Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Chất lượng nhân lực trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.52 KB, 32 trang )

Mục lục
M c l cụ ụ ..............................................................................................................1
M c l cụ ụ ..............................................................................................................1

Lời nói đầu
Trong sự phát triển chung của toàn xã hội, các doanh nghiệp phải đối mặt với
sự cạnh tranh mạnh mẽ, doanh nghiệp phải đứng vững trước sự cạnh tranh của thị
trường nội địa và cả sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá
nền kinh tế mạnh mẽ như hiện nay không một doanh nghiệp nào có thể đứng ngoài
cuộc. Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố nhưng vấn đề nâng cao chất lượng quản lý đặc biệt là chất lượng quản lý
nhân lực của doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của doanh nghiệp đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện thành công
những kế hoạch những chiến lược trước mắt và cả lâu dài.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động theo quy luật cạnh
tranh. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một bộ
máy quản lý hợp lý, có hiệu quả. Công tác quản lý là công tác quan trọng đối với
doanh nghiệp nó quyết định doanh nghiệp thực hiện kinh doanh có hiệu quả hay
Trang 1
không, có tồn tại và phát huy được sức mạnh cạnh tranh của mình hay không. Do đó
doanh nghiệp cần phải coi trọng của mình.
Chất lượng của đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp cả về tay nghề, kiến thức,
kinh nghiệm có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng kinh doanh của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp phải xác định được cho mình quy mô hợp lý, yêu cầu đòi hỏi về
trình độ, tay nghề của người lao động đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả.
Hiện nay các doanh nghiệp có rất nhiều thuận lợi trong việc tuyển chọn lao
động vì hiện nay đội ngũ lao động được đào tạo chuyên môn lành nghề chiếm số
lượng khá đông là nguồn cung cấp kịp thời cho nhu cầu nhân lực của các doanh
nghiệp.
Chất lượng nhân lực là mức độ đáp ứng, phù hợp của cơ cấu nhân lực hiện


có với cơ cấu nhân lực cần thiết (cần phải có cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả
cao). Đây là lực lượng quyết định sức sáng tạo của doanh nghiệp, quyết định năng
lực cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp xây dựng cho mình một cơ cấu nhân lực quá cồng
kềnh so với nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp thì hiệu lực quản lý kém, khi
cần chuyển đổi hoạt động sẽ gặp rất nhiều khó khăn, chi phí quản lý cao dẫn đến
hiệu quả kinh doanh thấp.
PHẦN I- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC CỦA DOANH
NGHIỆP.
1.1 Hoạt động của doanh nghiệp và nhân lực đối với hoạt động của doanh
nghiệp trong kinh tế thị trường.
1.1.1. Bản chất và mục đích của hoạt động của doanh nghiệp trong kinh tế thị
trường.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh, là tổ chức làm kinh tế. Doanh nghiệp có thể
kinh doanh sản xuất, kinh doanh thương mại, kinh doanh dịch vụ. Doanh nghiệp
kinh doanh sản xuất có thể chế tạo, lắp ráp một số sản phẩm hoàn chỉnh hoặc một số
sản phẩm hoàn chỉnh; một hoặc một số cụm chi tiết, một hoặc một số công
đoạn.....Trong kinh tế thị trường Doanh nghiệp hoạt động là vận dụng các nguồn lực
Trang 2
cạnh tranh với các đối thủ, các yếu tố đầu vào, phần nhu cầu thị trường, lợi nhuận,
các lợi ích từ các hoạt động kinh doanh nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển.
nếu cạnh tranh thành công thì doanh nghiệp sẽ có được chỗ
đứng vững chắc trên thị trường để tồn tại và phát triển, ngược lại thì đổ vỡ phá
sản
Bản chất hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là quá trình
tìm hiểu, biết cách đầu tư các nguồn lực cạnh tranh với các đối thủ nhằm thoả mãn
nhu cầu của khách hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như hoạt
động bất kỳ nào khác của con người có mục đích đạt được hiệu quả cao nhất . Hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp là kết quả tương quan, so sánh những lợi ích doanh
ngiệp thu được từ hoạt động của mình với phần các nguồn lực huy động, sử dụng

(chi phí) để đạt được (có được) những lợi ích đó. Hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp phải ở cả dạng tuyệt đối và tương đối, tức là phải lấy kết quả (lợi ích) trừ đi
chi phí và lấy kết quả lợi ích chia cho chi phí. Về mặt kinh tế hiệu quả tuyệt đối là
lãi; hiệu quả về mặt tương đối là lãi trên tổng vốn kinh doanh (tổng tài sản), lãi trên
chi phí. Hiệu quả kinh doanh hàng năm phải được đánh giá kết hợp cả ba mặt: kinh
tế, chính trị - xã hội và môi trường.
trong kinh tế thị trường m ọi doanh nghiệp đều bình đăng được tự do kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật, nó hoạt động chủ yếu theo quy luật cạnh tranh đáp ứng
nhu cầu hàng hoá. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường phải
luôn chấp nhận sự cạnh tranh đó chính là sự giành giật thị trường, khách hàng, đối
tác trên cơ sở các ưu thế về chất lượng hàng hoá, giá hàng hoá, thời hạn, sự thuận
tiện và uy tín lâu dài. Trong kinh tế thị trường phương pháp quản lý hiện đại và tiến
bộ khoa học công nghệ là hai vũ khí cạnh tranh sắc bén. Doanh nghiệp nào tụt hậu
trong hai lĩnh vực đó là có nguy cơ thất bại trong cạnh tranh và điều tất yếu là dẫn
đến phá sản . Do vậy, trong kinh tế thị trường các doanh nghiệp thường chủ động
trong việc đầu tư vào khoa học công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại cũng như
việc đầu tư cho nghiên cứu, triển khai để tạo ra các lợi thế cạnh tranh của sản phẩm,
dịch vụ.
1.1.2. Bản chất, các loại và vị trí vai trò của nhân lực đối với hoạt động của doanh
nghiệp trong kinh tế thị trường.
Trang 3
Nhân lực của doanh nghiệp là toàn bộ khả năng lao động mà doanh nghiệp cần
huy động được cho việc thực hiện, hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài
của doanh nghiệp.
Nhân lực của doanh nghiệp chính là sức mạnh của lực lượng lao động; sức mạnh
của độ ngũ cán bộ công nhân viên chức của doanh nghiệp. Sức mạnh đó là sức
mạnh hợp thành của sức người và khả năng lao động của từng người lao động. Khả
năng lao động của một người là khả năng đảm nhiệm, thực hiện, hoàn thành công
việc bao gồm các nhóm yếu tố: sức khỏe (nhân trắc, độ lớn và sức bền...), trình độ
(kiến thức và kỹ năng kinh nghiệm), tâm lý, mức độ cố gắng... Hay nói cách khác

nhân lực của một con người gồm thể lực và trí lực. Về mặt thể lực, nó phụ thuộc
vào tình trạng sức khoẻ của con người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ
làm việc và nghỉ ngơi, chế độ y tế chăm sóc sức khoẻ...thể lực của con người còn
phụ thuộc vào tuổi tác, thời gian công tác, giới tính...; Nguồn trí lực tăng nhanh
cùng với sự phá của con người còn có mặt tiềm tàng to lớn đó là trí tuệ, tài năng,
năng khiếu cũng như quan điểm, nhân cách, lòng tin...ngày nay tiềm năng về trí lực
của con người đã được chú ý khai thác nhưng vẫn đang ở một mức độ giới hạn.
Nhân lực của doanh nghiệp là yếu tố đầu vào độc lập, quyết định chất lượng, chi
phí, thời hạn của các sản phẩm trung gian, sản phẩm bộ phận và sản phẩm đầu ra
của doanh nghiệp. Điều đó hoàn toàn được khẳng định bởi: tất cả các hoạt động của
doanh nghiệp do con người thực hiện và quay trở lại phục vụ cho con người.Con
ngươid phân tích, dự báo nhu cầu thị trường, các đối thủ cạnh tranh quyết định
chiến lược, kế hoạch, phương án kinh doanh: sản phẩm - khách hàng với chất lượng
và số lượng xác định; con người sáng tạo, chuyển giao công nghệ, vận hành máy
móc, thiết bị và không ngừng cải tiến, hiện đại hoá máy móc thiết bị; con người xác
định nhu cầu vốn, nhu cầu vật tư, nhu cầu lao động và đảm bảo các đầu vào quan
trọng đó.
Trong giai đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá hiện nay của đất nước ta, việc
nghiên cứu đánh giá đầy đủ nguồn lực con người Việt Nam, nghiên cứu các yếu tố
để tạo điều kiện để con nguời tích cực đào luyện và thể hiện năng lực sáng tạo là
vấn đề có ý nghĩa quyết định chiến lược. nhân lực đóng vai trò quan trọng ảnh
Trang 4
hưởng trực tiếp đến các kế hoạch trước mắt và các nhiệm vụ lâu dài của doanh
nghiệp.
Theo tính chất của lao động, hoạt động của doanh nghiệp được tánh lập, phân
định thành: loại lao động trực tiếp kinh doanh (sản xuất hoặc mua bán hàng hoá),
quản lý kinh doanh và phục vụ cho những người quản lý và cho những người trực
tiếp kinh doanh. Khả năng lao động của doanh nghiệp theo cách phân loại này phải
có lượng và chất đáp ứng, phù hợp với yêu cầu thực tế hiện tại, tương lai. Ba loại
người này phải có quan hệ tỷ lệ (cơ cấu) hợp lý,có sức mạnh hợp thành lớn nhất.

Theo giai đoạn của quá trình hoạt động của doanh nghiệp được tách lập, phân
định thành: loại nghiên cứu đưa ra các ý tưởng, thiết kế và thi công. Khả năng lao
động của doanh nghiệp theo cách phân loại này phải có lượng và chất đáp ứng, phù
hợp với yêu cầu thực tế hiện tại, tương lai. Ba loại người này phải có quan hệ tỷ lệ
(cơ cấu) hợp lý,có sức mạnh hợp thành lớn nhất.
bên cạnh cách phân loại như trên người ta còn phân loại khả năng lao động của
doanh nghiệp theo giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn...
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp cần chú trọng đặc biệt vào các
chính sách nhằm thu hút nhân lực đồng thời có hướng sử dụng nguồn nhân lực một
cách hiệu quả và hấp dẫn hơn các đối thủ cạnh tranh. Hiện nay các doanh nghiệp có
rất nhiều thuận lợi trong việc tuyển chọn lao động vì hiện nay đội ngũ lao động
được đào tạo chuyên môn lành nghề chiếm số lượng khá đông là nguồn cung cấp
kịp thời cho nhu cầu nhân lực của các doanh nghiệp.
.
Qua những phân tích trên ta thấy nhân lực có vị trí và vai trò quan trọng đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty TNHH Tân Sinh trong những năm vừa qua cho thấy người lao
động trong doanh nghiệp được coi là tài nguyên nhân sự, là yếu tố quan trọng nhất,
là động lực của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, công tác hoạch định
giúp doanh nghiệp thấy được nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó bảo đảm sắp xếp đúng người cho đúng
việc, vào đúng thời điểm cần thiết và linh hoạt đối phó với những thay đổi trên thị
Trang 5
trường. Thừa nhân viên sẽ làm tăng chi phí, thiếu nhân viên hoặc chất lượng nhân
viên không đáp ứng yêu cầu sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện công việc và bỏ
lỡ cơ hội kinh doanh. Có thể kể ra các nguyên nhân đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến
hành công tác để đảm bảo nguồn nhân lực:
Thứ nhất, lập kế hoạch gắn nguồn nhân lực và tổ chức lại với nhau. Trong điều
kiện kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất hàng
may mặc phải đưa ra những quyết định cạnh tranh theo những cách khác nhau như:

giảm giá hàng hoá và dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ, tăng cường khuyến
mãi... Tuy nhiên lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp giành được ở đây hoàn toàn
phụ thuộc vào con người trong tổ chức đó. Doanh nghiệp cần phải tin rằng con
người là chìa khoá dẫn đến mọi thành công. Việc lập kế hoạch chính là tạo ra sự liên
kết giữa việc tuyển chọn kỹ hơn, đào tạo nhiều hơn cho người lao động, trả lương
cao hơn để họ có thu nhập ổn định hơn... từ đó, giúp doanh nghiệp đạt được năng
suất lao động cao hơn bằng cách làm cho mọi người đều tham gia và hứng thú với
các công việc của mình.
Thứ hai, lập kế hoạch để liên kết các hành động với các kết quả của nhân lực.
Nếu không có kế hoạch, doanh nghiệp sẽ không thể biết được có đi đúng hướng hay
không. Các hoạt động về lập kế hoạch nhân sự có thể được đánh giá bằng việc sử
dụng chính các mô hình như các trường hợp đầu tư vào các cơ sở sản xuất mới,
những chiến dịch marketing hay những công cụ tài chính. Cũng giống như những
trường hợp đầu tư này, các hoạt động nhân sự tiêu hao đầu vào như thời gian, tiền
bạc, vật tư và sự tham gia của người lao động. Các chi phí của những hoạt động
nhân sự là nguồn tài nguyên cần thiết để tiến hành hạot động đó. Những chi phí này
có thể là chi phí đào tạo, chi phí điều hành và quản lý...
Thứ ba, lập kế hoạch nhân lực cho phép nhìn nhận rõ các bộ phận hoạt động có
ăn khớp với nhau không, đồng thời giải đáp cho doanh nghiệp những vấn đề như:
nguồn nhân lực có phù hợp với chiến lược không, nguồn nhân lực có đảm bảo lợi
thế cạnh tranh và duy trì được lâu dài lợi thế cạnh tranh đó hay không...
Trang 6
Nhìn chung, các doanh nghiệp nên quan tâm vào các nội dung chủ yếu như tuyển
dụng, đào tạo và trả lương cho người lao động sao cho họ có thể sáng tạo ra những
sản phẩm hoàn hảo nhất, cạnh tranh được với các sản phẩm của đối thủ, bất kể các
điều kiện tương lai như thế nào. Để làm được như vậy doanh nghiệp cần phải chú
trọng tới các đặc điểm chung của con người như khả năng sáng tạo, trí thông thông
minh, tính ham hiểu biết, có thể tin cậy được và tận tuỵ với tổ chức. Điều này sẽ dẫn
đến những chiến lược sáng suốt và hiện thực trong tương lai. Mặt khác, việc tìm ra
cách thức tốt nhất để đánh giá đúng năng lực hoàn thành công việc của nhân viên để

thực hiện trả công và đãi ngộ xứng đáng, để nhân viên gắn bó lâu dài với doanh
nghiệp, tích cực tích luỹ kinh nghiệm, phát huy sáng kiến trong công việc để cống
hiến cho doanh nghiệp và cũng chính là để nâng cao lợi ích của chính bản thân họ.
1.2 . Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp
1.2.1. Bản chất, cần thiết phải đảm bảo và phương pháp nhận biết đánh giá chất
lượng nhân lực của doanh nghiệp.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là mức độ đáp ứng, phù hợp về chất
lượng nhân lực theo các loại cơ cấu mà doanh nghiệp thu hút, huy động được với
chất lượng nhân lực theo các cơ cấu nhân lực đó mà hoạt động của doanh nghiệp
yêu cầu. Như vậy cần làm rõ chất lượng nhân lực theo các cơ cấu mà hoạt động của
doanh nghiệp yêu cầu cũng như chất lượng nhân lực theo các cơ cấu mà doanh
nghiệp thu hút, huy động được và chỉ ra mức độ chênh lệch giữa chúng.
Thực tế luôn chỉ rõ rằng, chất lượng nhân lực của doanh nghiệp cao đến đâu thì
hoạt động của doanh nghiệp trôi chảy đến đó; năng lực cạnh tranh của sản phẩm cao
đến đó...
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tiến hành một loạt các hoạt động
một cách khoa học nhất. Công việc nào cũng do con người đảm nhiệm, hoạt động
nào của doanh nghiệp cũng do con người tiến hành. Sản phẩm đầu ra của doanh
nghiệp do một đội ngũ người lao động lo liệu tạo ra. Đa số người lao động ở doanh
nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ được giao một cách say mê, sáng tạo khi họ có trình
độ cao và được tạo động cơ, tức là khi có cơ chế, chính sách sử dụng hấp dẫn, đảm
Trang 7
bảo hài hoà lợi ích. Khi đông đảo người lao động làm việc say mê, sáng tạo sản
phẩm của doanh nghiệp mới có vị thế cạnh tranh tốt về chất lượng, giá, thời hạn,
thuận tiện so với các đối thủ cạnh tranh. Khi sản phẩm đầu ra có vị thế cạnh tranh
tốt doanh nghiệp có doanh thu bằng các đối thủ nhưng có tổng chi phí của doanh thu
đó thấp hơn hoặc với cùng chi phí doanh nghiệp có doanh thu cao hơn, tức là hiệu
quả kinh tế cao hơn. Trong kinh tế thị trường tập thể doanh nghiệp cần có hiệu quả
kinh tế cao bền vững, nghĩa là doanh nghiệp phải đầu tư thoả đáng cho việc đảm
bảo môi trường và mặt chính trị - xã hội. Chỉ khi có môi trường chính trị - xã hội ,

môi trường tự nhiên, môi trường lao động ổn định tốt lành doanh nghiệp mới duy
trì, phát triển được hoạt động kinh doanh, đạt hiệu quả kinh tế cao, bền vững. Để đạt
hiệu quả kinh tế cao bền lâu doanh nghiệp lại càng phải có đội ngũ cán bộ công
nhân viên mạnh đồng bộ. Như vậy, chất lượng nhân lực của doanh nghiệp quyết
định chất lượng của các yếu tố đầu vào, chất lượng của sản phẩm trung gian, chất
lượng của sản phẩm đầu ra, khả năng cạnh tranh của sản phẩm đầu ra và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Càng chuyển sang kinh tế thị trường cạnh tranh giành
giật người tài: chuyên gia quản lý gồm quản lý chiến lược và quản lý điều hành;
chuyên gia công nghệ, thợ lành nghề càng quyết liệt.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp phải xem xét, đánh giá bằng cách xem
xét phối hợp kết quả đánh giá từ ba phía: mức độ đạt chuẩn, chất lượng công việc và
hiệu quả hoạt động của cả tập thể:
- Đánh giá chất lượng nhân lực của doanh nghiệp bằng cách đo lường
theo các tiêu chuẩn và so với mức chuẩn của từng tiêu chuẩn;
- Đánh giá chất lượng nhân lực của doanh nghiệp bằng cách điều tra,
phân tích chất lượng các công việc được phân công đảm nhiệm;
- Đánh giá chất lượng nhân lực của doanh nghiệp dựa vào hiệu quả
hoạt động của cả tập thể.
Đánh giá mức độ đạt chuẩn chất lượng bằng nhiều cách tiếp cận sau:
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu giới tính;
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu khoảng tuổi;
Trang 8
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu trực tiếp - quản lý - phục vụ;
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu ba lực lượng chủ chốt: nghiên cứu
đưa ra ý tưởng - thiết kế - thi công;
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu trình độ chuyên môn trong từng
ngành nghề ...
Để có dữ liệu cho việc tính toán các chỉ tiêu phân tích, so sánh. đánh giá chất
lượng nhân lực của doanh nghiệp cần thống kê toàn bộ nhân lực, tức là tập hợp từng
người của doanh nghiệp về: họ và tên - năm sinh - giới tính - quá trình đào tạo, bồi

dưỡng - Quá trình đảm nhiệm từng công việc chuyên môn và thành tích đáng kể -
công việc chuyên môn chính, chức vụ hiện nay .
1.2.2. Các yếu tố tạo nên, ảnh hưởng (nhân tố) đến chất lượng nhân lực của doanh
nghiệp.
- Một là :Chính sách thu hút và sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
Thực chất chính sách này là phương án phân chia lợi ích giữa sử dụng lao
động, người lao động và các bên có liên quan nhằm có đủ nhân lực đảm bảo
chất lượng để sử dụng và sử dụng tốt nhất, góp phần quan trọng vào việc
thực hiện các mục tiêu, chủ trương hoạt động của cả doanh nghiệp.
- Hai là :Chính sách và tổ chức trả công cho những người có công với doanh
nghiệp. Thực tế ở tất cả các doanh nghiệp người ta chỉ làm việc (lao động)
tích cực sáng tạo khi được đảm bảo đồng thời: công việc có nội dung phù
hợp và thu nhập (đem lại lợi ích) hấp dẫn. Đồng thời việc tổ chức chi trả cho
những người có công với doanh nghiệp phải đảm bảo tương đối công bằng,
hài hoà lợi ích, theo tỷ lệ tham gia đóng góp. Khi doanh nghiệp đáp ứng các
yêu cầu nêu trên có sức thu phục người lao động to lớn, làm cho họ tích cực
sáng tạo, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng tạo nên
ưu thế cạnh tranh của sản phẩm đầu ra, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, phòng ngừa các xung đột.... người lao động sẽ yên tâm công tác và
cống hiến cho doanh nghiệp.
Trang 9
- Ba là: Chính sách và tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động ở
doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn có chất lượng nhân lực cao cần phải đầu
tư cho để nâng cao chất lượng đào tạo. Đào tạo một cách bài bản, khoa học,
theo cơ cấu kiến thức và cách thức thích hợp. Cần lựa chọn đào tạo nâng cao
trình độ cho cán bộ, nhân viên quản lý một cách đồng bộ về cả số lượng và
chất lượng. Hơn thế nữa, đào tạo nâng cao trình độ cho công nhân trong điều
kiện sản xuất công nghệp phát triển là một việc làm vô cùng quan trọng và
phức tạp. người công nhân có trình độ cao là người lao động theo phương
pháp tiên tiến; giỏi nghề chính, biết thêm nhiều nghề khác; thâm nhập nhanh

để vận hành được máy mới; tích cực tham gia cải tiến, sáng kiến kỹ thuật,
phương pháp công tác; không làm hỏng máy móc; không gây ra hỏng hóc
máy móc, sản phẩm, chất lượng lao động đạt được cao, tiết kiệm chi phí vật
tư.
- Bốn là:Môi trường lao động là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên
chất lượng lao động. Môi trường lao động gồm các nhiều nhóm yếu tố hợp
thành như: vi khí hậu, vệ sinh – y tế, thẩm mỹ, không khí tập thể...Trong qá
trình lao động, khi bị tác động bởi những yếu tố không thuận lợi, con người
phải chịu những tổn thất sinh lực to lớn, bị mệt mỏi nhiều... dẫn đến khả
năng lao động và kết quả lao động giảm và ngược lại một môi trường lao
động thoải mái sẽ mang lại hứng khởi cho người lao động, dẫn đến kết quả
kinh tế của công việc cao.
- Năm là :Sự phân công lao động một cách khoa học phù hợp cũng sẽ làm chất
lượng nhân lực của doanh nghiệp tăng. Ngày nay, trong sản xuất kinh doanh
điều rất trọng yếu là phải xác định được yêu cầu về sự tham gia của con
người vào từng công việc cụ thể và trong toàn bộ. Giải quyết tốt vấn đề đó
không chỉ cung cấp dữ kiện quan trọng cho việc chuẩn bị và sử dụng lực
lượng lao động, mà còn góp phần quan trọng vào việc hoàn thành từng công
việc và toàn bộ công việc với chi phí ít nhất, để đảm bảo chất lượng sản
phẩm và thời hạn giao hàng.
Trang 10
- Sáu là:Tổ chức luân đổi lao động với nghỉ ngơi nhằm ngăn ngừa mệt mỏi quá
mức, đảm bảo cho người lao động đạt kết quả cao bền lâu. Trong thực tế có
trường hợp người lao động nhằm có cái để sống, nhưng lại huỷ hoại sự sống
ngay khi lao động. Lao động không hợp lý, không có sự luân đổi nghỉ ngơi
một cách khoa học đem lại hiệu quả lao động và chất lượng lao động thấp.
Nghỉ ngơi nên được xen kẽ hợp lý với lao động là sự cần thiết khách quan.
Do vậy doanh nghiệp cần xây dựng và áp dụng chế độ luân đổi giữa lao động
và nghỉ ngơi hợp lý, khoa học góp phần nâng cao chất lượng nhân lực của
toàn doanh nghiệp.

Ngoài ra ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực của doanh nghiệp gồm cả những
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác như:
- Do thiếu kiến thức, kinh nghiệm về kinh tế thị trường; chậm tổ chức đào tạo, đào
tạo lại về chuyên môn, kiến thức kinh tế và quản lý cả về nội dung, chương trình,
thời gian.
- Cơ chế, chính sách về nguồn nhân lực còn thiếu đồng bộ chưa tạo động lực mạnh
mẽ để chuyển biến, cải thiện chất lượng nhân lực của doanh nghiệp.
- Nguồn nhân lực mới bổ sung, phần lớn từ nông thôn bị sự chi phối, tác động của
tâm lý sản xuất nhỏ, của thói quen tiểu nông.
- Ý thức chính trị của đội ngũ cán bộ công nhân viên có nhiều mặt mạnh, nhưng
đồng thời còn không ít những mặt yếu kém. Nhiều doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp không có tổ chức cơ sở Đảng, Công đoàn, nhận thức chính trị của một số lao
động sản xuất công nghiệp yếu.
- Thiếu vốn và sử dụng vốn đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
- Nhiều doanh nghiệp chưa có chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công nhân thực sự
giỏi, thu hút nhân tài.
- Điều kiện làm việc của người lao động mặc dầu được cải thiện, tuy nhiên đa phần
tập trung ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Trang 11
- Nhiều địa phương, việc phát triển công nghiệp nhanh nhưng thiếu đồng bộ dẫn tới
thiếu nhân lực, nhất là cán bộ quản lý giỏi và công nhân lành nghề.
Như trên đã phân tích, nguồn nhân lực có vai trò rất lớn đối với sự phát triển
của nền kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng. Tuy nhiên, nguồn nhân lực hiện nay của Việt Nam vẫn đang có những tồn tại
đáng quan tâm như: tỷ lệ lao động được đào tạo còn ít, trình độ chuyên môn của
người lao động chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế và không cân đối. Tức
là, thách thức lớn nhất gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực không chỉ trong
tương lai mà ngay cả hiện tại chính là chất lượng lao động. Trong năm 2002, chỉ có
khoảng 15% dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ chuyên môn, kỹ thuật- một con số
quá thấp so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tình

trạng này còn trầm trọng hơn ở khu vực nông thôn, với trên 90% dân số không có
bất kỳ trình độ chuyên môn kỹ thuật nào. Tính đến hết năm 2004, tỷ lệ lao động qua
đào tạo của nước ta mới đạt trên 22,5% (tăng 1,5% so với năm 2003), trong đó tỷ lệ
qua đào tạo nghề đạt 13,3%. Tính theo thang điểm quốc tế, trình độ chuyên môn của
người lao động Việt Nam chỉ đạt 17,86/60 điểm. Vì thế, dù đó đây xuất hiện tình
trạng “thừa thầy” nhưng phần lớn người sử dụng lao động phải đào tạo lại khi sử
dụng. Chủ trương của Nhà nước là phấn đấu mỗi năm đào tạo trên 1 triệu lao động,
trong đó có 200.000 lao động đào tạo có chất lượng cao và đến năm 2010 sẽ có 40%
lao động đã qua đào tạo nghề. Ước tính, trong vòng 10 năm tới, chúng ta cần tạo
công ăn việc làm cho gần 18 triệu người bước vào tuổi lao động, đa số xuất phát từ
các vùng nông thôn, nơi vẫn duy trì mức sinh cao hơn so với vùng thành thị. Nhưng
sẽ chỉ một phần nhỏ trong số này có thể tìm được việc làm bằng hình thức thế chỗ
những người đã đến tuổi nghỉ hưu và thôi lao động. Riêng năm 2005, nước ta có 43
triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó có 32 triệu lao động nông thôn, 2,5 triệu
người có nhu cầu giải quyết việc làm. Trong khi đó, số người thất nghiệp ở nước ta
dù đã giảm, nhưng vẫn còn rất đáng lo ngại. ở vùng đô thị: năm 2001 là 6,28%; năm
2002 là 6,01%; năm 2003 là 5,78%; năm 2004 là 5,53%. Mặt khác công tác đào tạo
nghề của chúng ta hiện nay vẫn còn tồn tại không ít bất cập. Chẳng hạn như việc
quy hoạch hệ thống các trường, các cơ sở dạy nghề còn chưa phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội; quy mô, năng lực đào tạo còn quá nhỏ bé so với nhu
Trang 12

×