyền và trách nhiệm của dân. Người nói :“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa

là nhà nước do nhân dân làm chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là
nhân dân làm chủ”;“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ”.
Phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ. Quyền hành và lực lượng
đều thuộc về nhân dân. Xã hội đảm bảo điều đó được thực thi thì đó là một
xã hội thực sự dân chủ.
1.1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ

6

Luan van


Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh đã phản ánh nội dung căn bản
nhất về khái niệm dân chủ - Demoskratos – quyền lực thuộc về nhân dân
và cụ thể hơn là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo đó, trong
khái niệm dân chủ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề nhà nước, để khẳng
định nội dung chính trị của dân chủ. Về vấn đề này, C.Mác cũng đã nói:
“Trong chế độ dân chủ thì bản thân chế độ nhà nước hiện ra là một trong
những quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân dân và nó “ngày càng
hướng tới cơ sở hiện thực của nó , tới con người hiện thực , tới nhân dân
hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân” . Xét theo
phương diện chính trị , thì Lênin cũng cho rằng nội dung của khi niệm dân
chủ: “dân chủ là một phạm trù th uộc lĩnh vực chính trị” Tuy nhiên, Lênin
cũng giải thích thêm: “Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính
thức thừa nhận cho mọi người được thừa nhận quyền bình đẳng giữa những
người cơng dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong
việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước”
Như vậy, Hồ Chí Minh cho thấy rằ ng sự thể hiện rất cụ thể nội dung
chính trị khi xem dân chủ là một hình thức nhà nước , một thiết chế xã hội

và quyền lực thuộc về nhân dân. Trong đó, bản chất của chế độ dân chủ
XHCN là phục vụ con người phục vụ xã hội trên tinh thần của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Vì, theo Mác và Angghen thì: “Chế độ dân chủ xuất phát từ
con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa… khơng
phải nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước”, phù
hợp với ý chí, hành động và lợi ích của quần chúng nhân, của nhân dân. Đó
khơng có gì khác là nhà nước do dân và vì dân.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh khơng chỉ giới hạn về vấn đề nhà
nước, mặc dù thông qua nhà nước đã chỉ rõ quyền làm chủ của nhân dân về
việc thiết lập hệ thống chính chính trị để “bầu ra đại biểu thay mặt cho
mình thi hành chính quyền” , “cử ra” chính quyền các cấp và “tạo ra” các
đồn thể, v,v…mà cịn cho chúng ta thấy vấn đề nhà nước là cả hệ thống
7

Luan van


chính trị, nhà nước chỉ là một bộ phận của dân chủ. Bởi, Hồ Chí Minh xem
chế độ nhà nước kể cả nhà nước kiểu mới (Nhà nước vô sản ), cũng chỉ là
một yếu tố tồn tại của xã hội, hoặc là một hình thức tồn tại đặc biệt của
nhân dân nhưng không bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo ý nghĩa trên đây về vấn đề dân chủ, Hồ Chí Minh cho rằng quyền
lực của nhân dân trong việc “bầu ra”, “cử ra”, “tạo ra”, những hình thức
tồn tại của nhân dân về nhà nước – thiết chế xã hội là một nhu cầu tất yếu.
Nhưng vấn đề quan trọng hơn, quyền tự quản của nhân dân trong việc hoàn
thiện nhà nước, thì đồng thời phải dẫn đến sự hồn thiện dân chủ trong mọi
quan hệ xã hội, mặc dù nó là một bộ phận của đời sống xã hội.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, một vấn đề mang tính độc đáo ,
riêng biệt nếu có thể nói như vậy là vấn đề đạo lý làm người


, khi Người

cho rằng dân chủ là giá trị của nhân loại , là sản phẩm của nền văn minh , là
kết quả tất yếu của quá trình đầu tranh tự giải phóng con người và giải
phóng xã hội. Và hơn nữa, sự hình thành và phát triển dân chủ là một quá
trình tự thân , từ thấp đến cao trong lịch sử xã hội . Chính vì vậy , Hồ Chí
Minh đã từng nêu lên một khái niệm là lý tưởng dân chủ như là tiêu chí của
sự phát triển xã hội. Trong đó, một ngun tắc, một cơng thức , một chìa
khố đảm bảo cho nhân loại thiết lập một nền hòa bình thế giới dựa trên
nền tảng dân chủ và bình đẳng giữa các dân tộc . Đó là: “Hòa bình – một
nền hòa bình chân chính xây dựng trên cơng bằ ng và lý tưởng dân chủ phải
thay cho chiến tranh, rằng tự do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp
các nước không phân biệt chủng tộc, màu da”. Trên cơ sở đó, Người
thường xem xét sự phát triển dân chủ đặt trong quan hệ so sánh giữa chế độ
về dân chủ cũ. Khái niệm Dân chủ cũ lần đầu tiên xuất hiện trong sách
Thường thức chính trị của Hồ Chí Minh viết năm

1953 và xuất bản năm

1954. Người viết: “Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách
mạng dân chủ mới (tức cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hiện nay )…
cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới chứ không phải là dân
8

Luan van


chủ cũ”. Khái niệm “Dân chủ mới” xuất hiện 74 lần trong bộ Hồ Chí Minh
Tồn tập (xuất bản lần thứ hai). Lần đầu tiên cụm từ dân chủ mới xuất hiện
trong bài Cách tổ chức các ủy ban nhân dân


(11-9-1945). Trong sách

“Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh đã đăng trong mục 48 nói về Dân
chủ mới . Người đã nêu lên 5 đặc điểm về chính trị , kinh tế, tư tưởng, sự
lãnh đạo của Đảng và quyết tâm c

ủa nhân dân với nền “dân chủ mới”.

Người cho rằng, bước chuyển từ dân chủ cũ sang dân chủ mới là kết quả
của cuộc đấu tranh liên tục của nhân dân toàn thế giới cho lý tưởng dân
chủ, cho sự tự do, bình đẳng giữa các dân tộc và giữa con người với con
người.
Nghiên cứu tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và nhất là vấn đề dân chủ
mới của Người trên cơ sở xem xét bản chất của dân chủ phải coi dân chủ là
một phạm trù chính trị theo ba nguyên tắc phương pháp luận mà Lênin đã
chỉ ra trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chính trị – kinh tế, với quan
hệ giai cấp và sự tham gia của nhân dân vào sự hoạt động của nhà nước.
Trong đó, mối quan hệ với kinh tế thì chính trị là sự biểu hiện tập trung
nhất của kinh tế. Điều này, khơng chỉ phản ánh vai trị của cơ sở kinh tế với
nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, mà cịn nói lên tính
chất, trình độ về sự hồn thiện của nhà nước với tính cách là nền dân chủ sẽ
tương ứng với tính chất và trình độ của một nền kinh tế xã hội nhất định.
Theo nghĩa đó, trong xã hội có giai cấp, thì khái niệm chính trị phản ánh về
quyền lực nhà nước giữa các giai cấp khác nhau, chứ khơng đồng nhất với
quyền lực xã hội. Mặc dầu, tính chất và trình độ dân chủ được đặt ra trong
quan hệ trực tiếp với chính trị, phản ánh mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất
thống trị với tư tưởng xã hội, thiết chế xã hội tương ứng. Nhưng vấn đề cốt
lõi, khi xem xét thước đo trình độ dân chủ của một chế độ xã hội, nhất là xã
hội hiện đại là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước và xã

hội. Đặc biệt, trong nền dân chủ mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa.

9

Luan van


Hồ Chí Minh, coi bản chất của nền dân chủ mới phải thể hiện được
tính nhân dân của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua phương thức tổ
chức hệ thống chính trị - đó là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trong đó, nhân dân với vai trò là người chủ, người làm chủ. Theo nghĩa đó,
một vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải làm rõ về các khái niệm: Nhân dân
là ai? Họ là những bộ phận của xã hội và thực chất vai trò của họ trong xã
hội được thể hiện trong xã hội như thế nào?
1.1.2 Khái niệm dân chủ
Dân chủ là bản chất của Nhà nước ta. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, của
cơng cuộc đổi mới hiện nay nói riêng. Quyền làm chủ của người dân được
thực hiện qua hai hình thức cơ bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Thơng qua đó, người dân tham gia vào việc xây dựng và quản lí nhà nước,
nhất làviệc kiểm tra của người dân đối với hoạt động của cơ quan và cán
bộ, công chức nhà nước. Dân chủ XHCN là dân chủ với nhân dân, là bảo
đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, bảo đảm phát
huy những quyền tự do, quyền con người, quyền công dân. Dân chủ phải đi
đôi với kỉ cương, nề nếp xã hội.
1.1.3 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, là cơ sở đảm bảo các
quyền cơ bản của nhân dân lao động.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh
đề ngắn gọn: “Dân là chủ” và “Dân làm chủ”. Dân là chủ, nghĩa là đề cập

đến vị thế của dân; còn dân làm chủ, nghĩa là đề cập đến năng lực và trách
nhiệm của dân – Thể hiện vị trí, vai trị, quyền và trách nhiệm của dân.
Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất của dân

10

Luan van


chủ. Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào bảo đảm
cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.
1.2Tƣ tƣởng dân chủ trong các thời kỳ lịch sử
Truyền thống “thân dân”, “lấy dân làm gốc” là một tư tưởng tiến bộ đã
có từ hơn 2500 năm trước đây trong tư tưởng Nho giáo. “Lấy dân làm gốc”
cũng là một bài học chính trị và lời dặn dị q báu của ông cha ta thể hiện
ở các triều đại tiến bộ trong lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm
của dân tộc, được biểu hiện trong tư tưởng và hành động của nhiều vị vua
anh minh thời Lý, Trần, Lê, của nhiều nhà tư tưởng như Trần Quốc Tuấn,
Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, v.v….Đến chủ tịch Hồ Chí
Minh, quan điểm nhân dân là người chủ đất nước của Người là tiếp thu từ
truyền thống dân tộc và từ tư tưởng dân chủ tư sản Pháp từ rất sớm. Có thể
nói rằng tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng thể hiện những giá trị
triết học và nhân văn sâu sắc và nhất quán trong toàn bộ cuộc đời và sự
nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Quan điểm đó cịn biểu hiện sự
thấm nhuần quan điểm triết học Mác – Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của
quần chúng nhân dân lao động, biểu hiện ở quan điểm nhân văn cao cả của
Bác, luôn chăm lo xây dựng, bồi dưỡng giáo dục và phát triển nhân tố con
người. Đó chính là sự kế thừa và phát triển những giá trị tư tưởng Triết học
phương đông, Việt Nam và thế giới trong thời đại mới.
Tư tưởng “Lấy dân làm gốc” không chỉ đã trở thành nội dung, mục tiêu

chủ yếu mà còn là cơ sở, là căn cứ để hình thành và triển khai đường lối cai
trị, quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Ngày nay, việc phát
huy tinh thần “lấy dân làm gốc” đã trở thành bài học quý giá cho Đảng và
nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện những mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, xây dựng bảo vệ Tổ quốc.

11

Luan van


Đảng ta ngay từ khi mới thành lập, xuất phát từ lợi ích của dân đã gắn
bó chặt chẽ với dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
ta đã thật sự được nhân dân yêu mến, tin cậy và ủng hộ.
Sự nghiệp đổi mới xã hội hiện nay của chúng ta do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, là cơng việc to lớn, lâu dài, khơng ít khó khăn gian khổ,
nhằm xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp ấy đòi hỏi hơn bao
giờ hết, phải phát huy cao nhất sự kiến tạo cách mạng của quần chúng nhân
dân lao động. Chân lý “lấy dân làm gốc” tưởng như đơn giản, nhưng trên
thực tế tổ chức thực tiễn cách mạng vẫn chưa phát huy được hết sức mạnh
to lớn của quần chúng nhân dân lao động. Do đó, việc quán triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc” của Đảng vừa là mục đích, vừa là động lực để chúng ta
nhanh chóng đạt tới thắng lợi các mục tiêu đổi mới xã hội. Từ việc thấm
nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Bác Hồ, của Đảng cộng sản Việt
Nam mà chúng ta có những giải pháp hiện thực hóa nó bằng thực tiễn cách
mạng.
Nhận thức về vai trò, sức mạnh của dân chúng đối với sự tồn vong,
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và định ra những đường lối chính trị,
chính sách xã hội tiến bộ theo hướng thân dân là một quá trình lâu dài

trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Quá trình này đi từ sự kế thừa các nhân tố
dân chủ mầm mống trong xã hội cổ đại, tới sự tiếp thu ảnh hưởng tư tưởng
thân dân trong nho giáo tới sự nhận thức và tầm cao lý luận làm nên một
truyền thống lý luận chính trị tiến bộ trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Điển
hình của truyền thống đó là các nhà tư tưởng: Trần Quốc Tuấn, Nguyễn
Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh (linh hồn của Đảng
cộng sản Việt Nam).
* Tƣ tƣởng lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn
Trần Quốc Tuấn cho rằng: việc khoan thư sức dân, tranh thủ sự đồng
lòng của dân là kế sâu rễ bền gốc, phương châm chiến lược lâu dài để phát
triển quốc gia độc lập. Ông coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân
12

Luan van


để đánh giặc giữ nước, đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ mà ở thời đại đó
rất ít người có thể nhận ra vì các triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là
“thảo dân” mà thôi.
* Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi
Tới Nguyễn Trãi, tư tưởng than dân phát triển hơn và đạt tới đỉnh cao.
Là một nhà nho ông hiểu rõ tư tưởng của Mạnh Tử: Dân vi bản, quân vi
khinh, xã tắc thứ chi. Khi đất nước bị xâm lược ông chỉ đau đáu một điều
làm sao để cứu dân cứu nước, bình ngô sách của ông được xây dựng trên
cơ sở của tư tưởng thân dân, theo ông cứu nước phải cứu dân, việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân. Khi đất nước được thái bình thịnh trị thì mọi việc ơng
làm nhằm mục đích đền ơn dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Đây là tư
tưởng tiến bộ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó phản ánh sự phát triển
của chế độ phong kiến Việt Nam khi lợi ích của giai cấp thống nhất trị cịn
gắn với lợi ích quốc gia dân tộc và không đối kháng gay gắt với lợi ích của

dân chúng. Tuy nhiên tư tưởng này vẫn bị hạn chế bởi thế giới quan của
giai cấp địa chủ phong kiến, người dân lao động chưa được nhìn nhận đánh
giá đầy đủ, họ chỉ được xem như thứ dân, dân đen, là bậc tiểu nhân.
 Tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà nho duy tân đã kế thừa những quan điểm
về dân của các bậc tiền bối trong lịch sử và phát triển tư tưởng về dân lên
một bước mới. Đó là một bước ngoặt phát triển thật sự của tư tưởng chính
trị. Nhận thức được vai trị của quần chúng nhân dân, các nhà nho yêu
nước thời kỳ này đã chú trọng đến vai trị của văn hố tư tưởng, đến công
cuộc đổi mới tư duy cho nhân dân, xây dựng con người mới. Tiêu biểu cho
quan niệm tiến bộ về dân trong giai đoạn này là hai nhà chí sĩ Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh.
+ Phan Bội Châu đề cao vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Và để
nhân dân phát huy được quyền làm chủ của mình, nắm giữ được vận mệnh
của đất nước thì theo ơng phải dựng con người, xây dựng tư tưởng mới cho
13

Luan van


nhân dân. Biện pháp hiệu quả theo Phan Bội Châu là “tự tân”. Quan niệm
về dân đồng nhất với quốc dân thể hiện sự chuyển biến tích cực mới mẻ
trong tư tưởng của Phan Bội Châu, từ quân chủ sang dân chủ, từ quân
quyền sang dân quyền, từ tôn quân sang tơn dân. Đây chính là bước chuyển
trung gian từ quan niệm “thần dân” sang quan niệm “nhân dân” sau này.
+ Phan Châu Trinh cũng với tư tưởng đề cao vai trị của quần chúng
nhân dân, để có thể giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, nhưng đối lập
với biện pháp “tự tân” của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cho rằng để
chấn hưng dân tộc phải dựa trên những thành tựu văn minh của Pháp để
tranh thủ thực hiện canh tân. Đặc biệt là để đất nước ta trở thành một nước

tiến bộ thì phải dựa vào sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng dân chủ của
Phan Châu Trinh là một sự tiếp nối hợp qui luật những tư tưởng canh tân
đất nước của các nhà cải cách trước đó. Ơng đã đi từ chủ nghĩa u nước
cũ trong xã hội phong kiến, đến chủ nghĩa yêu nước mới dưới ngọn cờ dân
chủ tư sản phương Tây qua tân văn, tân thư. Đánh dấu bước chuyển trong
tư tưởng phong kiến sang tư tưởng dân chủ tư sản.
Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là
những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật
chất tiềm tàng của toàn dân. Chúng ta càng thấy sâu sắc hơn chân lý ấy
trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng thân dân trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam đến đầu thế kỷ XX. Có thể thấy, việc nhận thức về vai trò,
sức mạnh của dân chúng đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia,
dân tộc và định ra những đường lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo
hướng than dân là một quá trình lâu dài trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Quá trình này đi từ sự kế thừa các nhân tố dân chủ mầm mống trong xã hội
cổ đại, kết hợp với tư tưởng thân dân trong nho giáo tới sự ý thức và tầm
cao lý luận làm nên một truyền thống lý luận chính trị tiến bộ trong lịch sử
tư tưởng dân tộc. Điển hình của truyền thống đó là các nhà tư tưởng như:

14

Luan van


Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Hồ Chí
Minh.
1.3 Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về dân chủ
- Đảng ta coi việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là
một trong những nội dung thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ
nghĩa mà còn là quy luật hình thành, phát triển và tự hồn thiện của hệ

thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển công cuộc đổi mới của xã hội ta, khâu quan trọng cấp bách hiện
nay là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
- Để việc phát huy sâu rộng quyền làm chủ của nhân dân, ngày 18-2-1998,
bộ chính trị đã ra chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở. Việc ban hành chỉ thị 30-CT/TW của bộ chính trị và liền
sau đó là các nghị quyết, nghị định của quốc hội và chính phủ về thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở đã chứng tỏ Đảng và nhà nước ta rất quan tâm và
quan tâm kịp thời đến vấn đề phát huy dân chủ ở cơ sở. Chỉ trong một thời
gian ngắn, quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra khơng khí cởi mở, dân chủ ở
khắp các đơn vị, địa phương.
Có thể nói, vấn đề đẩy mạnh phát huy dân chủ ở cơ sở, nhất là đẩy
mạnh tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, là xuất phát từ nhu cầu tất
yếu khách quan của thực tiễn xã hội. Bởi vậy, nó hồn toàn phù hợp với
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. Đồng thời, nó cũng xuất phát từ nhu cầu đổi mới của Đảng, đó là sự
đổi mới về đường lối, quan điểm cho phù hợp với bước phát triển mới của
thực tiễn xã hội và để định hướng cho những bước phát triển tiếp
theo. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về dân chủ :
-

Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng ta ln xác

định rõ phát huy dân chủ trong xã hội là một nội dung lớn của đường lối
cách mạng nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, khẳng định :

15

Luan van



+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi
mới. Xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, do nhân dân lao động làm chủ.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
- Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa nằm trong hệ thống mục tiêu của
đổi mới, thể hiện bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Để đi lên chủ
nghĩa xã hội, cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất thiết phải xây dựng thành
công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân được Đảng ta tổng kết là
một trong năm bài học lớn của đổi mới. Đảng ta nhận thức rằng, dân chủ
xã hội chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, nhà nước và nhân
dân. Phấn đấu cho quyền làm chủ thật sự của nhân dân được thực hiện,
nhân dân là chủ thể của quyền lực, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân,
nhà nước là người nhận quyền lực xã hội do nhân dân ủy giao phó để tổ
chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của
nhân dân, làm điều lợi, tránh điều hại cho dân, chăm lo phát triển sức dân,
bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân khơng chỉ có quyền, mà
cịn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nói như chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân có quyền làm chủ thì đồng thời cũng có nghĩa vụ của người chủ.
Một nền dân chủ chân chính, tiến bộ và hiện đại bao giờ cũng gắn liền
quyền với nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm. Đó là quan hệ mật thiết khơng

16

Luan van


thể tách rời, nó thấm nhuần trong các quan hệ giữa công dân với nhà nước,
cá nhân với xã hội, thành viên với cộng đồng. Tất cả được luật pháp điều
chỉnh, điều tiết, chi phối để dân chủ không biến dạng thành các hành vi
phản dân chủ.
Pháp luật, như đã nói, là cơng cụ đầy hiệu lực của quản lý, bảo đảm
cho quyền lực của nhân dân được thực hiện, thông qua sức mạnh của nhà
nước. Pháp luật không tách rời dân chủ, cũng như khơng có dân chủ nào ở
bên ngồi pháp luật. Đó là một chỉnh thể tồn vẹn. Sự vận động và phát
triển lành mạnh của dân chủ đòi hỏi sự hiện diện của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, trong đó, pháp luật là giới hạn, là hành lang vận động của
dân chủ. Mọi tổ chức trong xã hội, mọi công dân và công chức phải hoạt
động theo đúng chuẩn mực luật pháp, hợp hiến và hợp pháp. Sự kiểm soát,
điều tiết hành vi của mỗi cá nhân cũng như hoạt động của từng tổ chức
khơng chỉ có sự tác động của luật pháp, mà cịn được định hướng bởi đạo
đức. Điều đó làm nổi bật đặc trưng pháp lý và nhân văn của dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Bằng cách đó, đạt được mục tiêu dân chủ sẽ dẫn tới sự phát triển
tích cực, lành mạnh của cá nhân và xã hội. Trong các thể chế dân chủ của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa dân chủ với tập trung
trong nguyên tắc (hay chế độ) tập trung dân chủ của hoạt động chính trị và
quan hệ giữa dân chủ với đoàn kết, đồng thuận và hợp tác của cộng đồng
xã hội, trong đời sống xã hội là những mối quan hệ nổi bật. Giải quyết
đúng các mối quan hệ này sẽ chẳng những làm cho dân chủ thật sự là mục
tiêu, mà cịn là động lực phát triển. Đó là sự thống nhất và tác động lẫn
nhau giữa mục tiêu và động lực của dân chủ. Trong mối quan hệ giữa tập
trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị, dân

chủ cần có tập trung như một bảo đảm tất yếu, không thể thiếu. Như vậy,
tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tự do vơ chính phủ,
tính phân tán, cát cứ, cục bộ địa phương và thói phường hội. Dân chủ
không đối lập với tập trung, mà chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc
17

Luan van


tài. Với Đảng cộng sản Việt Nam, nhờ giữ vững tập trung dân chủ mà
Đảng ta là một Đảng chiến đấu, Đảng hành động, có sức mạnh của tính tổ
chức, tính kỷ luật. Với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tập trung
dân chủ sẽ làm tăng hiệu lực của quản lý, nhất là quản lý kinh tế, quản lý
các nguồn lực của phát triển. Với các đoàn thể chính trị xã hội trong hệ
thống chính trị, tập trung dân chủ cũng là một đòi hỏi khách quan, tất yếu
do mục tiêu thực thi dân chủ và quyền làm chủ của quần chúng quy định.
Trong đời sống xã hội, trong cộng đồng xã hội và dân tộc, đoàn kết để thúc
đẩy dân chủ và muốn đoàn kết thật sự thì phải bảo đảm dân chủ. Chỉ có
thật sự tơn trọng và tin cậy lẫn nhau thì mới có thể đồn kết thực tâm, thực
lịng vì mục tiêu chung, lợi ích chung. Chính điều này cho thấy sự cần thiết
phải xây dựng văn hóa dân chủ trong đời sống xã hội để mọi quan hệ ứng
xử giữa con người với con người và tổ chức thấm nhuần tinh thần bình
đẳng, tôn trọng, tin cậy, hợp tác để cùng phát triển. Qua thực tiễn đổi mới,
tư duy lý luận của Đảng cũng đã vươn tới những quan điểm mới, mở ra
một khả năng và triển vọng tốt đẹp để xây dựng xã hội ta thành một xã hội
dân chủ, trong đó nhân dân là người chủ chân chính của nhà nước và xã
hội, là chủ thể quyền lực. Vấn đề đặt ra là cần phải thực hành dân chủ rộng
rãi và nghiêm túc, trước hết là dân chủ trong Đảng, sau đó thực hành dân
chủ trong tồn xã hội. Sự phát triển lành mạnh dân chủ trong Đảng chẳng
những làm tăng sức mạnh của Đảng, mà còn nêu gương, thúc đẩy dân chủ

trong xã hội. Thực hiện dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng
giải quyết mọi khó khăn. Luận đề tư tưởng quan trọng đó của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tỏ rõ vai trị, mục tiêu và động lực của dân chủ đối với sự phát
triển xã hội. Quan điểm của Đảng ta về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
: Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
là mục tiêu, đồng thời là động lực đảm bảo thắng lợi của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân mới khơi dậy được tính tích cực, chủ động, tự giác của

18

Luan van


nhân dân tham gia thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước.
Và chỉ khi ấy, các chủ trương, chính sách mới thực sự đi vào cuộc sống xã
hội, công việc của nhà nước, của xã hội mới trở thành công việc của mọi
người và mọi người tham gia thực hiện thì chế độ chính trị mới thực sự có
sức mạnh. Điều đó lại diễn ra thường xuyên ở cơ sở. Nhằm phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của
nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, tăng cường đồn
kết, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và
các đồn thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh; thực hiện tốt chế độ dân chủ
trực tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công
việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. Ngày 18 – 02 –
1998, bộ chính trị trung ương Đảng ra chỉ thị số 30/CT – TW về xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa 10
có nghị quyết số 45/1998/NQ – UBTVQH ngày 26 – 02 – 1998 về ban
hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Ngày 11 – 05 –
1998, chính phủ ban hành nghị định số 29/1998/NĐ – CP về việc ban hành

“Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ” ( được áp dụng đối với cả phường, thị
trấn ).
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã theo nghị định 79 – CP của Chính phủ
ban hành ngày 07 tháng 7 năm 2003 viết: „„ Thực hiện quy chế dân chủ ở
xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động
viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển
kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng
cường đồn kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đồn thể ở xã trong
sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu,
tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân gắn liền với cơ chế „‟Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm
19

Luan van


chủ‟‟; phát huy chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực
hoạt động của chính quyền địa phương, thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp
ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc quan
trọng, thiết thực, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân. Dân chủ phải
trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật; đi đôi với trật tự, kỷ cương;
quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân
chủ, vi phạm hiến pháp, pháp luật, xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích
tập thể, quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Việc triển
khai sâu rộng và đồng bộ quy chế dân chủ ở cơ sở đã thực sự huy động
được các nguồn lực, khơi dậy và phát huy được ý chí tinh thần và các
nguồn lực vật chất tiềm tàng trong các tầng lớp nhân dân; huy động được
sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần dân cư, các tổ chức xã hội cùng

tiến quân vào mặt trận xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở cơ sở
đáp ứng được nhu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay‟‟. Thực hiện dân
chủ là nhằm bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân; là nhằm bảo đảm
nhà nước đem lại quyền lợi mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an
ninh, quốc phịng… cho nhân dân. Hơn nữa, tất cả những vấn đề liên quan
đến quyền lợi của nhân dân đều được nhân dân biết, bàn, làm và kiểm tra.
Tất cả các nội dung thực thi dân chủ trong xã hội được thể hiện trong luật
pháp nhà nước, được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, mở rộng dân chủ phải đi
liền với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quy chế thực hiện dân chủ
ở cơ sở dù có xây dựng cơng phu đến đâu thì cũng khơng bao giờ chi tiết
hố được hết các cách thức thực hành dân chủ của từng địa phương, cũng
như khơng thể lấy mơ hình thực hiện của địa phương này đem áp đặt nó
cho địa phương khác. Khó khăn hơn gấp nhiều lần việc ban hành văn bản
pháp luật về dân chủ đó là xây dựng nếp sống dân chủ. Nếp sống dân chủ
không đơn thuần chỉ được hiểu là việc tuân theo đúng những gì đã qui định
trong qui chế dân chủ, mà đó phải trở thành nhu cầu thường trực, thành
hành vi, phong cách của mọi chủ thể thực hiện. Để hình thành nếp sống

20

Luan van


dân chủ, pháp luật cũng chỉ là một trong nhiều kênh tác động vào ý thức
con người, muốn xây dựng nếp sống dân chủ cần chú ý đến các công cụ
khác như tuyên truyền qua sách báo, phim ảnh, qua điều lệ của các tổ chức
xã hội, đoàn thể, qua các hình thức văn hố – nghệ thuật, qua hình thức
khen thưởng, động viên về vật chất hoặc tinh thần v.v… Khơng thể có dân
chủ thực sự nếu khơng xây dựng một mơi trường, một bầu khơng khí cởi
mở, cạnh tranh lành mạnh, và không biến dân chủ trở thành lực đẩy cho

kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh quốc phịng phát triển. Dân chủ khơng
phải là thứ quà được ban tặng, mọi người chỉ cần giơ tay đón nhận và
hưởng thụ. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ dân
chủ là sự nghiệp cách mạng, là q trình đấu tranh khơng ngừng giữa thực
thi dân chủ với vi phạm quyền làm chủ, giữa dân chủ thực với dân chủ hình
thức, giữa thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp luật với các khuynh
hướng vơ chính phủ, dân chủ cực đoan… Hiện nay, có những cá nhân và
thế lực muốn lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị, phá hoại chế
độ dân chủ nhân dân. Chúng ta kiên quyết đấu tranh và vạch trần âm mưu
của những kẻ lợi dụng dân chủ, kích động chia rẽ khối đại địan kết dân
tộc, phá hoại công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ
quốc của nhân dân ta.
-Theo Báo cáo của ban chấp hành T.Ư Đảng khóa IX về cơng tác xây
dựng Đảng tại đại hội X của Đảng. Vấn để phát huy dân chủ được chú
trọng với những những bài học kinh nghiệm chủ yếu qua 20 năm đổi mới
như sau:
 Một là, phải kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới tồn diện, có nguyên
tắc và sáng tạo; trong quá trình đổi mới, phải luôn luôn giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Ðảng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
không đa nguyên, đa đảng.

21

Luan van


×