A. MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá là một xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại. Hiện nay,
toàn cầu hoá tạm thời do các nước tư bản phát triển, đang phát triển và chuyển đổi
nền kinh tế thì hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo ra rất nhiều cơ hội thuận lợi trong
việc thúc đẩy phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và tất nhiên cũng đặt ra không ít
thách thức.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc đẩy mạnh tham gia hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới là một nội dung khía cạnh quan trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài "Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế - một nhiệm vụ trọng tâm của nước ta hiện nay".
Nhân đây, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Hữu Thực đã tận tình hướng
dẫn em hoàn thành đề án này.
Trang 1
B NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TOÀN CẤU HOÁ KINH TẾ VÀ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về toàn cầu hoá.
Trong hơn một thập kỷ trở lại đây xu thế toàn cầu hoá gia tăng ngày càng
mạnh mẽ.Và cùng với điều đó là những cách lý giải và thái độ không giống nhauđối
với xu thế này.
Có quan điểm cho rằng toàn cầu hoá chỉ mới xuất hiện gần đây. Toàn cầu
hoá được hiểu làchính sách của Mĩ nhằm bành trướng quyền lực,thống trị thế giới
theo kiểu Mĩ,thưc chất toàn cầu hoá là Mĩ hoá.Quan niệm này đã đẩy tới thái độ
phải chống lại quá trình này nhằm đảm bảo cho sự phát triển độc lập,đa dạng của
các quốc gia.
Loại quan điểm thứ hai là quan điểm thừa nhận tính tất yếu khách quan của
quốc tế hoá,toàn cầu hoá.Nhưng trong quan điểm này cũng có nhiều ý kiến khác
nhau:Có người cho rằngtoàn cầu hoá xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ
những mối liên hệ sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau phụ thuộc lẫn nhau của tất cả
các khu vực, các quốc gia các dân tộc trên toàn thế giới ;có người lại cho rằng :
“Toàn cầu hoá là giai đoạn cao của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất trên
thế giới,là kết quả tất yếu của phát triển kinh tế thị trường và khoa học công nghệ”
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá nhưng điểm quan
trọng mà ta nhận thấy là toàn cầu hoá không chỉ là quá trình phản ánh sự gia tăng
của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau mà nét quan trọng hơn là phản ánh qui mô
của các hoạt động liên quốc gia.Từ đó ta có thể đưa ra môt khái niệm mang tính chất
khái quát về toàn cầu hoá: “Toàn cầu hoá là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ
gắn kết,tác động phụ thuộc lẫn nhau,là quá trình mở rộng qui mô và cường độ hoạt
động giữa các khu vực,các quốc gia các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận
động phát triển”
Trang 2
Với quan niệm như vậy thế giới hoá cũng có nghĩa là toàn cầu hoá và quốc tế
hoá được xem như giai đoạn trước đó của toàn cầu hoá. Quốc tế hoá,toàn cầu hoá là
một quá trình,và vì vậy nó khác với các vấn đề toàn cầu. Tham gia vào quá trình
quốc tế hoá,toàn cầu hoá chính là thực hiện hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính
trị,văn hoá,xã hội v.v...Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế nổi
trội nhất,nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực
khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung.Giống như khái niệm toàn cầu hoá thì cũng
có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá kinh tế.Sau đây là khái niệm phổ
biến nhất: “Toàn cầu hoá kinh tế chínhlà sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động
kinh tế vựt qua mọi biên giới quốc gia,khu vực,tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới
thống nhất.sự gia tăng của xu thế nàyđược thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô
mậu dịch thế giới,sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn
cầu.”
1.2 Khái niệm khu vực hoá.
Cùng với toàn cầu hoá và bổ sung cho toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá.
Xu thế khu vưc hoá vừa là sự thể hiện vừa là sự phản ứng đối với xu thế toàn cầu
hoá.Trong quan hệ với toàn cầu hoá thì xu thế khu vực hoá được xem là bước chuẩn
bị để tiến tới toàn cầu hoá,mặt khác khu vực hoá hiện nay phản ánh một thực trạng
co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương đồng giữa một vài quốc gia trước những
nguy cơ,những tác động tiêu cực do toàn cầu hoá đăt ra.
Khu vực hoá phản ánh sự khác biệt,mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia
khu vực trong một thế giới đa dạng,trong đó sự hợp tác liên kết quốc tế ngày càng
tăng lên nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia,dân tộc,khu vực cũng rất gay gắt
quyết liệt.
Khu vực hoá có nhiều mức độ khác nhau tư một vài nước và một vài vùng
lãnh thổ đến nhiều nước tham gia vào một tổ chức nhằm hỗ trợ cho nhau trong phát
triển, tận dụng nhưng ưu thế của khu vực trong quá trình tham gia nền kinh tế toàn
cầu.
1.3. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Trang 3
Các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng kinh tế đơn thuần ma luôn
gắn liền với một hệ thôngs chính trị là nền tảng của nó. Về mặt thực tiễn rõ rằng ở
quốc gia nào cũng vậy, người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi
ích của quốc gia đó cả về kinh tế, chính trị xã hội được đảm bảo. Với cách tiếp cận
này có thể hiểu hội nhập kính tế quốc tế không chỉ la quá trình tham gia vào các tổ
chức kinh tế quốc tế mà còn được biểu hiện trong bản thân hệ thống chính sách
thương mại, chính sách phát triển kinh tế của mỗi nước. Như vậy có thể xác định
hội nhập kính tế quốc tế là việc các nước đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà
họ có thể thống nhất được với nhau, kể cả dành cho nhau nhưng ưu đãi, tạo ra
nhưng điều kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau... nhằm khai
thác các khả năng lẫn nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình.
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy định
đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ
ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói chung đều hoạt
động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
- Công bằng: các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của mình và
chung cho mọi nước (nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các công ty các nước
đối tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung); đồng thời không phân biệt
chính sách thương mại giữa các công ty: mọi chế độ chính sách liên quan đến
thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải bình đẳng giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài nước, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa.
- Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm công cụ bảo hộ
cho nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy phép, quota, hạn
ngạch xuất nhập khâu... đều không được sử dụng, các biểu thuế này đều phải có lộ
trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do hoá hoàn toàn (thuế suất bằng
0%).
- Làm ăn hay thương lượng với nhâu phải trên cơ sở có đi có lại: khi nền
kinh tế thịt rường của một nước thành viên bị bị hàng nhập khâu đe doạ thái quá
hoạc bị những biện pháp phận biệt đối xử gây hại, thì nước đó có quyền khước từ
một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn cấp cần thiết, được các
nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi cua nền kinh tế trong nước.
Trang 4
- Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư.
Với các điều kiện và nguyên tắc trên, nước “ đi sau” như nước ta có nhiều
thuận lợi, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng phải
chịu rất nhiều khó khăn thách thức, mà quan trọng hàng đầu là bảo hộ nền sản xuất
trong nước và các doanh nghiệp việt nam, nhất là các doanh nghiệp mới “chân ướt
chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Đây khong chỉ đơn thuần là việc bảo hộ
thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự
do hoá. Không thể có hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá kinh tế, đây là một
đặc điểm mới của xu thế toàn cầi hoá ngày nay. Vấn đề quan trọng trong việc hội
nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do hoá như thế
nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế để có thể phát huy được các thế
mạnh của đất nước, tận dụng được những ưu thế của hợp tác quốc tế, tạo rá sự phát
triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia, nâng cao vị thế của mình trong phân công
lao động quốc tế.
2. Các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế
Nhiều thế kỉ trước, những tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải, công nghệ đóng
tàu, khai phá giao thông, những phát triển của thị trường hàng hoá đã tạo điều kiện
mở mang giao lưu buôn bán giữa các quốc gia. Trải qua quá trình phát triển lâu dài,
quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng trở nên phổ biến, bao quát nhiều lĩnh vực với
nhiều hình thức. Đặc biệt vài chục năm gần đây xuất hiện những yếu tố kinh tế kỹ
thuật rất mới dẫn đến bước phát triển nhảy vọt cua toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế.
Sau đây là 6 yếu tố cơ bản thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá:
2.1. Sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
Thực tiển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước quá độ từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, điều này được thể hiện rõ ở các quốc gia phát
triển. Cùng với nó các quốc gia đang phát triển cũng đã kết hợp bước chuyển nông
nghiệp lên công nghiệp kết hợp những bước nháy tắt để rút ngắn quá trình xây dựng
những cơ sở của nền kinh tế tri thức.
Trang 5
Sự phát triển của kinh tế tri thức dự trên các công nghệ có hàm lượng khoa
hoc kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận lợi cho sự
đẩy nhanh xu thế toàn cầu hoá, ví dụ như: các công nghệ mới làm tăng tốc độ giao
dịch kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian. Công nghệ thông
tin đồng thời cũng góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ
phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở của, giao lưu hội nhập.
Tóm lại, chính sự phát triển như vũ bảo của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ
hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người trên tất cả các mặt giãu
các quốc gia. Điều này đã đẩy quốc tế hoá nền kinh tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ
toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Cac quốc gia dù muốn hay không dều chịu tác
động của của quá trình toàn cầu hoá và đương nhiên để tồn tại và phát triển trong
điều kiện hiện nay không thế không tham gia quá trình toàn cầu hoá, tức là hội nhập
quốc tế.
2.2. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thi trường
Qua trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá có sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình phát
triển của kinh tế thi trường. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều kiện cho sự
gia tăng xu thế quốc tế hoá, thể hiện trên hai khía cạnh chính: Thứ nhất, kính tế thị
trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho quy
mô sản xuất không bó hẹp trong phạm vi cua từng quốc gia mà mang tầm quốc tế,
như vậy cũng có nghĩa là thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, gắn các
quố gia vào sự ràng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Thứ hai, nền kinh tế thi trường
phát triển của các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho sử lý các mối quan hệ, đó
là cơ chế thị trường.
Có thể nói, ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất với cơ chế vận hành : cơ
chế thi trường.
Kinh tế thi trườngcàng phát triển thì sự giao thoa thâm nhập lẫn nhau giữa
các nền kinh tế càng tăng. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường không chỉ ở
sự mở rộng qui mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn nhâu giữa các
quốc gia mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu. Đó là sự bùng nổ phát triển
của thi trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới trong
thanh toán giao dịch. Thi trường sản phẩm hàng hoá cũng gia tăng mạnh mẽ thể hiện
Trang 6
ở qui mô chưa từng có của khối luqongj giao dich thương mại và ở sự phát triển của
các dang giao dịch mới như thương mại dịch vụ và điện tử.
Như vậy có thể thấy sư phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường chínhlà cơ
sở, điều kiệncho quá trình quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới ngày
nayđèu dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương tiện và công cụcủa kinh tế
thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian rộng lớn, không gian
toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyểncác yếu tố của chính quá trình sản
xuất ấy,
2.3 Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết thúc
chiến tranh lạnh bước vào thời kì hoà bình hợp tác và phát triển.
Trong vài thập niên trở lại đây nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ nhưng
kéo theo đó là những vấn đề mang tính chất toàn cầunhư sự phân hoá giàu nghèo, sự
ô nhiễm môi trường, dịch bệnh...Những vấn đề này liên quan đến mọi quốc gia, có
tác động trên phạm vi toàn thế giới, nó quyết định sự phát triển tồn vong của toà thể
cộng đồng nhân loại.
Do đó khi giải quyết các vấn đề mang tính chất toàn cầu phải có sự nỗ lực
của mọi quốc gia, sự liên kết sức lực của cả cộng đồng. Bản thân mỗi quốc gia cho
dù tiềm lực mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết nổi vấn đề liên quan đến toàn
thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan qui định , thúc đẩy cho việc tiến tới thống
nhất những qui phạm chung cho quá trình phát triển kinh tế.
2.4 Sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia
Với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn
đến sự tâp trung sản xuất và dẫn đến độc quyên. Trong lịch sử của nền sản xuất thế
giớivào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21 này dưới sự
tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuậtđã đưa lại sự phát triển chưa từng có
của các công ti xuyên quốc gia.
Đến nay có gần khoảng 60000 công ti xuyên quốc gia đang kiểm soát 2/3 nền
thưong mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ thế giới. Với sức mạnh như vậy các công ti
xuyên quốc gia không những có ưu thế trong phân phối tài nguyên trên phạm vi thế
giới giúp cho việc thúc đẩy phân công lao động quốc tếđi vào chi tiết hoá mà còn
Trang 7
thông qua việc toàn cầu hoá sản xuất và kinh doanh để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu
hoá kinh tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của các công ti xuyên quốc gia trên địa phận toàn cầu
đã tạo ra mạng lưói liên kết kinh tế quốc tế. Các quốc gia có thể tham gia ngay vào
dây chuyền sản xuất quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau gia
tăng.
Các công ty xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất lớn trong việc tăng mức xuất
khẩu, gia tăng mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nứoc ngoài vào các nước đang phát
triển đẩy mạnh tiến trinhf hội nhập của nền kinh tế này vào nền kinh tế thế giới nói
chung.
Như vậy sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh của các công ty xuyên
quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phần xoá bỏ sự ngăn cách biệt lập trong
phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc từng bước thamm
gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế đồng thời nó cũng đem lại
nét mới từ những bản sắc riêng, bổ sung vào nền kinh tế toàn cầu làmm gia tăng tính
đa dạng của nó.
2.5 Sự hình thành và phát triển của các định chế toàn cầu và khu vực.
Các định chế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế hoá,
toàn cầu hoá kinh tế. Sự tồn tại và hoạt động của các định chế toàn cầu và khu vực
lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế toàn cầu hoá.
Trong các tổ chức kinh tế- thương mại-tài chính toàn cầu và khu vực có ảnh
hưỏng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá phải kể đến ƯTO, IMF, ƯB và
các tổ chức khu vực khác như EU, NAFTA, APEC...Với các mục tiêu chức năng
của mình các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy các hoạt động kinh tế
quốc tế, điều phối và quản lí các hoạt động này. Cho dèu tính hiệu quả của các tổ
chức này còn đựoc đánh giá khác nhau xuất phát từ quan điểm lợi ích quốc gia, song
không ai không thừa nhận sự cần thiết và vai trò của chúng, thậm chí đang đặt ra
yêu cầu về hoàn thiệncơ cấu tổ chức, đổi mới nguyên tắc hoạt động của chúng.
Tác động của các tổ chức toàn cầu và đặc biệt là các tổ chức khu vực đến xu
thế toàn cầu hoá kinh tế thể hiện ở hai điểm chính:
Trang 8
-Thứ nhất, việc tham gia vào các tổ chức này cho phép các quốc gia đựoc
hưỏng những ưu đãi của hoạt động kinh doanh khu vực; thúc đẩy các quốc gia trong
khu vực tiến đến những chuẩn mực chung trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Trên cơ sở các thoã thuận hợp tác song phương và đa phươngđã làm tăng lên
sự gắn bó tuỳ thuộc lân nhau giữa các nền kinh tế, thực chất nó đã thúc đẩy phân
công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc trong nội bộ tổ chức.
-Thứ hai hoạt động của các tổ chức này từ thấp đến cao sẽ đẩy đến hình
thành một thị trường thống nhất trong khu vực buộc các quốc gia tham gia phải có
lịch trình hội nhập tích cực để hoà đồng vào khu vực.
Nói tóm lại các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là
động lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
2.6 Vai trò của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát triển.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của toàn cầu hoá phụ thuộc
rất nhiều vào chính sách của các quốc gia. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất thì việc
đóng cửa đất nước không giao lưu thông thương với nưocs ngoài của các quốc gia
đã làm cho lưu thông quốc tế bị hạn chế nền kinh tế thế giới suy thoái mạnh.Nhưng
từ sau chiến tranh thế giới thứ haithì các quốc gia phát triển đã nhận thấy vấn đề cần
phải tự do háo thương mại, giảm các hàng rào thuế quan nhằm bành trướng thế lực
ra bên ngoài. Và cho đến naythì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tiến hành cải
cách mở cửa, thực hiện tư nhân hoá và tự do hoá mở ra không gian mới cho sự gia
tăng xu thế toàn cầu hoá. Đặc biệt trong quá trình cải cách nhiều quốc gia đã chuyển
hướng phát triển kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại mà cốt lõi là chuyển từ
công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Với chiến lượccôngnghiệp hoá hướng về xuất khẩu buộc các quốc gia phải
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế không chỉ phải dựa vào nhu
cầu bên trong mà phải căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới, sản xuất sản phẩm và
dịch vụ phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của thị trường quốc tế. Muốn vậy đòi hỏi
các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế, cho nhập các thành tựu công nghệ, thu hút
vốn đầu tư để xây dựng và phát triển một cơ cấu ngành kinh tế phù hợp. Như vậy
với chiến lược hướng về xuất khẩu, trên thực tế đã đẩy đến xu thế gắn bó phụ thuộc
Trang 9
lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa các nền kinh tế thông qua thực hiện phân công lao
động quốc tế dựa trên thế mạnh của từng nền kinh tế đân tộc.
Ngoài những nhân tố đã nêu trên thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá
trong những năm gần đây chúng ta còn có thể kể đến một số nhân tố khác xem như
xung lực đẩy mạnh thêm cho xu thế toàn cầu hoá. Đó là sự phát triển về dân chủ,
văn hoá...
3. Triển vọng phát triển toàn cầu hoá và hội nhập KTQT
3.1. Toàn cầu hoá không còn là âm mưu của các nước tư bản phát triển
nhằm thôn tính thế giới
Chúng ta đã biết rằng sau chiến tranh lạnh thế giới vận động theo trật tự đa
cực với một siêu cường là Mỹ. Với sức mạnh của mình Mỹ đóng vai trò chi phối
bàn cờ thế giới. Suốt những thập kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 Mỹ luôn
chiếm 30% GDP thế giới. Và đến khi cường quốc Xô Viết sụp đổ thì Mỹ thực sự trở
thành một siêu cường duy nhất, Mỹ đã xúc tiến một chiến lược nhằm đề cao vai trò
lãnh đạo của mình. Mưu đồ của Mỹ là "không để có một kẻ thách thức nào ở lục địa
Âu - Á nổi lên có đủ khả năng thống trị nơi đây và thách thức nước Mỹ. Mỹ muốn
quy tụ toàn thế giới vào vòng ảnh hưởng, chịu sự chỉ huy, điều khiển của mình.
Trong lĩnh vực kinh tế, Mỹ thao túng các định chế kinh tế toàn cầu, đòi các
quốc gia phải mở rộng cửa thị trường, tham gia hội nhập vào bàn cờ kinh tế quốc tế
theo các luật chơi đã được định sẵn xuất phát từ nhu cầu, lợi ích và quan niệm chuẩn
mực giá trị lối sống Mỹ. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến đã đồng nhất
toàn cầu hoá với Mỹ hoá.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của nền kinh tế tư bản ta thấy bản thân các nền
kinh tế này cũng đã trải qua thời kì bảo hộ cao chống lại sự xâm naâpj từ bên ngoài.
Nhưng do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã đặt ra nhu cầu mở rộng
giao tiếp và mở rộng thị trường ngoài biên giới.
Sự phát triển CNTB của Mác đã chỉ ra luôn bị hai giới hạn bởi thị trường và
nguyên liệu, cho nên xu hướng bành trướng tìm kiếm thị trường và nguyên liệu có
nguồn gốc trong kết cấu phát triển của CNTB. Việc tạo ra sự phát triển vượt bậc của
lực lượng sản xuất trong CNTB so với các xã hội trước đó cũng chính là cơ sở, là
điều kiện cho quá trình bành trướng ra bên ngoài.
Trang 10